← Quay lại trang sách

CHƯƠNG SÁU

Jane gần như phát khóc lên. “Nhưng hai anh em không thể tự dưng biến mất được! Chắc hẳn đã xảy ra chuyện gì kinh khủng lắm rồi!”

“Vớ vẩn,” Merriman nói. “Chỉ một lát nữa thôi là chúng sẽ ào về đòi ăn sáng cho mà xem.”

“Nhưng bữa sáng đã qua hơn một tiếng rồi mà.”

Jane lo lắng nhìn chằm chằm ra bến cảng đông đúc ồn ào dưới ánh nắng. Mấy ông cháu đứng trên lối đi lát gạch bên ngoài hai căn nhà, bên trên cái mạng lưới toàn những bậc thang và ngõ nhỏ ngoằn ngoèo dẫn xuống phía bên bến cảng.

Will nói, “Tớ chắc là hai anh em không sao đâu Jane ạ. Chắc cả hai đã dậy sớm và lang thang đi dạo, rồi đi xa hơn là dự kiến thôi. Đừng lo.”

“Tớ mong là cậu nói đúng. Tớ dám chắc là vậy. Chỉ có điều là trong đầu tớ cứ hiện ra cái hình ảnh kinh khủng là hai anh em đã dẫn nhau lên Mũi Kemare như chúng tớ vẫn thường làm năm ngoái, và một trong hai người bị mắc kẹt trên vách đá hay là sao đó... Ôi trời ơi, tớ biết là tớ đang nghĩ lung tung rồi. Cháu xin lỗi, ông Gumerry.” Jane sốt ruột lắc mái tóc dài về phía sau. “Cháu đoán tất cả là tại cháu xem người ta ném Phù Thủy Xanh xuống biển. Cháu sẽ không nói gì nữa.”

“Tớ bảo này," Will nói. “Sao bọn mình không đi lên Mũi Kemare kiểm tra xem sao? Cậu sẽ thấy khá hơn nhiều đấy.”

Mặt tươi hẳn lên, em nhìn từ người này sang người kia. “Được không ạ?”.

“Tất nhiên là được chứ.” Merriman đáp. “Trong lúc đó thì bà Penhallow sẽ cho hai tên đào ngũ kia ăn sáng nếu chúng quay về. Hai cháu đi trước đi... ông sẽ nhắn lại với bà ấy một câu, và bắt kịp với hai đứa sau."

Jane mỉm cười. “Ôi, tốt hơn rồi. Cứ ngồi đợi thì thật là kinh khủng. Cảm ơn cậu, Will.”.

“Không có gì” Will vui vẻ nói. “Sáng nay trời đẹp thế này đi dạo cũng thích lắm.”

Cậu lo ngại thầm nói với Merriman bằng ý nghĩ, “Cháu nghĩ là phe Bóng Tối đã bắt được hai anh em rồi. Ông có cảm thấy thế không?”

“Không nguy hại gì đâu,” câu trả lời bình tĩnh truyền vào óc cậu. “Và có lẽ còn có lợi cho chúng ta là đằng khác”.

*

Barney đứng ở cửa căn nhà lưu động, chớp chớp mắt dưới ánh mặt trời. “Thế nào,” nó hỏi “thế bọn mình có đi lấy chúng không đây?”.

“Lấy cái gì?” Simon nói.

“Mấy lon nước chứ còn gì nữa.”

“Lon nước nào?”

“Anh làm sao thế? Mấy lon nước hắn vừa mời bọn mình ấy. Hắn bảo, có mấy lon nước trong tủ, các cậu cứ tự nhiên lấy mà uống. Và còn nhắc đến cả một cái hộp các tông nào đó nữa.” Nó vừa quay vào vừa cười và liếc nhìn anh trai mình. Rồi nó dừng phắt lại.

“Anh Simon, anh làm sao thế?”

Mặt Simon trắng bệch và căng thẳng, mọi đường nét trĩu xuống thành một vẻ mặt lo lắng sợ hãi rất người lớn và kỳ lạ. Nó nhìn chằm chằm vào Barney một lát, rồi dường như nó cố hết sức để bắt mình cũng nói chuyện bình thường như thế. “Em đi lấy đi” nó nói. “Mấy lon nước ấy. Em đi lấy đi. Rồi đem ra ngoài này. Ngoài này có nắng thích hơn."

Đằng sau chúng, trong căn nhà lưu động có tiếng gì đó, và Barney thấy Simon nhảy dựng lên như vừa bị ai đâm cho một nhát; rồi sau đó nó lại thấy anh mình có cái vẻ gắng sức lấy lại bình tĩnh như trước. Simon tựa người vào tường căn nhà, ngửa mặt lên phía mặt trời. “Đi đi,” nó nói.

Bối rối, Barney đi vào căn nhà lưu động, bên trong sáng rực ánh nắng đang tràn qua những ô cửa. Gã họa sĩ đen đủi đang tựa vào bàn, nhâm nhi một cốc cà phê.

“Cái tủ này à?” Barney đưa chân chỉ một cái tủ nhỏ dưới bồn rửa bát.

“Đúng thế,” gã đàn ông đáp.

Barney quỳ xuống và lấy ra hai lon sô đa cam, rồi nhìn quanh cái tủ nhỏ tối om. “Ông nói còn có cả một cái hộp các tông nữa, nhưng tôi chẳng thấy hộp nào cả.”

“Không quan trọng nữa,” tên họa sĩ đáp.

“Nhưng có cái gì đây..” Barney thò tay vào và lôi ra một tờ giấy. Sau khi liếc qua một cái, nó ngồi xổm lên trên gót chân và ngẩng lên nhìn gã đàn ông, mặt vô cảm. “Là bức tranh của tôi. Bức tranh ông đã lấy cắp.”

“Ờ” gã đàn ông nói. “Đó là cái mày đến đòi, phải không nào?” Cặp mắt tối sầm của hắn long lên nhìn Barney một cách lạnh lùng bên dưới hai hàng lông mày cau lại. “Lấy nó ra, uống nước, rồi đi đi.”

Barney nói, “Tôi vẫn muốn biết tại sao ông lại cầm bức tranh bỏ chạy.”

“Mày đã làm ta tức giận,” gã đàn ông nói cộc lốc. Hắn đặt cốc cà phê xuống và ra hiệu cho Barney đi ra cửa. “Không thằng nhãi nào được chê bai tác phẩm của ta cả. Đừng có lại bắt đầu đấy" giọng hắn cao lên đầy đe dọa khi Barney lại mở miệng. “Đi ngay đi.”

Từ ngưỡng cửa, Simon hỏi, “Có chuyện gì thế?"

“Không có gì,” Barney nói. Cuộn bức tranh lại, nó nhặt hai lon nước lên và đi ra cửa.

“Anh không khát,” Simon nói.

“Em thì có.” Barney uống một hơi dài.

Tên họa sĩ đứng nhìn chúng, mặt cau có, chắn đường không cho chúng quay trở vào trong căn nhà. Bên ngoài, dưới ánh nắng, con ngựa to lớn của hắn bình thản bước tới một bước, miệng vẫn đều đều gặm cỏ.

Simon nói, “Chúng tôi đi được chưa?”

Gã đàn ông nheo mắt lại, hắn nói nhanh, “Ta không hề giữ chân bọn mày. Hỏi ta làm gì?”

Simon nhún vai. “Thì vừa rồi Barney bảo, đi về thôi, và ông bảo, đừng vội. Có thế thôi.”

Một vẻ gì đó giống như sự nhẹ nhõm thoáng hiện trên khuôn mặt ngăm đen của gã kia. “Em trai mày đã nhận được bức tranh quý báu của nó rồi, vì thế hãy đi đi, đi đi. Đi lên phía trái trang trại,” hắn đưa tay chỉ lối mòn cỏ mọc um tùm lượn vòng qua khúc quanh, “bọn mày sẽ thấy một lối tắt dẫn về làng. Lối ấy hơi um tùm, nhưng nó sẽ dẫn bọn mày đến Mũi Kemare.”

“Cảm ơn ông,” Simon nói.

“Tạm biệt,” Barney nói.

Hai đứa băng qua cánh đồng, không hề nhìn lại. Chúng cảm thấy như vừa bước ra khỏi một màn sương u ám vậy.

“Anh có nghĩ đó là một cái bẫy không?” Barney thì thào. “Có thể có ai đó đang phục sẵn ở trang trại đợi bọn mình đến.”

“Sao phải rắc rối như thế?” Simon nói. “Hắn chẳng cần giăng bẫy gì hết.”

“Được thôi.” Lon ton chạy cạnh anh, Barney tò mò nhìn chằm chằm vào mặt nó. “Anh Simon, quả thực trông anh sợ lắm. Anh chắc là anh không sao đấy chứ?”

“Im đi, đừng nhắc đến nữa,” Simon nói, giọng trầm nhưng hung dữ. “Tao không sao hết. Đi nhanh lên.”

“Nhìn kìa!” Barney kêu lên khi chúng đi vòng qua khúc quanh. “Nó trống trơn!”

Căn nhà dài xây bằng đá xám của trang trại hiện ra trước mặt chúng, rõ ràng là đã bị bỏ hoang: khắp nơi không có gì động đậy, những thứ nông cụ cũ rỉ sét nằm trên sân, mấy ô cửa sổ đen sì trống hoác, kính vỡ lởm chởm. Cái mái tranh của gian nhà phụ đã võng xuống nom thật sợ; những bụi mâm xôi gai vươn dài những cánh tay xanh hoang dại từ rừng đang lén lút tiến tới xâm chiếm ngôi nhà.

“Thảo nào mà hắn chẳng ở trong một căn nhà lưu động. Anh có nghĩ hắn là người lai di gan thật không?”

“Chắc là không đâu,” Simon nói. “Chỉ là để giải thích tại sao trông hắn lại khác như thế thôi. Và để giải thích căn nhà lưu động nữa. Anh không biết tại sao nhưng ông Gumerry chắc sẽ biết. Lối mòn kia rồi.” Nó đi về khoảng trống nơi những bụi cây rậm rạp gần ngôi nhà cũ mở ra, và chúng mò mẫm men theo một con đường hẹp mọc đầy mâm xôi.

“Em đói meo rồi,” Barney nói. “Hy vọng là bác Penhallow sẽ tráng trứng và làm thịt hun khói.”.

Simon nhìn nó, mặt vẫn căng thẳng. “Anh phải nói chuyện với ông Gumerry. Cả hai bọn mình. Anh không giải thích bây giờ được, nhưng việc gấp lắm.”

Barney trố mắt nhìn. “Ờ thì kiểu gì ông cũng ở nhà mà, phải không?”

“Có thể. Nhưng mọi người đã ăn sáng từ lâu rồi, có thể họ sẽ đi tìm bọn mình cũng nên.”

“Ở đâu?”

“Anh không biết. Trước tiên mình thử đến Ngôi nhà Xám xem sao.”

“OK” Barney vui vẻ nói. “Hẳn con đường này sẽ dẫn đến khá gần đấy. Và bọn mình có thể... " Nó bỗng đứng sững lại, nhìn Simon. “Rufus! Bọn mình không dẫn nó về! Anh Simon, kinh khủng quá, em quên bẵng mất nó! Nó đi đâu mất rồi?

“Nó bỏ chạy rồi. Đó là một trong những điều anh phải giải thích.” Simon mệt mỏi đi tiếp. “Tất cả đều dẫn đến cùng một chuyện. Và bọn mình phải tìm thấy Ông Merry càng sớm càng tốt, nếu không thì sẽ hỏng bét.”

*

“Trên này chẳng thấy bóng dáng hai anh em đâu cả.” Will loay hoay trèo xuống những tảng đá ở đầu Mũi Kemare.

“Không thấy,” Merriman nói. Ông đứng yên, làn gió biển thổi tung mớ tóc bạc của ông như thể nó là một lá cờ.

“Có thể hai anh em đã trèo xuống cái vịnh bên cạnh, ở chỗ mấy tảng đá dưới chân vực.” Jane nói. “Mình đi xem sao.”

“Được thôi.”

“Đợi đã,” Merriman nói. Khi chúng ngạc nhiên quay lại thì ông giơ một tay lên và chỉ về phía đất liền, dọc theo mũi đất về phía những cột đá xám dựng đứng nhìn xuống Vịnh Trewissick. Mới đầu thì Jane không thấy gì cả. Rồi em trông thấy một mảng màu nâu đỏ lao rất nhanh đến chỗ họ, và lát sau mảng màu ấy hiện ra thành hình một chú chó đang tuyệt vọng chạy như điên.

“Rufus?"

Con chó lông xù màu đỏ dừng lại trước mặt họ, thở hồng hộc, cố sủa nhưng chỉ phát ra được mấy tiếng thở hừng hực hổn hển.

“Nó lúc nào cũng phóng từ đâu đó ra và cố nói cho mọi người biết chuyện gì đó,” Jane nói vẻ bất lực, quỳ xuống xoa xoa đầu chú chó. “Giá mà nó biết nói nhỉ. Có muốn đi cùng với bọn tao không, Rufus? Muốn đi giúp bọn tạo tìm Simon và Barney không?”

Nhưng chẳng mấy chốc họ đã nhận ra rằng Rufus rõ ràng không muốn gì khác ngoài thuyết phục họ quay trở lại con đường họ đã đi đến, dọc theo mũi đất. Nó nhảy lên, rên ư ử và sủa, thế là mấy ông cháu đành đi theo nó. Khi đến gần đám cột đá, những cột granít nguyên khối dựng đứng thành nhóm chơ vơ trên mảng cỏ đầy gió, thì họ thấy từ phía làng đi tới là Simon, Barney và Thuyền Trường Toms. Họ đi rất chậm, ông già vẫn phải tập tễnh chống gậy; Jane có thể thấy sự sốt ruột kìm nén trong bước chân thong thả của hai anh em.

Ông Merriman đứng cạnh mấy cột đá khi họ tiến lại. Ông chỉ nhìn có mỗi Simon, và hỏi, “Thế nào?”

“Hắn nhỏ mấy giọt dầu gì đó vào trong chiến chén,” Simon nói, “để cho dầu nổi lên trên mặt nước và bắt Barney ngồi xuống rồi nhìn vào đó.”

"Ngồi xuống ấy à?” Barney hỏi. “Ở đâu cơ?”

“Ở cái bàn. Trong căn nhà lưu động. Tất cả đều tối đen, ngoại trừ một ánh sáng xanh kỳ quái tỏa từ trên trần xuống.”

“Em chẳng nhớ có ánh sáng xanh nào hết. Mà trời ạ, anh Simon, nếu có nhìn thấy chiếc chén Thánh dù chỉ một giây thôi thì em cũng phải nhớ chứ... và em biết là em không hề nhớ là đã nhìn thấy nó.”

“Barney” Simon nói, giọng run lên vì căng thẳng, và nó dựa người vào cái cột đá gần nhất. “Im đi nào. Mày đã bị phù phép kiểu gì đó, nên mày không nhớ gì hết.”

“Có, em nhớ chứ, em nhớ tất cả những gì bọn mình đã làm ở đó, nhưng hầu như mình chẳng làm gì cả. Ý em là mình chỉ ở đó có một, hai phút thôi, để lấy bức tranh của em. Và em không hề ngồi xuống trong...”

“Barnabas,” Merriman nói. Giọng ông rất khẽ, nhưng trong đó có một vẻ dữ dội lạnh lùng đến nỗi Barney phải ngồi im như tượng; nó thì thào, “Cháu xin lỗi.”

Simon không để ý đến nó. Mắt nó đờ ra, như thể nó đang nhìn thấy một cái gì không có ở đó. “Barney nhìn vào chiếc chén hồi lâu, và rồi trong căn nhà bỗng trở nên rất lạnh và thật khủng khiếp. Nó bắt đầu nói, nhưng,” Simon nuốt nước miếng, “cái giọng phát ra.. không phải là của nó, mà là một giọng nói khác, và cái cách nó nói cũng khác, cách dùng từ... Nó nói rất nhiều điều cháu không hiểu, về một ai đó tên là Anubis, và việc chuẩn bị đón những chúa tể vĩ đại. Rồi nó nói, Họ đã tới, nhưng không nói đó là ai. Và gã họa sĩ, cái tên thuộc phe Bóng Tối, hắn bắt đầu hỏi rất nhiều câu, và Barney thì trả lời, nhưng vẫn bằng cái giọng trầm trầm quái gở đó, không giống giọng nó chút nào, cứ như giọng ai khác vậy.”

Simon bồn chồn cựa quậy; tất cả bọn họ đều ngồi quây quanh nó giữa đám cột đá khổng lồ, lắng nghe chăm chú, không nói một lời. Gió khẽ thổi vi vu qua đám cỏ và quanh những cột đá cao vút. “Hắn hỏi, ‘Ai có nó? Và Barney đáp, Phù Thủy Xanh. Hắn lại hỏi ‘Ở đâu? và Barney nói, ‘Ở đáy nước sâu xanh thẳm, trong lãnh địa của Tethys (Nữ thần biển trong thần thoại Hy Lạp), nằm ngoài tầm với. Gã họa sĩ nói, Không ngoài tầm với của ta. Một hồi lâu Barney không nói gì, và rồi nó chuyển sang nói bằng giọng của mình, chắc chắn là nó đang miêu tả một cái gì đó nó nhìn thấy. Nghe giọng nó có vẻ rất phấn khích, nó nói, ‘Có một sinh vật rất kỳ quái, toàn màu xanh, bóng tối bao phủ nó hoàn toàn, ngoại trừ một chỗ phát ra một ánh sáng rực rỡ, quá chói lọi không thể nhìn vào được... và nó không thích tôi, hay ông, hay bất kỳ ai khác, nó không cho phép ai lại gần... Gã họa sĩ tỏ ra hết sức kích động, bứt rứt đến nỗi hầu như không ngồi yên nổi, hắn hỏi, ‘Lời thần chú nào sẽ điều khiển được nó? Và đột nhiên nó lại không còn là Barney nữa, mặt nó lại trở nên đờ đẫn, và cái giọng nói trầm trầm khủng khiếp kia lại phát ra, và giọng nói đó trả lời, 'Lời thần chú của Mana, lời thần chú của Reck và lời thần chú của Lir, nhưng không lời nào trong số này sẽ hiệu nghiệm nếu Tethys muốn ngăn ngươi lại. Bởi vì với tất cả sức mạnh của mọi sự sống dưới biển khơi kia, chẳng mấy chốc nữa Phù Thủy Xanh sẽ trở thành một sinh vật do Tethys cai trị.”

“À,” Thuyền Trưởng Toms thốt lên.

Will sẵng giọng hỏi, “Lời thần chú của Mana, lời thần chú của Reck và lời thần chú của Lir. Cậu có chắc là nó đã nói như vậy không?”

Mệt mỏi và giận dữ, Simon ngẩng đầu lên nhìn cậu với vẻ chán ghét. “Tất nhiên là chắc. Nếu cậu nghe thấy một giọng nói như thế phát ra từ miệng em mình, cậu sẽ nhớ rõ từng lời nó nói cho đến hết đời.”

Will khẽ gật đầu, mặt không chút biểu cảm. Merriman giục giã, “Kể tiếp đi, kể tiếp đi.”

“Sau đó gã họa sĩ đến rất gần Barney và thì thào,” Simon nói tiếp. “Cháu gần như không nghe được hắn. Hắn hỏi, ‘Hãy cho ta biết ta có đang bị theo dõi không’. Cháu cứ ngỡ Barney sắp ngất xỉu. Nó nhìn chằm chằm vào chiếc chén, và mặt nó méo xệch đi, mắt trợn ngược lên nhìn rõ cả lòng trắng, nhưng rồi nó lại bình thường trở lại và giọng nói đó trả lời, ‘Ngươi sẽ được an toàn nếu người không dùng lời Hàn Chú.’ Và gã đàn ông gật đầu, khẽ rít lên một tiếng có vẻ rất mãn nguyện. Hắn ngồi dựa lưng vào ghế và cháu tưởng hắn đã hỏi tất cả những gì hắn muốn biết, và hắn sẽ thôi. Nhưng rồi bất thình lình Barney ngồi phắt dậy, thẳng đơ, và cái giọng kinh khủng đó nói rất to như là gầm lên, ‘Nếu người không tìm ra được bí mật của Pháp Vật vào giữa mùa xuân này, chiếc chén Thánh sẽ phải trở về với Ánh Sáng. Người phải nhanh lên, trước khi Phù Thủy Xanh lui vào đáy nước sâu thẳm, người phải nhanh lên’. Rồi nó ngừng lại, còn Barney gục xuống trong ghế, và,” giọng Simon hơi run run, nó khịt mũi một cái thật mạnh, rồi đột ngột ngẩng đầu lên, “và cháu túm lấy nó xem nó có sao không, thì gã họa sĩ nổi điên lên và quát cháu. Cháu đoán hắn nghĩ cháu đã phá vỡ bùa phép hay là đại loại thế. Thế là cháu cũng nổi điên lên, quát lại rằng hắn sẽ chẳng làm được gì đâu nếu chúng cháu kể lại với ông. Và thế là hắn chỉ ngồi xuống, cười khẩy một cách đáng sợ, và nói rằng chỉ cần búng ngón tay một cái là chúng cháu sẽ quên hết tất cả những gì đã xảy ra cho tới đoạn nào hắn muốn.”

“Và Barney đã quên,” Jane run rẩy nói. “Nhưng anh thì không.”

Simon nói tiếp, “Sau đó bọn cháu nghe thấy Rufus sủa ở bên ngoài cửa, thế là cháu và Barney cùng đứng lên để chạy ra với nó, thì gã đàn ông đen đủi đó nhảy dựng dậy búng ngón tay đánh tách một cái, ngay trước mặt bọn cháu. Cháu thấy mắt Barney mờ đi, và nó đi tới trước rất chậm rồi mở cửa ra như là đang bị mộng du vậy. Thế là cháu bắt chước theo nó, bởi vì rõ ràng là phải rất cẩn thận không để cho gã họa sĩ nghi ngờ là cháu nhớ được những gì vừa xảy ra. Rufus đã biến mất. Bỏ chạy. Barney chớp chớp mắt một lát, rồi lắc đầu, và gần như ngay lập tức nó nói chuyện cứ như là chúng cháu mới chỉ vừa đến đó cách đây một hai phút. Cứ như là du hành ngược thời gian vậy. Thế là cháu cũng cố làm theo.”.

“Anh giả vờ không giỏi lắm.” Barney nói. “Trông anh sợ ơi là sợ, em cứ tưởng anh sắp nôn đến nơi."

“Thế chiếc chén Thánh thì sao?”

“Anh đoán hắn vẫn giữ nó.”

“Em không biết,” Barney nói. “Em không nhớ là đã trông thấy nó mà. Em chỉ nhớ là hắn đã trả lại bức tranh cho em thôi. Đây này.” Nó chìa bức tranh ra cho Merriman, ông đón lấy nó và lơ đãng xoay xoay giữa mấy ngón tay trong khi nhìn Simon.

“Anh Simon,” Jane nói. “Tại sao bùa phép mê lú hiệu nghiệm với Barney nhưng lại không hiệu nghiệm với anh?”.

“Đó là do mấy lon nước,” Simon nói. “Nghe thì ngớ ngẩn, nhưng chắc chắn là như vậy. Chúng cháu đã uống một ít sô đa cam, và chắc trong đó phải có một thứ biệt dược gì đó.”

“Vụng về quá,” Merriman nói. “Cố lỗ sĩ. Nhưng đáng quan tâm đấy.” Ông đưa mắt nhìn Will. Will nhìn lại, và mắt họ mờ đi.

“Nhưng nước cam được đóng kín trong lon kia mà,” Barney ngờ vực nói. “Đó là lý do duy nhất tại sao chúng cháu lại uống, bởi vì hắn không thể cho cái gì vào đó được. Mà anh thậm chí có mở lon nước của anh ra đâu.”

“Lời thần chú của Mana,” Will Stanton nói, rất khẽ, với Merriman. “Và lời thần chú của Reck.”

“Và lời thần chú của Lir.”

“Không, Barney,” Simon nói. “Em đã đi lấy mấy lon nước ấy hai lần kia, chỉ có điều em đã quên mất lần đầu tiên đấy thôi. Và đúng là lần thứ hai thì anh không uống, nhưng lần đầu anh có giả vờ uống một ít. Vì thế hắn mới tưởng bùa phép có hiệu nghiệm với cả hai anh em mình.”

Will nói với ông Merriman, “Không còn thời gian nữa. Chúng ta phải đi ngay bây giờ, ngay lập tức.”

Simon, Jane và Barney trố mắt nhìn cậu. Trong giọng nói của cậu có một vẻ kiên quyết mạnh mẽ và dứt khoát, không hề trẻ con chút nào. Ông Merriman gật đầu, khuôn mặt diều hâu của ông căng thẳng và nghiêm nghị; ông nói với Thuyền Trưởng Toms một cách khó hiểu, “Hãy lo liệu cho chúng.” Rồi ông quay gương mặt lạnh lùng nghiêm nghị về phía Simon và hỏi “Cháu có chắc rằng lúc cuối, giọng nói phát ra từ Barney đã bảo, ‘Trước khi Phù Thủy Xanh lui vào đáy nước sâu thẳm’ không?”

“Chắc ạ,” Simon lo sợ đáp.

“Thế thì nó vẫn còn ở đó,” Will nói, và trước sự kinh ngạc của lũ trẻ, cậu cùng với ông Merriman xoay người vụt chạy, chạy đến cuối mũi đất, về phía mặt biển ở đằng xa.

Họ chạy với sự nhanh nhẹn dẻo dai của loài vật, ông già cao gầy và cậu bé chắc khỏe, những bước chạy dài cấp bách khiến họ như không còn tuổi và mọi nét quen thuộc ở vẻ bề ngoài của họ biến mất, nhanh hơn, nhanh hơn, nhanh hơn. Và khi đến đám đá ở cuối mũi đất họ không dừng lại, mà chạy tiếp. Will nhẹ nhàng nhảy lên đỉnh Mũi Kemare và lao mình vào không trung, vào bầu trời trống trải, hai tay dang rộng, nằm trên gió như chim và theo sau cậu là Merriman, mớ tóc bạc trắng của ông bay phất phơ chẳng khác gì mào chim diệc. Trong một khoảnh khắc hai dáng người xoải dài tối sẫm như lơ lửng trong không trung, rồi một cách chậm rãi như thể thời gian cũng đang ngừng thở, họ lao xuống, và biến mất.

Jane thét lên.

Simon nói, giọng nghẹn lại vì kinh hoàng. “Họ sẽ chết mất! Họ sẽ chết mất!”

Thuyền Trưởng Toms quay về phía chúng, khuôn mặt hồng hào của ông nghiêm lại. Ông không tựa vào cây gậy của mình nữa; người ông như vươn lên cao hơn trước. Ông chìa một tay ra chỉ thẳng vào chúng, năm ngón tay xòe rộng. “Hãy quên đi,” ông nói. “Hãy quên đi.”

Chúng đứng sững trong một thoáng, không nhận thức được gì, và ông thương hại ngắm nhìn vẻ kinh hoàng từ từ rời khỏi mặt chúng, để lại ba khuôn mặt vô hồn, vô cảm.

Ông nhẹ nhàng nói, “Nhiệm vụ của tất cả chúng ta là giữ cho kẻ thuộc phe Bóng Tối nọ không đến gần Phù Thủy Xanh. Will và ông của các cháu đã đi đến chỗ đám ngư dân, đó là một hướng... còn bốn ông cháu ta phải canh chừng một hướng khác, từ nhà nghỉ của các cháu và Ngôi nhà Xám. Hãy biết điều này. Đừng hoảng sợ.”

Ông chậm rãi hạ tay xuống, và tựa như những con rối, lũ trẻ hoạt bát trở lại.

"Bọn mình nên đi ngay thôi,” Simon nói. “Đi nào, Jane.”

“Cháu đi với ông, phải không, Thuyền Trưởng?” Barney hỏi.

“Ta cho cháu ăn sáng đã,” Thuyền trưởng Toms đáp, mắt lấp lánh nhìn nó, tựa người vào cây gậy. “Đã quá giờ rồi.”