CHƯƠNG BỐN & NĂM
Chính bầu trời đã mở màn cho chuỗi sự kiện kỳ lạ suốt phần còn lại của ngày hôm ấy. Khi ba đứa trẻ nhà Drew đi dọc Mũi Kemare quay về bến cảng thì mặt trời đã ở rất cao trên đầu chúng nhưng không tỏa ra một chút hơi ấm nào, vì trong khi mặt trời lên cao thì một màn sương mờ cũng bắt đầu kéo đến. Chỉ một lát sau màn sương đã bao phủ hết cả bầu trời, và mặt trời lơ lửng trên đó, vừa quen thuộc vừa lạ lùng, tựa như một quả cam phủ lông.
“Sương nóng đấy thôi,” Simon nói khi Jane chỉ cho nó thấy. “Hôm nay sẽ đẹp trời cho mà xem.”
“Em không biết,” Jane nghi ngại nói. “Em thấy nó cứ là lạ thế nào ấy, giống như điềm báo nguy hiểm thì đúng hơn...”
Đến khi chúng ăn xong một bữa sáng thịnh soạn ở nhà do bà Penhallow đang ngái ngủ chuẩn bị thì màn sương đã dày thêm lên.
“Nó sẽ tan đi thôi,” Simon nói. “Khi mặt trời lên cao hơn.”
“Em ước gì Ông Merry quay về,” Jane nói.
“Đừng lo nữa. Will Stanton cũng chưa về, chắc là hai người đang nói chuyện với bác Penhallow hay là ai đó. Mà sáng nay mày làm sao thế?”.
“Cần được ngủ một giấc,” Barney nói. “Tội nghiệp chị ấy. Cả đêm không ngủ.”
“Tội nghiệp cái quái gì chứ,” Jane nói, nhưng chưa kịp dứt lời thì đã ngáp một cái thật to.
“Chị thấy chưa?” Barney đắc thắng bảo.
“Chắc là em nói đúng.” Jane đấu dịu nói, và em đi lên phòng, đặt đồng hồ báo thức để một tiếng nữa nó sẽ đánh thức em dậy.
Khi tiếng chuông báo thức chói tai reo vang trong đầu, em thức dậy mà chẳng hiểu ra làm sao cả. Mặc dù rèm cửa đang kéo ra, trong phòng vẫn lờ mờ tối. Trong một thoáng Jane ngỡ đang là đêm, và em đã dậy sớm, nhưng rồi trong đầu em hiện ra hình ảnh Phù Thủy Xanh đang rơi, rơi xuống mặt biển buổi sớm, và em hốt hoảng nhảy vội ra khỏi giường. Bầu trời bên ngoài chở nặng những đám mây đen; em chưa bao giờ thấy cái gì giống như thế. Ánh sáng lờ mờ đến nỗi như thể hôm đó mặt trời không hề mọc vậy.
Simon và Barney đang ngồi với nhau ở dưới nhà, lo lắng nhìn lên trời. Jane biết là sáng sớm hôm đó ông bà Stanton đã rời Trewissick để tham quan các mỏ đất sét trong hai ngày, và hai anh em báo rằng bà Penhallow đã đi ngủ. Còn Merriman và Will Stanton thì vẫn chẳng thấy đâu.
"Nhưng ông Gumerry đang làm gì mới được chứ? Hẳn đã xảy ra chuyện gì rồi!”
“Anh không biết bọn mình có thể làm gì nữa ngoài việc ngồi đợi.” Simon giờ cũng đâm ra ủ rũ “Ý anh là, bọn mình có thể đi tìm ông, nhưng bắt đầu từ đâu bây giờ?”
“Ngôi nhà Xám,” Barney đột nhiên nói.
“Ý kiến hay đấy. Đi nào, Jane.”
*“Có vẻ là hắn đã giả dạng một họa sĩ” Will nói với Merriman trong khi họ quay trở lại dọc theo Mũi Kemare, đằng sau những người dân làng hớn hở cuối cùng còn nấn ná lại. “Một người ngăm ngăm đen, chiều cao trung bình, có mái tóc dài, và rõ ràng là có một tài năng thực sự nhưng cũng rất độc địa. Một thử thách hay đây.”
“Sự độc địa có lẽ là không chủ định” Merriman nghiêm nghị nói. “Ngay cả các chúa tể vĩ đại nhất của Bóng Tối cũng không thể ngăn bản chất thật của mình len lỏi vào cái vỏ ngụy trang của chúng.”
“Ông nghĩ hắn là một trong những chúa tể vĩ đại sao?”
“Không. Không, gần như chắc chắn là không. Nhưng cậu kể tiếp đi.”
“Hắn đã tiếp xúc với bọn trẻ rồi. Với Barney. Và có cả một vật tổ nữa... hắn đã lấy cắp bức tranh bến cảng mà Barney vẽ.”
Ông Merriman khẽ rít lên qua hai hàm răng. “Ta biết hắn lấy bức tranh ấy làm gì rồi. Ông bạn của chúng ta đã vượt xa chúng ta hơn là ta dự kiến. Đừng bao giờ đánh giá thấp phe Bóng Tối, Will ạ. Lần này suýt nữa thì ta đã làm vậy đấy.”
“Hắn cũng đã bắt Rufus, Con chó của Thuyền Trưởng Toms,” Will nói tiếp. “Hắn để lại một mẩu thư cảnh cáo rằng con chó sẽ chết nếu ông thuyền trưởng lại gần Phù Thủy Xanh... và hắn cẩn thận để cho cả Barney nhìn thấy bức thư nữa. Một lá thư khủng bố rất đúng kiểu. Nếu sau đó Thuyền Trưởng Toms mà đi lên Mũi Kemare thì Barney sẽ nghĩ ông ấy đang tâm giết chết con chó của mình... Tất nhiên phe Bóng Tối biết rằng chúng chỉ có thể giữ không cho một Cổ Nhân đến gần nghi lễ, nhưng việc đó có thể đã giúp ích cho chúng rất nhiều... Rufus là một con chó tuyệt vời, phải không ạ?” Trong chốc lát, giọng của Will không phải là của một Cổ Nhân không có tuổi mà là của một cậu bé đầy nhiệt tình.
Vẻ lo lắng trên gương mặt dãi dầu mưa nắng, đầy nếp nhăn của Merriman giãn ra thành một nụ cười. “Rufus cũng đã góp phần vào việc tìm được chiếc chén Thánh hè năm ngoái. Nó có tài nói chuyện với người thường hơn phần lớn các con vật bốn chân khác.”
Ở cuối mũi đất đầy cỏ, đám dân làng quay xuống dốc để đi về bên rìa bến cảng và con đường chính của làng. Merriman dẫn Will đi thẳng tới trước, đến chỗ con đường cao nhìn xuống bến cảng. Sau khi dừng lại nhường đường cho mấy người phụ nữ mệt phờ sau một đêm đan kết Phù Thủy Xanh, họ băng qua đường để đến chỗ ngôi nhà hẹp quét vôi xám vươn cao hơn tất cả những căn nhà còn lại trong dãy. Merriman mở cửa trước, và họ bước vào.
Một cái hành lang dài trải ra trước mặt họ, lờ mờ trong ánh nắng ban mai. Từ ô cửa mở bên phải, Thuyền Trưởng Toms gọi vọng ra: “Ở trong này."
Đó là một căn phòng rộng đầy những giá sách, ghế bành, tranh vẽ thuyền buồm; ông thuyền trưởng đang ngồi trong một chiếc ghế bọc da, chân phải duỗi dài. Bàn chân của ông, quấn băng và xỏ dép đi trong nhà, gác lên một cái ghế đẩu thấp cũng bọc da. “Bệnh gút đấy," Thuyền Trưởng Toms nói với Will như xin lỗi. “Chốc chốc nó lại tái phát. Người ta bảo đó là dấu hiệu của tuổi trẻ đã bị uổng phí. Nó làm ta tê liệt, hiệu quả không kém gì bất kỳ quý ông Bóng Tối nào…nếu ông bạn của chúng ta biết trước được tương lai thì hắn đã chẳng phải bắt cóc Rufus tội nghiệp làm gì.”
“Tôi nghĩ đó là một khả năng mà hắn không có” Merriman nằm duỗi ra trên chiếc sofa dài, khẽ thở phào. “Tôi không hiểu tại sao, bởi vì rõ ràng là hắn có địa vị khá cao. Có lẽ đó là một điều hắn không dám đem ra thực hành chăng? Dù sao thì việc đánh cắp chiếc chén Thánh, việc hắn chú tâm đến chuyện tiếp xúc với bọn trẻ, đặc biệt là Barney... tất cả đều dẫn đến cùng một hướng.”
Thuyền Trưởng Toms trầm ngâm đưa một ngón tay lên xoa xoa chòm râu xám tỉa ngắn. “Ông nghĩ là hắn có ý định bắt thằng bé nhìn vào chiếc chén, để chỉ cho hắn thấy tương lai... một kiểu tiên tri cổ chăng?... Có thể thế lắm.”.
Will hỏi, “Nhưng liệu đó có phải là điều hắn muốn trước tiên không?”
“Cho dù có đúng thế hay không, thì chúng ta cũng cần để mắt trông nom Barney hết sức cẩn thận.”
“Cháu sẽ không rời nó một bước,” Will nói. “Nó sẽ bực mình lắm đây.” Cậu bồn chồn đi đi lại lại quanh phòng, nhìn chằm chằm vào những bức tranh nhưng tâm trí ở tận đẩu đâu. “Nhưng phe Bóng Tối đang ở đâu? Hắn đang ở đâu? Cháu nghĩ là không ở xa lắm.”
“Ta cũng có cảm giác tương tự.” Thuyền Trưởng Toms khẽ nói từ chiếc ghế. “Hắn đang ở khá gần. Ngay sau lúc mặt trời mọc ta đã cảm thấy hắn đi qua ngôi nhà, rất nhanh, và từ đó đến giờ ta luôn thoáng thấy sự hiện diện của hắn quanh đây.”
“Đó là khi hắn cố tìm cách đến gần Phù Thuỷ Xanh, trước khi họ ném nó xuống biển,” Merriman nói. “May cho chúng ta là hắn đã không làm được, nếu không thì Phù Thủy Xanh biết đâu đã đáp lại rồi. Các ngư dân đã kéo hắn đi... họ rất công phẫn, và khá là mạnh tay... Tôi đã đi theo họ vào làng, cho đến khi họ thả hắn ra. Rồi sau đó hắn đã tự phủ một cái bóng lên mình, làm tôi bị mất dấu. Nhưng đúng vậy, hắn đang ở rất gần. Ta có thể có nhận được ác tâm của hắn.”
Will bất thần dừng phắt lại, người cứng đờ như con chó săn đánh hơi thấy mồi. Merriman vội vã nhấc đôi chân dài khỏi chiếc sofa và đứng lên. “Có chuyện gì vậy?”
“Ông có cảm thấy gì không? Có nghe thấy gì không?”.
“Hình như ta có cảm thấy cái gì đó. Cậu nói đúng." Thuyền Trưởng Toms cà nhắc đi đến bên cánh cửa, tựa người vào cây gậy của mình. “Ra ngoài này, nhanh lên."
Tiếng chó sủa vang lên trong khi họ băng qua tiền sảnh, và trong khi họ đứng trên bậc thềm của Ngôi nhà Xám thì tiếng sủa càng to hơn, gần hơn, điên cuồng cuống quít như một con chó đòi được tự do. Bầu trời xám như chì, và ánh sáng ban ngày đã trở nên âm u, mờ đục. Dọc theo con đường chạy từ làng đến, từ dưới chân đồi nơi bến cảng và dải đê chắn sóng bắt đầu, một mớ lông đỏ đang lao vùn vụt về phía họ, hình dáng tối sẫm của một gã đàn ông chạy theo sau nó.
Will kêu lên, giọng thất thanh vì hốt hoảng, “Nhưng nhìn kìa... bọn trẻ!”
Họ nhìn thấy Simon, Jane và Barney vùng chạy bên rìa kè đá dọc theo mép con đường ở bến cảng, đầy phấn khích, chưa nhìn thấy Rufus nhưng hăm hở chạy theo tiếng sủa của nó. “Rufus!” Barney sung sướng reo lên. “Rufus!”.
Ba Cổ Nhân đứng không nhúc nhích, chờ đợi.
Trong khi Rufus mừng rỡ lao qua khúc quanh về phía bọn trẻ, họ thấy gã đàn ông đen đủi nọ giơ một tay lên. Con chó bỗng đứng sững lại giữa không trung, bất động, và rơi xuống tựa một khúc gỗ ngay trên đường lũ trẻ đang chạy. Simon, bị mất thăng bằng do không kịp tránh sang bên, vấp phải nó và ngã mạnh xuống đất. Nó nằm im lìm. Jane và Barney đứng sững lại, kinh hoàng. Gã đàn ông có mái tóc sẫm màu lại gần chúng, dừng lại, giơ một tay lên chỉ vào Barney....
Chỉ có Simon là nhìn thấy. Nằm trên mặt đất, đối diện với ngọn đồi, dần tỉnh lại sau cú choáng lúc ngã xuống, nó chớp chớp mở cặp mắt đang còn nảy đom đóm ra. Và nó nhìn thấy, hoặc ngỡ là mình nhìn thấy, ba dáng người sáng rực trong một quầng sáng trắng loá. Họ vút lên và phình to ra, ánh sáng rực rỡ từ họ làm mắt Simon chói lòa; dường như họ đang phình ra về phía nó, và nó nhắm nghiền mắt lại trước ánh sáng đang chích vào đau nhói. Đầu nó vẫn kêu ong ong, nó vẫn chưa tỉnh hắn. Sau này nó đã tự nhủ rằng đó chỉ là do tưởng tượng, là sự choáng váng sau một cú va chạm mạnh. Nhưng nó không bao giờ quên được cái cảm giác kinh sợ mạnh mẽ bao trùm lên nó lúc ấy.
Còn Jane và Barney, đang đứng bất động, hoảng sợ nhìn chằm chằm gã đàn ông tóc đen đang tiến lại sát chúng, thì chỉ nhìn thấy vẻ mặt hắn thay đổi thật khủng khiếp khi hắn bất thình lình quay ngoắt lại, rời khỏi chúng, dưới tác động của một sức mạnh vô hình nào đó. Gầm gừ trong cơn thịnh nộ hiểm ác, hắn dường như đang vật lộn trong cuộc chiến đấu vô cùng kịch liệt với... chẳng với cái gì. Thân người hắn không hề chuyển động; cuộc chiến chỉ diễn ra trong mắt hắn và trên cái miệng mím chặt thành một đường kẻ lạnh lùng. Khoảnh khắc chờ đợi đằng đẵng kinh khủng trôi qua khi dáng người đen đủi ấy cứng đờ lại, vặn vẹo dữ dội bên dưới ánh sáng xám xịt của bầu trời tối sẫm. Rồi dường như có cái gì bên trong hắn gẫy gục, và hắn quay ngoắt đi không kịp liếc nhìn lại chúng; lao đi và biến mất.
Rufus nhúc nhích, rên ư ử. Simon cũng cựa quậy và ngồi dậy. Nó bò đến bên con chó, lảo đảo vỗ vào đầu nó. Rufus liếm tay nó và loay hoay đứng dậy trên bốn cái chân run lẩy bẩy như một chú bê mới sinh.
“Tao cũng cảm thấy như mày thôi,” Simon nói. Hết sức cẩn thận, nó đứng dậy.
Jane run run đưa một ngón tay chọc chọc nó. “Anh có sao không?”
“Không hề hấn gì.”
“Chuyện gì đã xảy ra thế?”.
“Anh không biết. Có một ánh sáng chói lòa...” Giọng nó nhỏ dần đi và tắt hẳn, khi nó cố nhớ lại.
“Tại anh bị đập đầu đấy thôi,” Barney nói. “Gã đàn ông kia, anh không nhìn thấy, hắn ở ngay trước mặt bọn em và rồi... em không biết nữa, cái gì đó đã chặn hắn lại. Kỳ lạ lắm.”
“Như thể hắn bị một cơn co giật ấy,” Jane nói. “Hắn vặn vẹo, mặt trông rất kinh khủng, rồi sau đó hắn bỏ chạy."
“Hắn chính là tên họa sĩ đó. Cái tên đã lấy bức tranh của em ấy.”
“Thật thế à? Tất nhiên, hắn cũng bắt cóc cả con Rufus nữa, đó là lý do...”.
Nhưng Barney không lắng nghe. Nó đứng nhìn lên con đường dốc cao bên cạnh bến cảng. “Nhìn kia,” nó nói, giọng không âm sắc nghe thật lạ.
Hai đứa kia nhìn theo, và thấy Merriman đang bước đến chỗ chúng từ phía Ngôi Nhà Xám. Chiếc áo khoác mở rộng, hai tay đút túi, mái tóc bạc bù xù phất phơ trong làn gió nhẹ đang nổi lên quanh họ. Khi đến bên chúng, ông nói. “Các cháu sẽ bị ướt thôi nếu cứ đứng đây đợi mưa đổ xuống.”
Jane vội ngước lên nhìn bầu trời đang tối lại
“Ông có nhìn thấy chuyện vừa xảy ra một phút trước không ạ?”
“Một chút,” Merriman đáp. “Cháu có bị đau không, Simon?”.
“Cháu không sao ạ.”.
Barney vẫn đang nhìn ông chằm chằm, mặt vẫn chưa hết sửng sốt. “Là ông, phải không ạ?” nó khe khẽ hỏi. “Ông đã chặn hắn lại, bằng một cách nào đó. Hắn là người của phe Bóng Tối.”
“Nào, nào, Barney,” Merriman nói nhanh. “Giả thuyết ấy của cháu vội vàng quá. Chúng ta hãy thôi phỏng đoán xem ông bạn khó chịu của các cháu đến từ đâu... mà hãy vui mừng vì hắn đã đi rồi, và Rufus thì đã quay về an toàn.”
Chú chó lông đỏ liếm bàn tay ông, cái đuôi mượt mà vẫy loạn lên. Merriman vuốt cặp tai mềm của nó. “Về nhà đi,” ông nói. Không liếc nhìn lại, Rufus liền chạy lên con dốc bên cạnh bến cảng, và mấy ông cháu im lặng đứng nhìn theo trong khi nó biến vào lối đi phụ của Ngôi nhà Xám.
Barney nói, “Thế cũng được thôi, nhưng cháu tưởng ông đưa chúng cháu đến đây là để giúp cơ mà?”
“Barney!” Jane quở.
“Các cháu đã đang giúp rồi đấy,” Merriman nhàng đáp. “Ông đã nói rồi, hãy kiên nhẫn.”
Simon lên tiếng, “Chúng cháu đi tìm ông. Chúng cháu sợ đã xảy ra chuyện gì.”.
“Ông chỉ ở trong Ngôi nhà Xám, chuyện gẫu với Thuyền Trưởng Toms thôi.”
“Will Stanton cũng chưa quay về kể từ sau lễ Phù Thủy Xanh.”
“Ông dám chắc là nó chỉ đi lang thang ngắm cảnh gì đó thôi. Ông nghĩ ta sẽ thấy nó ở nhà khi quay về.” Ông Merriman lại liếc nhìn lên những đám mây xám đang hạ xuống thấp. Một loạt những tiếng ì ầm kéo dài vang lên từ bầu trời trên biển. “Đi nào.” ông nói. “Về nhà. Trước khi bão kéo tới.”
Jane lơ đãng nói, trong khi bọn trẻ ngoan ngoãn chạy theo cho kịp sải chân dài của ông, “Tội nghiệp Phù Thủy Xanh, một mình ở ngoài biển kia. Mong là sóng biển không đánh tan nó thành từng mảnh.”
Bốn ông cháu vội vã chạy lên các bậc thềm hẹp dẫn lên căn nhà; họ vừa đến cửa thì một tia chớp trắng xé bầu trời làm đôi, và một tiếng sét nổ lớn vang vọng mãi khắp cả vịnh.
Merriman nói, giữa những tiếng sấm sét, “Ông không nghĩ sóng biển sẽ đánh tan nó đâu.”
***
Jane lại đang đứng trên Mũi Kemare, nhưng bây giờ em chỉ có một mình, và cơn bão đang ở vào lúc mạnh nhất. Không biết đang là đêm hay là ngày. Cả bầu trời xám xịt, sa sầm, nặng trĩu mây đen; những tia chớp sắc lẹm rạch ngang trời, sấm nổ ầm ầm, vọng lại từ những cánh đồng hoang sâu trong nội địa. Mòng biển lượn vòng và rít lên trong gió. Bên dưới, biển ngầu bọt, nổi sóng dữ dội như muốn đập tan vách đá. Jane cảm thấy mình đang bị gió đẩy đi, đẩy tới bên mép vực... và em được nâng cao lên không trung, ra ngoài xa, rồi rơi xuống, xuyên qua làn gió, với những con mòng biển bay vun vút quanh mình trong khi em rơi.
Cảm giác khi rơi vừa kinh hoàng khủng khiếp vừa thích thú một cách man rợ. Những con sóng lớn dâng lên đón lấy em, và em lại rơi tiếp, chậm hơn, không hề bị choáng, không thấy nước bắn lên hay bất kỳ thứ gì khác, xuyên qua làn nước sâu xanh thẳm nơi cơn bão điên cuồng bên trên không thể với tới được. Không có gì chuyển động ngoại trừ đám rong biển đang khe khẽ chao đảo do những cơn sóng nhồi (sóng sau bão – ND) từ dưới đáy biển sâu dâng lên. Và trước mặt mình,em nhìn thấy Phù Thủy Xanh.
Cái hình thù to lớn kết bằng cành lá ấy đang dựa vào một đám đá lởm chởm; chúng đã che chở cho nó. Phù Thủy Xanh đứng đó mà không hề bị hư hại gì, y như khi Jane nhìn thấy nó lúc trước, cái đầu vuông chẳng giống đầu người chút nào đặt trên thân mình to ngang khổng lồ. Những cành lá và hoa táo gai trên thân nó xòa ra như rong biển trong làn nước, rập rờn, đu đưa. Từng đàn cá nhỏ lao vun vút quanh đầu nó. Toàn thể bộ khung thỉnh thoảng lại chao đảo đều đặn, khi các đợt sóng nhồi do bão dâng lên chạm tới nó.
Thế rồi, trong khi Jane ngắm nhìn, những đợt chao đảo trở nên mạnh hơn, như thể cơn bão đang xuyên suốt tới đáy biển. Chính em cũng cảm thấy sức đẩy của những cơn sóng; em di chuyển như một con cá, vừa để mình trôi theo sóng vừa cưỡng lại chúng. Phù Thủy Xanh bắt đầu xoay chuyển và lắc lư, nhanh hơn, xa hơn, bị giằng co khắp các hướng mạnh đến nỗi tưởng như toàn bộ hình thù ấy có thể đổ xuống và bị sóng cuốn đi. Jane cảm thấy một luồng sóng ớn lạnh đen tối trong làn nước, một sức mạnh vĩ đại đầy đe doạ, và em kinh sợ nhìn thấy chuyển động của Phù Thủy Xanh đang thay đổi. Những ống tay, ống chân tự cử động, cái đầu kết bằng lá rập rờn và động đậy như thể là một khuôn mặt thật. Thế rồi cái lạnh đột nhiên biến mất, biển lại xanh yên ả trở lại với đám rong biển và những con cá đu đưa theo sóng... nhưng giờ em biết Phù Thủy Xanh là một sinh vật sống. Nó không tốt, cũng không xấu, nó chỉ đơn giản là một vật sống, nhận thức được em cũng như em đã nhận thức được nó từ lâu.
Cái đầu khổng lồ kết bằng lá quay về phía em, và không cần một giọng nói nào, Phù Thủy Xanh lên tiếng, truyền tiếng nói vào đầu em.
“Ta có một bí mật,” Phù Thủy Xanh nói.
Jane lại cảm thấy nỗi cô đơn mà em đã cảm nhận ở nó khi đứng trên mũi đất, ngay từ đầu: đau buồn và trống trải. Nhưng em cũng cảm thấy Phù Thủy Xanh đang bám lấy một cái gì đó làm nguồn an ủi, như một đứa bé nắm chặt một món đồ chơi... mặc dù đứa bé này đã hàng trăm tuổi, và suốt cả quãng đời luôn được hồi sinh vô tận của mình nó chưa bao giờ được an ủi như thế.
“Ta có một bí mật. Ta có một bí mật.”
“Người thật là may mắn,” Jane nói.
Cái khối cành lá sống ấy cúi xuống em, gần hơn. “Ta có một bí mật, nó là của ta. Của ta, của ta. Nhưng ta sẽ cho ngươi thấy. Nếu ngươi hứa sẽ không cho ai biết, không cho ai biết.”
“Tôi xin hứa,” Jane nói.
Phù Thủy Xanh nghiêng sang một bên, những ống tay kết bằng nhánh cây đầy lá rập rờn trong nước, và khi nó rời khỏi cái hốc tối giữa đám đá vừa dựa vào, Jane thấy có cái gì đó trong bóng tối. Đó là một vật nhỏ sáng rực, nằm giữa các khe đá, trên nền cát trắng; nom tựa như một cái que nhỏ phát sáng. Trông nó chẳng có gì là đặc biệt, ngoại trừ việc nó tỏa ra cái ánh sáng kỳ lạ ấy.
Như nói với một đứa bé vừa khoe món đồ chơi của mình, em bảo Phù Thủy Xanh, “Đẹp quá.”
“Bí mật của ta,” Phù Thủy Xanh nói. “Ta canh giữ nó. Không ai được phép đụng vào nó. Ta sẽ canh giữ nó hết sức cẩn thận, mãi mãi.”
Bất thình lình, bóng tối và cái lạnh lại xuyên qua làn nước, truyền đi khắp thế giới đại dương. Trong chớp mắt, Phù Thủy Xanh đã hoàn toàn thay đổi. Nó trở nên thù địch, giận dữ, đầy đe doạ. Nó vươn cao bên trên Jane.
“Ngươi sẽ tiết lộ! Ngươi sẽ tiết lộ!”.
Cái đầu kết bằng cành lá tách ra làm đôi thành khuôn mặt méo xệch khủng khiếp, một khuôn mặt gầm gừ thịnh nộ; thân mình nó dường như đang xòe ra, mở rộng, vươn tới hòng nuốt chửng em trong khi Phù Thủy Xanh chao đảo lao về phía trước. Jane kinh hoàng lùi lại, co rúm người. Làn nước bỗng nhiên nóng rực, dữ dội, ngột ngạt, đầy những tiếng gầm rú.
“Tôi sẽ không cho ai biết! Tôi hứa! Tôi hứa! Tôi hứa mà..."
***
Hơi lạnh đang phả lên mặt em. “Jane! Tỉnh dậy đi! Nào, Jane, dậy đi cháu, qua rồi, không phải chuyện thật đâu... Jane, dậy đi...” Giọng nói trầm trầm của Merriman vang lên nhẹ nhàng nhưng thúc bách, đôi tay mạnh mẽ đầy an ủi đặt lên vai em. Jane ngồi bật dậy trong căn phòng nhỏ xíu, nhìn vào mặt ông, dựa vầng trán ướt đẫm vào vòng tay ông và òa khóc.
“Kể cho ông nghe đi,” Merriman dịu dàng nói.
“Cháu không thể! Cháu đã hứa rồi!” Nước mắt em đang tràn ra, giàn giụa.
“Xem này,” Merriman nói khi em đã bình tĩnh hơn. “Cháu đã gặp một cơn ác mộng khủng khiếp, nhưng giờ thì nó qua rồi. Ông nghe thấy có tiếng kêu rất nhỏ như bị bịt lại ở trong này, và khi ông bước vào thì cháu đang trùm chăn kín đầu, chắc là phải nóng như trong lò ấy. Thảo nào mà cháu chẳng nằm mơ. Giờ thì kể cho ông nghe xem nào.”
“Ôi trời ơi” Jane rầu rĩ nói. Em kể cho ông nghe.
“Hừm” Merriman nói, khi em kể xong. Khuôn mặt dầu mưa dãi nắng, xương xương của ông khuất trong bóng tối; em không thể thấy được vẻ mặt ông ra sao.
“Thật là kinh khủng," Jane nói. “Nhất là đoạn cuối ấy.”
“Ông chắc là vậy. Ông e rằng trí tưởng tượng của cháu đã được cho ăn hơi nhiều sau chuyện tối qua hơn là nó chứa nổi.”
Jane cố nặn ra được một nụ cười yếu ớt. “Lúc tối nhà mình ăn tối với bánh táo và pho mát. Chắc là do cả hai cái đấy nữa ạ.”
Merriman bật cười và đứng dậy, thân hình cao lớn gần chạm cái trần nhà thấp. “Cháu ổn rồi chứ?”
“Ổn rồi ạ. Cháu cảm ơn ông.” Khi ông đi ra, em nói, “Ông Gumerry ơi?”
“Gì thế cháu?
“Cháu vẫn cảm thấy thương Phù Thủy Xanh, thật đấy ạ."
“Ông mong là cháu luôn giữ được tình cảm ấy,” ông Merriman đáp lại một cách khó hiểu. “Giờ thì cháu ngủ đi.”
Jane nằm yên, lắng nghe tiếng mưa đập vào cửa sổ và những tiếng sấm cuối cùng của cơn bão đang yếu đi. Ngay trước lúc thiếp đi em bất thần chợt nhớ rằng mình đã nhận ra cái vật nhỏ sáng rực, bí mật của Phù Thủy Xanh trong giấc mơ của em. Nhưng chưa kịp nắm bắt được ký ức ấy thì em đã ngủ thiếp đi rồi.
CHƯƠNG NĂMSimon rúc sâu hơn vào cái hốc ấm cúng toàn gối và ga trải giường. “Hừmmmmmmmm. Không. Đi đi.”
“Ôi, dậy đi anh Simon.” Barney túm lấy tấm ga trải giường kéo thật lực. “Dậy đi nào. Sáng nay trời siêu đẹp, anh dậy mà xem. Mọi thứ đều bóng loáng sau trận mưa đêm qua, bọn mình có thể đi xuống bến cảng trước bữa sáng. Chỉ đi dạo thôi. Chưa ai dậy cả. Đi nào.”
Miệng càu nhàu, Simon hé một mắt ra và hấp háy nhìn về phía cửa sổ. Trên bầu trời xanh thẳm một con mòng biển đổi hướng bay và biếng nhác chao liệng, cứ giữ nguyên đôi cánh chẳng hề đập lấy một nhịp ấy mà lượn thành vòng tròn. “Ôi trời,” nó nói. “Thôi được rồi.”
Trên bến cảng, không có gì chuyển động cả. Thuyền đậu im lìm ở chỗ thả neo, những cột buồm in bóng trên làn nước phẳng lì. Những tấm lưới tẩm creosote (Một loại hóa chất dùng để bảo quản lưới đánh cá, dây câu, vv... ) bốc mùi biển cả đắp thành đống trên tường cảng chờ được vá lại. Không có gì phá vỡ sự tĩnh lặng ngoài tiếng lanh canh của một chiếc xe đưa sữa xa xa đâu đó phía trên làng vẳng lại. Hai anh em chạy xuống những bậc thềm còn ướt nước mưa và xuyên qua những ngõ hẹp để đi xuống biển. Ánh nắng đậu trên mặt chúng đã ấm lên rồi.
Trong khi chúng đứng ngắm mấy con thuyền đậu gần nhất thì một con chó lai ở trong làng lon ton chạy tới, thân thiện hít hít chân chúng, rồi lại đi tiếp.
“Rufus có thể cũng đã ra ngoài rồi, Barney nói. “Mình đi xem sao đi.”
“Được thôi.” Simon thong thả bước theo nó, thoải mái và thư giãn trong sự tĩnh lặng, dưới ánh nắng và tiếng sóng biển rì rào.
“Nó kia rồi!” Chú chó lông đỏ chân dài đang lao qua kè đá về phía chúng. Nó nhảy cẫng lên quanh hai đứa, đuôi ve vẩy, hàm răng trắng nhếch ra như đang cười, cái lưỡi hồng dài thè lè ra ngoài.
“Con chó ngốc nghếch,” Simon âu yếm nói khi cái lưỡi ướt át liếm liếm tay nó.
Barney ngồi xổm xuống và nghiêm trang nhìn vào cặp mắt nâu của Rufus. “Em ước gì nó biết nói. Nếu thế thì mày sẽ nói gì với bọn tao hả, chó ngoan? Mày sẽ kể về tên họa sĩ của phe Bóng Tối, và nơi hắn đã đưa mày đến chứ? Chỗ đó ở đâu hả Rufus? Hắn đã nhốt mày ở đâu?”
Chú chó lông xù đứng im một lát, nhìn Barney; rồi nó nghiêng cái đầu dài sang một bên và bật ra một tiếng kêu kỳ lạ nửa như tiếng sủa, nửa như tiếng rên, nghe giống một câu hỏi. Nó quay ngoắt đi, chậm rãi bước vài bước dọc kè đá, rồi dừng lại và quay đầu nhìn chúng. Barney từ từ đứng dậy. Rufus đi thêm vài bước nữa, rồi lại quay nhìn lại, chờ đợi chúng.
“Cái quái gì thế?” Simon vừa nhìn vừa hỏi.
“Nó muốn chỉ cho bọn mình thấy đấy!” Barney hồi hộp nhảy cẫng lên. “Đi nào anh Simon, nhanh lên! Em cá là nó sẽ chỉ cho bọn mình biết chỗ gã họa sĩ đó đang trốn, và bọn mình sẽ có thể cho ông Gumerry biết!”
Rufus rên ư ử vẻ dò hỏi.
“Anh không biết nữa.” Simon nói. “Bọn mình nên đi về thôi. Chẳng ai biết bọn mình đang ở đâu cả.”
“Ôi, đi nào, nhanh lên, trước khi nó thay đổi ý định.” Barney túm lấy tay Simon và kéo thằng anh chạy theo con chó lông đỏ mình dài, giờ đã tự tin chạy trước băng qua cầu cảng.
Rufus dẫn chúng đi thẳng qua bến cảng vào con đường từ Ngôi nhà Xám và biển dẫn về đất liền; con đường mới đầu còn quen thuộc, dẫn chúng trở lại qua phần hẹp nhất của ngôi làng, qua những qua những căn nhà nhỏ lặng lẽ ngủ yên đằng sau những ô cửa sổ che rèm đăng-ten, và thỉnh thoảng lại gặp một ngôi nhà khiêm tốn trưng biển KHÁCH SẠN TƯ NHÂN. Rồi chúng đi qua Trewissick, tới những cánh đồng có hàng rào bao quanh nằm viền theo những chỏm đồi trắng và ao xanh của vùng đất cao lanh, cho đến khi, tít sâu trong đất liền, cánh đồng bị vùng đất hoang chặn lại.
Simon nói, “Bọn mình không thể đi xa hơn được nữa. Barney ạ. Chúng ta còn phải quay về nữa chứ.”
“Chỉ đi thêm một đoạn nữa thôi mà.”
Chúng lại đi tiếp, men theo những con đường yên tĩnh sáng rực lên màu xanh non của các thân cây mới nảy lộc. Simon nhìn quanh mình, một thoáng lo ngại bắt đầu hiện ra trong óc nó. Nhưng chẳng có gì không ổn cả: mặt trời sưởi ấm chúng, hoa bồ công anh vàng tươi lấm tấm như sao trên cỏ; có thể xảy ra chuyện gì được chứ? Rồi đột nhiên Rufus rẽ khỏi con đường chính vào một lối mòn hẹp rậm rạp; một tấm biển ở góc đường có đề TRANG TRẠI PENTREATH. Hai bên lối mòn, cành cây vươn cao đan vào nhau thành một vòm lá; ngay cả dưới ánh nắng ban ngày lối mòn vẫn đầy bóng râm, mát lạnh, chỉ loáng thoáng mấy vệt nắng rọi qua. Bất thình lình một linh tính đáng sợ tràn ngập khắp người Simon. Nó đứng sững lại như hóa đá.
Barney liếc nhìn lại qua vai. “Sao thế?”
“Anh cũng không biết nữa.”
“Anh nghe thấy gì à?”
“Không. Anh chỉ thấy... như thể trước kia anh đã đến đây rồi vậy...” Simon rùng mình. “Cảm giác kỳ quái thật.”
Barney lo ngại nhìn nó. “Hay có lẽ bọn mình nên quay về thật?”
Simon không trả lời; nó đang nhìn về phía trước, lông mày nhíu lại. Rufus, vừa biến mất sau khúc quanh trên lối mòn một phút trước, đang lao trở lại, cuống quít một cách khó hiểu.
“Chui vào bụi cây, mau!” Simon túm lấy tay Barney, và với con chó theo sát sau gót chúng vội chuồn vào đám cây và bụi rậm mọc dày kịt ở bên đường. Trong đó, cẩn thận dò từng bước một từ cây này tới cây kia để tránh tiếng chân lạo xạo, chúng nhích dần tới trước cho tới khi nhìn thấy một phần lối mòn nằm trước mặt, phía sau khúc quanh. Chúng không nói hay thì thầm gì; gần như không dám thở nữa, và dưới chân chúng Rufus cũng phủ phục im lìm như chết.
Ở đó, phía trước mặt chúng, cây đã thưa bớt, lối mòn không còn là một đường hầm dưới vòm lá nữa. Thay vào đó chúng nhìn thấy một cánh đồng rộng rải rác những thân cây to đơn độc và các bụi rậm. Ngang qua cánh đồng, con đường mòn chỉ còn là một lối đi cỏ mọc um tùm, hai vết xe lún uốn lượn kéo dài đến chỗ cây mọc dày trở lại. Có vẻ như chẳng có mấy ai đi đến Trang trại Pentreath cả. Và chẳng thấy bóng dáng một trang trại nào hết. Rõ mồn một trước mắt chúng trên cánh đồng ngập nắng, chỉ là một căn nhà lưu động.
Nó đứng đó, cao lớn, lộng lẫy và tuyệt đẹp: một căn nhà lưu động đúng kiểu di gan cổ, loại nhà mà chúng chưa bao giờ nhìn thấy ngoại trừ trong tranh ảnh. Bên trên các bánh xe cao có nan hoa gỗ, những bức tường gỗ trắng vươn cao, hơi nghiêng ra ngoài một chút, lên đến mái gỗ uốn cong với ống khói có cái chụp hình nón. Trong mái hiên chìa ra ở mỗi góc giữa tường và mái nhà là những diềm gỗ trang trí hình cuộn sáng màu. Trên các bức tường phía bên là những ô cửa sổ vuông, che rèm cẩn thận; bên dưới, tựa vào trước căn nhà là những càng xe dành cho con ngựa đang lặng lẽ đứng gặm cỏ gần đó. Ở phía sau, một cái thang sáu bậc chắc chắn dẫn lên một cánh cửa có vẽ hình trang trí tinh xảo để hợp với những diềm cuộn bên trên: một cánh cửa có hai phần, giống như cửa chuồng ngựa, nửa trên mở ra còn nửa dưới thì cài then kín.
Trong khi hai anh em lom khom nấp đằng sau đám cây, nín thở quan sát, thì một người hiện ra ở khung cửa, mở phần cánh cửa phía dưới ra và bắt đầu bước xuống cầu thang căn nhà lưu động. Barney bấu chặt lấy cánh tay Simon. Không thể lẫn vào đâu được mái tóc dài rối bù và đôi mày cau có kia; gã họa sĩ thậm chí vẫn ăn mặc y hệt như hai lần trước, giống một ngư dân, áo len và quần màu xanh lính thủy.
Barney nuốt nước miếng vì lo sợ khi thấy gã đàn ông ở quá gần, cứ như thể bao quanh nó là một đám mây hiểm ác vậy. Nó bỗng thấy mừng là hai anh em đang ở sâu trong cụm cây, nằm ngoài mọi tầm mắt thường Nó cố đứng thật im, cầu mong là Rufus sẽ không ra tiếng động gì.
Nhưng mặc dù quả thực không có tiếng động gì trong khoảng đồng trống, ngoại trừ tiếng chim hót buổi sớm trên cây, gã đàn ông đen đủi nọ vẫn bất thần đứng lại trên bậc thang cuối của căn nhà lưu động. Hắn ngẩng đầu lên và quay một vòng, tựa một con chó săn đánh hơi tìm hươu; Barney thấy hai mắt hắn nhắm nghiền. Rồi gã đàn ông quay hẳn về phía chúng, cặp mắt lạnh lẽo mở ra bên dưới hai hàng lông mày nhíu lại, và hắn nói rõ ràng, “Barnabas Drew. Simon Drew. Ra đây.”
Trong óc hai đứa không hề nảy ra ý định bỏ chạy hay bất kỳ điều gì khác ngoài sự phục tùng không chút kháng cự. Barney bước ra khỏi đám cây như cái máy, và cảm thấy Simon đi theo nó cũng với bước chân không hề ngập ngừng y hệt. Ngay cả Rufus cũng ngoan ngoãn lon ton bên cạnh chúng
Chúng đứng cạnh nhau trên cánh đồng đầy nắng gần căn nhà lưu động, đối mặt với gã đàn ông da ngăm đen trong bộ quần áo sẫm màu, và bất chấp ánh mặt trời ấm áp trên da, chúng vẫn thấy không khí bỗng trở nên lạnh ngắt. Gã đàn ông nhìn chúng, không hề mỉm cười, mặt vô cảm. “Bọn mày muốn gì?” hắn hỏi.
Đâu đó trong đầu Barney, chẳng khác nào một tia lửa bập bùng gặp được bùi nhùi và bùng cháy, ngọn lửa giận dữ nhỏ bé bất ngờ phùng lên thành cơn thịnh nộ và thiêu rụi cả nỗi sợ của nó. Nó mạnh bạo nói, “Trước hết là tôi muốn ông trả lại bức tranh của tôi.”
Bên cạnh mình, nó thoáng thấy Simon hơi lắc lắc đầu, như vừa tỉnh ngủ, và nó biết rằng anh trai mình cũng đã thoát khỏi bùa mê. Nó nói to hơn, “Ông đã đánh cắp bức tranh của tôi ở dưới bến cảng, có trời mới biết tại sao. Tôi thích bức vẽ ấy, và tôi muốn lấy lại nó.”
Cặp mắt tối sẫm lạnh lùng quan sát nó; không thể đọc được bất kỳ cảm xúc nào trong chúng. “So với tuổi của cậu thì đó là một bức vẽ có khá nhiều triển vọng đấy.”
“Rõ ràng là ông không cần nó mà,” Barney nói; trong thoáng chốc nó nói với vẻ gần như kính nể, khi nhớ lại sức mạnh thực sự trong bức tranh của gã đàn ông kia.
“Không,” gã đàn ông đáp, với một nụ cười nửa miệng lạ kỳ, nham hiểm. “Giờ thì không.” Hắn lại bước lên các bậc thang và qua cánh cửa đôi; rồi ngoái đầu lại nói, “Thôi được rồi. Vào đây.”
Rufus, từ đầu đến giờ vẫn đứng như trời trồng, bắt đầu gầm gừ trong họng. Simon đưa tay ra hiệu cho nó im lặng, và bảo, “Làm thế không được khôn ngoan cho lắm đâu, Barney.”
Nhưng Barney nói vẻ thoải mái, “Ồ, không đâu, em nghĩ sẽ ổn cả thôi,” và nó bước về phía các bậc thang của căn nhà lưu động. Simon không chọn nào khác ngoài đi theo nó. “Ở lại đây, Rufus” nó nói. Con chó lông xù gập những cẳng chân dài lại và nằm xuống ở chân bậc thang, nhưng nó vẫn tiếp tục gầm gừ không ngừng một cách quái lạ, hai anh em có thể nghe thấy tiếng gầm gừ khe khẽ ấy ở phía sau như nhắc chúng nhớ đến một lời cảnh báo.
Gã đàn ông đen đủi đang quay lưng lại phía chúng. “Hãy ngắm nhìn căn nhà romany này cho kỹ vào,” hắn nói, không quay lại. “Giờ không còn nhiều nhà lưu động như thế này để mà ngắm nghía nữa
đâu.”
“Romany ấy à?” Simon hỏi. “Ông là người di gan à?"
“Nửa phần romany,” gã đàn ông đáp, “và nửa phần gorgio (Người di gan dùng từ “romany” để gọi chính mình và “gorgio” để gọi những người còn lại.).” Hắn quay lại và đứng khoanh hai tay trước ngực, quan sát chúng. “Ta có một phần là người digan, đúng thế. Ngày nay thì chỉ thấy được người lai di gan thôi đã là tốt lắm rồi, ít ra là trong số những người sống lang thang nay đây mai đó. Ngay cả căn nhà này cũng chỉ có một phần là di gan mà thôi."
Hắn ra hiệu về phía trần căn nhà lưu động, và khi ngẩng lên, chúng thấy trần nhà cũng được viền bằng cùng loại diềm cuộn trang trí sáng màu như ở ngoài, và trên một bức tường treo kín đủ loại dụng cụ nhỏ, có một cây vĩ cầm cổ và một tấm thảm len kẻ sọc rất lạ. Nhưng đồ đạc trong nhà thì thuộc loại rẻ tiền và hiện đại, và ống khói thì không phải là ống khói thật, mà chỉ là một cái lỗ thông hơi để hút khí nóng lên khỏi cái bếp lò điện.
Thế rồi đột nhiên chúng nhận ra rằng trần nhà là một bức vẽ. Từ đầu này đến đầu kia, bên trên đầu chúng, bên trên những đường xoắn cổ truyền sáng màu của diềm cuộn, một bức tranh trừu tượng dữ dội trải ra. Không thể nhận ra được những mảng màu và hình thù trên tranh là cái gì, nhưng đó là một cảnh tượng đáng sợ, khủng khiếp, đầy những vòng xoáy kỳ lạ, những mảng tối và những đường rạch xanh nhợt như cứa vào mọi giác quan. Barney lại cảm thấy sức mạnh và sự khó chịu đã xâm chiếm nó khi nhìn vào bức tranh của gã đàn ông lúc ở dưới bến cảng; ở trên trần này nó cũng nhìn thấy cái sắc xanh cực kỳ kinh khủng mà lúc đó đã khiến nó hết sức khó chịu. Đột nhiên nó bảo Simon, “Mình về thôi.”
“Đừng vội,” gã đàn ông ngăm đen nói. Hắn nói nhẹ nhàng, không hề cử động, và Barney lạnh người khi nhận thấy rằng Bóng Tối đang vươn ra hòng điều khiển nó... cho đến khi một tiếng rít khe khẽ từ nãy đến giờ vẫn khiến nó băn khoăn bất thình lình ré lên thành tiếng ấm nước đang sôi, và tiếng còi the thé vang khắp căn phòng, khiến cho cảm giác về cái ác bỗng trở nên lố bịch.
Nhưng Simon cũng đã cảm thấy. Nó nhìn gã đàn ông da ngăm đen và thầm nghĩ: ngươi cứ ngăn không cho bọn ta hoảng sợ, trì hoãn điều đó. Tại sao ngươi lại muốn bọn ta ở lại đây?
Gã đàn ông bận bịu với cái công việc tầm thường là xúc cà phê uống liền vào ca và rót nước sôi trong ấm vào đó. “Có ai trong hai cậu uống cà phê không?” hắn hỏi với qua vai.
Simon vội nói, “Không cảm ơn ông.”
Barney nói, “Tôi sẽ không phản đối một cốc nước đâu.” Nhìn thấy cái lườm của Simon, nó rầu rĩ nói thêm, “Đi bộ từ nãy đến giờ em khát lắm rồi. Uống một cốc nước lã không được hay sao?”
“Ở cái tủ bên chân phải cậu” gã họa sĩ nói, “cậu sẽ thấy mấy lon sô đa cam đấy.” Hắn đi đến bên cái bàn nhỏ ở cuối căn nhà, tay khuấy cà phê. “Chưa hề bật nắp” hắn nói thêm, cố ý nhìn vào Simon với vẻ châm biếm. “Nước có ga. Vô hại. Đến thẳng từ nhà máy.”
“Cảm ơn” Barney nói ngay, cúi xuống bên cánh cửa tủ.
Gã đàn ông nói, “Trong đó có cả một chiếc hộp các tông nữa, cậu hãy đem nó ra luôn thể”
“Được thôi.” Sau một hồi lục đục sục sạo, Barney lôi ra một cái hộp màu nâu nom hết sức bình thường, đặt nó lên bàn và bỏ hai lon nước kẹp ở khuỷu tay ra. Không nói một lời, Simon cầm lấy một lon, bật nắp, và lon nước xì lên một tiếng khiến nó yên tâm hơn, nhưng sự thận trọng bướng bỉnh vẫn khiến nó ngần ngại không muốn uống, và nó chỉ giả vờ tợp một hớp. Barney thì uống lấy uống để, với những tiếng ừng ực khoái trá.
“Khá hơn rồi. Cảm ơn. Bây giờ cho tôi xin lại bức tranh được không?”
“Mở cái hộp ra,” gã đàn ông nói, mớ tóc dài xõa xuống mặt trong khi gã uống một ngụm cà phê trong ca.
“Nó ở trong đó à?”
“Mở cái hộp ra,” gã đàn ông nhắc lại, với một thoáng thúc giục trong giọng nói. Simon thầm nghĩ: hắn căng thẳng như dây đàn vậy. Tại sao nhỉ?
Đặt lon nước xuống bàn, Barney mở nắp cái hộp các tông màu nâu ra. Nó lấy ra một tờ giấy, và thận trọng giơ lên ngắm nghía. “Đúng rồi, đây chính là bức tranh của tôi.”
Nó liếc nhìn lại vào trong hộp, rồi đột nhiên mắt nó sáng ngời lên, một ánh sáng rực rỡ chói lòa như rọi thẳng vào đầu nó, và nó trố mắt kinh ngạc kêu lên như lạc giọng.
“Anh Simon! Chiếc chén Thánh này!”
Đúng lúc đó khung cảnh xung quanh chúng bỗng thay đổi; ô cửa nhỏ của căn nhà lưu động đóng lại đánh sầm một tiếng, mành mành buông xuống chắn hết mọi ánh sáng ban ngày. Căn phòng tối đen lại trong thoáng chốc, nhưng rồi gần như ngay lập tức Barney lại thấy mình chớp chớp mắt vì một sáng lờ mờ. Nó nhìn khắp nơi tìm xem ánh sáng đó đến từ đâu, và rồi với một cảm giác choáng váng sợ hãi, nó nhận ra rằng quầng sáng nhờ nhờ đó, thật ghê rợn, không tỏa ra từ một cây đèn nào mà là chính từ bức tranh trên trần nhà. Trên đó, những xoáy tròn màu xanh quái gở đã khiến nó vô cùng bất an lúc trước đang phát ra một ánh sáng lạnh lẽo, mờ đục. Giờ nó mới thấy là những xoáy tròn đó cũng có hình dạng; những hình góc cạnh sắp xếp thành từng nhóm, tựa như một thứ chữ viết kỳ lạ nào đó. Dưới ánh sáng xanh xanh lạnh lẽo ấy nó nhìn xuống, sợ sệt, không tin nổi vào mắt mình, và vẫn thấy vật quen thuộc tuyệt vời nó nhìn thấy lúc trước đang lấp lánh bên trong cái hộp các tông. Barney nhẹ nhàng nhấc nó lên, quên bẵng hết thảy mọi thứ quanh mình, và đặt nó lên bàn.
Simon thì thào bên cạnh nó, “Đúng là nó rồi!”
Trên cái bàn trước mặt chúng, chiếc chén Thánh xứ Cornwall sáng rực lên: cái chén nhỏ bằng vàng mà chúng đã thấy lần đầu tiên, sau một cuộc tìm kiếm vô cùng khó khăn, sâu tít trong một chiếc hang bên dưới các vách đá của Mũi Kemare, chiếc chén mà chúng đã bảo vệ được khỏi bọn tay chân và quyền năng của thế lực Bóng Tối, trong một thời gian ngắn.
Chúng không hiểu nó là cái gì, hay nó có thể làm được gì; chúng chỉ biết rằng với ông Merriman và với phe Ánh Sáng nó là một trong những Pháp Vật vĩ đại, một thứ vô giá, và rằng một ngày kia giá trị của nó sẽ được chứng tỏ khi người ta hiểu được những dấu hiệu và ký tự Rune cổ chạm khắc trên mặt ngoài. Barney nhìn không chớp mắt vào những bức tranh, đường nét và dấu hiệu không sao hiểu nổi trên các cạnh vàng của chiếc chén, cũng như nó đã nhìn hàng ngàn lần trước đây. Giá mà... giá mà... nhưng bản viết cổ nằm trong cái hộp chì mà chúng tìm thấy cùng với chiếc chén, trong cái hang sâu thăm thẳm không ai biết đến ấy, giờ đã nằm dưới đáy biển, do chính Barney ném từ cuối Mũi Kemare xuống trong cố gắng tuyệt vọng cuối cùng để giữ cho chiếc chén và bản viết khỏi rơi vào tay phe Bóng Tối đang cận kề. Mặc dù chiếc chén đã được bảo vệ an toàn, bản viết cổ đã rơi xuống biển, và chỉ trong bản viết cổ ấy mới có điều bí mật giải mã được những dòng chữ quan trọng sống còn viết trên chiếc chén kia...
Ánh sáng lờ mờ trong căn nhà lưu động không thể át được vầng sáng tỏa ra từ chiếc chén Thánh, nó vàng rực lên như lửa trước mặt chúng, ấm áp, lấp lánh. Simon khẽ nói, “Nó không sao cả. Khi một vết xây xước.”
Một giọng lạnh lẽo từ trong bóng tối vang lên “Nó đã được giữ gìn rất cẩn thận.”
Chúng đột ngột bị kéo ra khỏi sự mê mải với chiếc chén Thánh và quay trở lại cảnh tranh tối tranh sáng đáng sợ với gã họa sĩ đến từ Bóng Tối. Cặp mắt nhỏ, đen và sáng quắc của gã đàn ông long lanh nhìn chúng từ bên kia chiếc bàn; hắn chỉ còn là một mảng màu đen trắng không thực, mắt đen, mặt trắng, tóc đen. Và trong giọng hắn giờ đã có một vẻ tự tin và mạnh mẽ hơn hẳn, một thoáng đắc thắng.
“Ta cho phép các cậu nhìn thấy chiếc chén” hắn nói, “để thỏa thuận một điều với các cậu.”
“Ông mà đòi thỏa thuận với chúng tôi ấy à?” Simon hỏi, giọng cất lên cao và to hơn là nó muốn. “Ông chỉ biết đi đánh cắp mà thôi. Bức tranh của Barney, con chó của Thuyền Trưởng Toms. Và chiếc chén... hẳn là chính ông đã đánh cắp nó từ viện Bảo Tàng, hoặc là bạn bè của ông...”
“Ta chẳng có bạn bè nào hết.” gã đàn ông bất ngờ đáp nhanh; dường như đó là một phản ứng cay đắng mà hắn không kịp ngăn lại, và trong một thoáng cái nhìn lạnh lùng của hắn hơi chao đảo, hắn cũng biết vậy. Ngay tức thì hắn lấy lại vẻ bình tĩnh, và nhìn xuống hai anh em một cách hoàn toàn tự chủ.
“Trộm cắp cũng có thể là một cách để đạt được điều mình muốn, hai anh bạn trẻ ạ. Điều ta muốn hết sức đơn giản, và nó chẳng đem lại hậu họa gì. Ta chỉ yêu cầu các cậu dành cho ta năm phút thôi. Hay đúng hơn là yêu cầu em trai của cậu, và yêu cầu cả một tài năng…đặc biệt... mà cậu bé có được nữa.”
“Tôi sẽ không rời nó ra một phút nào đâu.” Simon nói.
“Ta có bắt cậu phải làm vậy đâu.”
“Nếu không thì ông định bắt tôi làm gì nào?”
Barney không nói gì mà chỉ thận trọng quan sát. Lần này thì nó không hề thấy bực bội khi để cho Simon nắm quyền chỉ huy. Một cái gì ở đâu đó trong thâm tâm nó đang bắt đầu thấy mỗi lúc một sợ gã đàn ông mặt trắng bệch căng thẳng này hơn, có lẽ bởi vì rõ ràng là hắn có một tài năng hết sức khủng khiếp. Sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu nó phải đối mặt với một con quái vật trì độn đơn giản.
Gã họa sĩ nhìn Barney. Hắn nói, “Rất đơn giản thôi, Barnabas Drew ạ. Ta sẽ lấy cái cốc mà các cậu cứ gọi là chiếc chén Thánh ấy, đổ vào đó một ít nước và một ít dầu. Rồi ta sẽ yêu cầu cậu hãy ngồi thoải mái, và nhìn vào trong cốc, và cho ta biết cậu nhìn thấy gì.”
Barney kinh ngạc nhìn hắn. Một ý nghĩ kỳ lạ như màn sương trên biển len lỏi vào đầu nó: phải chăng gã đàn ông này hoàn toàn không hề xấu xa, mà chỉ hơi dở người, hơi khùng một chút? Nó bỗng nhận ra rằng nếu vậy thì mọi hành động kỳ quặc của gã họa sĩ sẽ được giải thích rõ ràng; dù sao thì ngay cả những nghệ sĩ tài năng nhất đối khi cũng làm những điều kỳ cục và xử sự một cách lạ lùng; cứ nghĩ đến ông Van Gogh điên rồ ấy mà xem....
Nó thận trọng nói, “Nhìn vào nước và dầu, và cho ông biết tôi nhìn thấy gì ư? Dầu sẽ tạo thành những đường nét khá đẹp trên nước, và những mảng màu nữa... nghe có vẻ vô hại thật. Phải không anh Simon?"
“Anh nghĩ vậy,” Simon nói. Nó đang nhìn chằm chằm vào gã đàn ông da ngăm đen, vào cặp mắt man rợ và khuôn mặt tái nhợt căng thẳng của hắn, và cái ý nghĩ như thôi miên ấy cũng đang len vào đầu óc nó. Nó cũng nghĩ rằng rất có thể người mà chúng ngỡ là kẻ địch này chẳng có gì liên quan đến phe Bóng Tối hết, bất kể Ông Merry có nghĩ gì đi chăng nữa, mà đơn giản chỉ là một người lập dị, một ông họa sĩ hâm hâm chẳng làm hại đến ai. Nếu đúng vậy thì cứ làm theo lời ông ta là an toàn hơn cả.
“Đúng thế,” nó quả quyết nói. “Tại sao lại không chứ?”
Simon nghĩ: khi những chuyện điên khùng này kết thúc, bọn mình có thể vơ lấy chiếc chén Thánh và bỏ chạy. Tìm cách nào đó để cắt đuôi hắn, gọi Rufus vào, đem chiến chén về cho ông Gumerry... Nó nhìn Barney chăm chú, cố tìm cách đánh tín hiệu cho nó, len lén huých vào người nó và nháy mắt về phía chiếc chén. Barney gật đầu. Nó biết anh trai mình đang tìm cách nói điều gì; chính ý nghĩ đó cũng đang hiện ra rõ mồn một trong đầu nó.
Gã đàn ông da ngăm đen vặn một ít nước ở vòi và đổ vào chiếc chén. Rồi hắn lấy một cái lọ nhỏ màu nâu ở trên giá gần bàn và nhỏ vào đó một hai giọt dầu gì đó. Hắn hau háu nhìn Barney. Sự căng thẳng của hắn lộ ra rõ rành rành, tựa hồ có thể phát ra tiếng kêu như sợi dây đàn được gẩy vậy.
“Nào,” hắn nói. “Ngồi xuống đây, và nhìn cho kỹ. Nhìn thật kỹ, thật lâu vào. Và cho ta biết cậu nhìn thấy gì.”
Barney ngồi xuống chiếc ghế đặt trước bàn, và chậm rãi ôm lấy chiếc chén vàng bằng cả hai tay. Mặc dù lớp vàng được chạm khắc bên ngoài chén vẫn sáng rực như trước, bề mặt bên trong lại có màu đen xỉn. Barney nhìn xuống chỗ chất lỏng trong lòng chén. Dưới ánh sáng xanh lạnh lẽo tỏa ra một cách khó hiểu từ những mảng màu và đường nét của bức tranh trên trần nhà bên trên đầu nó, nó ngắm nhìn lớp dầu mỏng tang trên mặt nước cuộn xoáy và uốn lượn vào với nhau, rời ra rồi lại nhập vào, tạo thành những hòn đảo trôi ra xa và rồi biến mất, hòa vào với những giọt dầu khác. Và nó thấy... nó thấy...
Bóng tối tràn vào đầu nó tựa như một giấc ngủ đột ngột kéo tới, và nó không còn biết gì nữa.