← Quay lại trang sách

CHƯƠNG TÁM

Khi Simon và Jane quay trở về căn nhà nghỉ, chúng thấy bà Fran Stanton đang xếp đĩa lên bàn ăn. “Chào các cháu,” bà nói. “Muốn ăn trưa rồi chứ? Bà Penhallow phải đi rồi, nhưng bà ấy đã làm bánh nhân thịt đặc sản Cornwall trông ngon lắm.”

“Cháu đã ngửi thấy mùi bánh rồi,” Simon thèm thuồng nói.

“Tuyệt quá,” Jane nói. “Những nơi hai bác đi thăm có hay không ạ?”

“Hai bác không đi xa lắm,” bà Stanton đáp. “Chỉ quanh quanh St Austell thôi. Các mỏ cao lanh, nhà máy và đại loại thế.” Khuôn mặt dễ mến của bà nhăn lại. “Dù sao thì Bill đến đây cũng chỉ là vì việc đó thôi mà. Và những cái tháp đất sét trắng cao vút ấy nom thật là kỳ diệu, cả những cái ao dưới đáy không một gợn sóng nữa. Nước thì xanh ngăn ngắt ấy... Còn các cháu, có thấy vui không? Mọi người đang làm gì nào?”

“Will và Ông Merry đang đi dạo. Còn Barney thì ở Ngôi nhà Xám với Thuyền Trưởng Toms ạ. Chiều nay bọn cháu cũng sẽ đến đó, ông thuyền trưởng muốn chúng cháu ở lại ăn tối,” Jane đánh bạo, bịa ra một câu trả lời. “Nếu bác không thấy phiền.”

“Tuyệt vời,” bà Fran Stanton nói. “Đằng nào thì Bác Bill và bác cũng sẽ không ăn tối ở nhà... bác đã để bác ấy lại St Austell gặp mấy người, và tối nay bác sẽ quay lại đón bác ấy. Còn chiều nay bác quay về đây chỉ để lười nhác một lát thôi. Chúng ta đi ăn nào... và cháu hãy kể cho bác nghe mọi chuyện về cái vụ Phù Thủy Xanh mà bác không được xem, Jane nhé.”

Vậy là Jane, với một chút khó khăn, miêu tả lại lễ kết Phù Thủy Xanh như là một buổi liên hoan thâu đêm nhộn nhịp, một dịp để các cô gái trong làng được vui chơi, trong khi Simon ăn ngấu nghiến món bánh nhồi thịt và cố không nhìn vào mắt em. Bà Stanton thích thú lắng nghe, lắc lắc mái tóc vàng vẻ thán phục.

“Những tục lệ cổ được giữ gìn như vậy thật là tuyệt,” bà nói. “Và bác thấy rất hay là họ không cho phép người nước ngoài đến xem. Ở Mỹ rất nhiều bộ tộc da đỏ cho phép người da trắng đến xem những điệu nhảy thổ dân của họ, và chẳng mấy chốc tất cả đều biến thành cái bẫy du khách hết.”

“Cháu rất mừng là bác không thấy phật ý,” Jane nói. “Chúng cháu cứ sợ là...”

“Ồ không không không,” bà Stanton nói. “Bác đã có đủ tư liệu để viết một bài báo hay tuyệt cho câu lạc bộ du lịch của bác ở nhà rồi ấy chứ. Bác là thành viên của một câu lạc bộ, cháu biết không, mỗi tháng họp mặt một lần và ở mỗi dịp họp mặt một người lại thuyết trình một chút, có cả máy chiếu, về một nơi mà mình đã tới. Đây là lần đầu tiên,” bà nói thêm hơi có vẻ nuối tiếc, “bác có một nơi thật sự khác thường để kể lại đấy... ngoại trừ Jamaica, mà nơi đó thì mọi người đều đến rồi.”

Sau đó Jane bảo với Simon, trong khi hai đứa đi xuống bến cảng, “Bác ấy dễ mến đấy chứ. Em vui là bác ấy có thể kể với câu lạc bộ của bác ấy về bọn mình.”

“Đám dân địa phương với những phong tục kỳ lạ của họ,” Simon nói.

“Thôi đi, anh thậm chí chẳng phải là dân địa phương nữa. Anh chỉ là một trong đám người nước ngoài từ London đến thôi.”

“Nhưng tao không nằm ngoài tất cả như bác ấy. Dù sao thì cũng chẳng phải tại bác ấy. Bác ấy chỉ đến từ xa quá, nên chẳng biết gì hết. Cũng như những người đến viện bảo tàng và ngắm chiếc chén Thánh rồi kêu lên, ôi, hay quá, mà chẳng hề biết nó thật sự là cái gì.”

“Ý anh là những người đã từng đến ngắm nó, khi nó còn ở đó.”

"Ôi Chúa ơi. Đúng thế.”

“Dù sao thì,” Jane nói," bọn mình cũng sẽ xử sự như bác Stanton thôi nếu bọn mình đến Mỹ."

“Tất nhiên là thế rồi, nhưng vấn đề không phải là ở đấy...”

Chúng vui vẻ đôi co qua lại trong khi vượt qua kè đá và đi lên con dốc dẫn đến Ngôi nhà Xám. Lúc dừng lại lấy hơi, Jane quay nhìn lại con đường dẫn chúng đến đây. Bất thình lình em đưa tay bám lấy bức tường bên cạnh và đứng sững ở đó, mắt nhìn không chớp.

“Anh Simon!”

“Cái gì thế?”

“Nhìn kìa!”

Dưới bến cảng, ngay chính giữa kè đá, là tên họa sĩ, người của phe Bóng Tối. Hắn ngồi trên một cái ghế đẩu gấp trước một cái giá vẽ, với một cái balô mở ra trên mặt đất bên cạnh, và hắn đang vẽ. Động tác của hắn không chút hấp tấp; hắn ngồi đó bình thản và thong thả, chấm phá những nét màu lên tấm vải. Hai người khách du lịch dừng lại sau lưng hắn để ngắm, hắn không hề để ý đến họ mà chỉ điềm tĩnh tiếp tục vẽ.

“Hắn chỉ ngồi đó thôi à!” Simon kinh ngạc nói.

“Đó là một cái bẫy đấy. Chắc là thế rồi. Có lẽ hắn có một tên đồng đảng đang đi làm mọi việc cho hắn trong lúc hắn đánh lạc hướng bọn mình.”

Simon chậm rãi nói, “Nhưng trong căn nhà lưu động đó không thấy bóng dáng ai hết. Và cái trang trại thì có vẻ đã bị bỏ hoang nhiều năm nay rồi.”

“Bọn mình đi báo với ông thuyền trưởng thôi.”

Nhưng chúng không cần phải báo. Ở Ngôi nhà Xám, chúng thấy Barney đang ngồi trong một căn phòng trên cao nhìn xuống bến cảng, quan sát gã họa sĩ bằng cái kính viễn vọng to nhất của Thuyền Trưởng Toms. Còn ông già thì sau khi mở cửa cho chúng vào, đã ở lại dưới nhà. “Cái chân này của ta.” ông rầu rầu nói, “không còn trèo lên trèo xuống cầu thang được nữa rồi.”

“Nhưng em dám cá là ông ấy có nhắm mắt lại cũng nhìn thấy rõ không kém gì em khi nhìn qua cái kính này," Barney nói, một mắt nhắm nghiền, mặt nheo lại nhìn qua cái kính viễn vọng. “Ông ấy rất đặc biệt. Anh chị hiểu không? Giống như ông Gumerry ấy. Họ là loại người giống nhau.”

“Nhưng đó là loại người gì mới được chứ?” Jane trầm ngâm nói.

“Ai mà biết được?” Barney vươn vai đứng lên. “Một loại người kỳ lạ. Siêu phàm. Loại người thuộc về Ánh Sáng”

“Sao cũng được.”

“Ừ. Sao cũng được.”

“Ê Jane, xem này!” Simon nói khi đang cúi xuống thị kính của chiếc kính viễn vọng. "Thật là tuyệt, cứ như là mình đang ở ngay trên đầu hắn ấy. Có thể đếm được từng sợi lông mi của hắn.”

“Em đã nhìn vào cái mặt ấy lâu quá đến nỗi em có thể vẽ lại được nó theo trí nhớ ấy chứ.” Barney bảo.

Simon dính chặt vào ống kính, như bị mê hoặc. “Thế này cũng tuyệt không kém nghe được những gì hắn ói. Thậm chí ta có thể nhìn miệng hắn mà đoán ra được. Có thể nhìn thấy từng thay đổi nhỏ trên nét mặt hắn.”

“Đúng thế,” Barney nói. Nó bình thản nhìn ra ngoài cửa sổ, hà hơi lên tấm kính; vẽ một cái mặt lên mảng kính mờ, và rồi lại xóa đi. “Mặt hắn thì nhìn được rõ mồn một. Rắc rối duy nhất là, không làm sao nhìn được bức tranh hắn đang vẽ.”

Bây giờ đến lượt Jane nhìn vào cái kính viễn vọng. Em lo lắng nhìn vào khuôn mặt ở đằng xa được chiếc kính lớn thâu tóm: khuôn mặt với hàng lông mày rậm rạp, dữ tợn đầy vẻ tập trung, bao quanh là mớ tóc dài rối bù. “Đúng thế, từ hướng này thì tất nhiên là chỉ thấy được đằng sau cái giá vẽ và nhìn xuống mặt hắn qua đầu tấm vải thôi. Nhưng bức tranh đâu có quan trọng, phải không?”

“Nếu mày là một nghệ sĩ như Barney thì có đấy,” Simon nói. Nó đưa tay lên ôm đầu, làm điệu bộ cường điệu của một họa sĩ.

"Ha ha,” Barney cười rất nhẫn nại. “Không chỉ vì thế đâu. Em nghĩ bức tranh có thể sẽ quan trọng.”

“Tại sao?”

“Em không biết. Nhưng Thuyền Trưởng Tom có hỏi em là hắn đang vẽ cái gì.”

“Thế ông ấy nói sao khi em bảo là em không nhìn thấy?”

“Ông ấy chẳng nói gì cả.”

“Đấy thấy chưa.”

“Gã họa sĩ của em không thay đổi nét mặt chút nào thì phải.” Jane đang nhìn vào ống kính. “Chỉ ngồi đó trừng mắt nhìn tấm vải. Lạ thật.”

“Có gì mà lạ,” Simon nói. “Hắn lúc nào chẳng trừng mắt nhìn.”

“Không, ý em lạ là hắn không nhìn đi đâu khác. Khi ngắm Mẹ vẽ một bức tranh phong cảnh, ta có thể thấy mắt bà liên tục đưa lên đưa xuống. Di chuyển không ngừng. Từ cái bà đang vẽ xuống bức tranh rồi lại nhìn lên. Đằng này hắn lại chẳng nhìn đi đâu cả.”

“Để em xem lại nào.” Barney huých cô chị sang bên và hăm hở nhìn vào ống kính, tay vén một món tóc vàng rủ trước trán ra khỏi mắt. “Chị nói đúng đấy. Sao em không để ý nhỉ?” Nó nắm tay thụi một cú vào đầu gối mình.

“Tao vẫn chẳng thấy có gì mà phải loạn lên cả,” Simon bình thản bảo.

“Ờ, có lẽ là chẳng có gì thật. Nhưng bọn mình cứ đi báo với Thuyền Trưởng Toms xem sao.”

Chúng lao xuống ba tầng thang gác và vào gian phòng khách chất đầy sách khắp bốn bức tường ở phía đầu nhà. Rufus đứng dậy và vẫy đuôi đón chúng. Thuyền Trưởng Toms đang đứng cạnh giá sách, cắm mắt vào một cuốn sách nhỏ mở ra trên tay. Ông ngước nhìn lên khi chúng chạy ào đến, và gập quyển sách lại.

“Có tin tức gì sao, các công dân?” ông hỏi.

Barney nói, “Hắn vẫn đang ngồi vẽ ạ. Nhưng chị Jane vừa nhận thấy một điều, hắn không vẽ cảnh trước mặt. Ý cháu là hắn chỉ nhìn vào tấm vải thôi, thậm chí còn chẳng thèm liếc nhìn bất kỳ cái gì khác.”

“Có nghĩa là hắn có thể ngồi vẽ trong căn nhà lưu động cũng được,” Simon nói, đầu óc nó bây giờ mới bắt đầu vào guồng. “Tức là hắn không ra ngồi đây chỉ để vẽ, hắn đến vì một lý do gì khác”

“Rất có thể như vậy,” Thuyền Trưởng Toms nói. Ông tách mấy cuốn sách trên cái giá bên cạnh ra, hết sức cẩn thận, và đặt quyển sách trên tay mình vào đó. “Và cũng có thể là không phải.”.

“Ý ông là sao ạ?”.

“Bức tranh và cái lý do khác nọ có thể chỉ là một mà thôi. Vấn đề là,” Thuyền Trường Toms nhìn chằm chằm vào những cuốn sách của mình như đòi chúng lên tiếng, “suốt đời ta cũng không thể tìm hiểu được điều đó có nghĩa là gì?”

*

Chúng thay phiên nhau theo dõi hàng giờ, hàng giờ liền. Cuối cùng, sau bữa ăn khuya sớm mà có thể gọi là bữa tối muộn cũng được, Jane và Simon lại ngồi với Thuyền Trưởng Toms trong căn phòng khách chất đầy sách. Ông đang bập bập một tẩu thuốc tỏa khói thơm thơm, mảng tóc bạc quanh đỉnh đầu hói của ông như kiểu tóc của một vị thầy tu già thông thái nào đó vậy.

“Trời sắp tối rồi.” Jane nói, đưa mắt nhìn bầu trời màu đỏ cam. “Khi đó thì hắn sẽ phải ngừng vẽ.”

“Ờ, nhưng hắn vẫn đang ngồi đó,” Simon nói, “nếu không thì Barney đã từ trên đài quan sát xuống rồi.” Nó tha thẩn đi quanh phòng, ngắm những bức tranh treo giữa các giá sách. “Cháu vẫn nhớ rõ những con tàu này từ năm ngoái. Tàu Hươu Vàng này... tàu Mary và Ellen này... tàu Xổ Số nữa... tàu thủy mà lại đặt tên như thế, buồn cười thật.”

“Đúng vậy,” Thuyền Trưởng Toms nói. “Nhưng cũng rất thích hợp. Chơi xổ số cũng gần giống như đánh bạc vậy... và con tàu này gần như là thuộc về đám dân cờ bạc. Nó là một con tàu buôn lậu rất nổi tiếng.”

“Buôn lậu!” Mắt Simon ngời lên.

“Hai trăm năm trước đây ở Cornwall đó là một nghề rất phổ biến. Buôn lậu... ngày đó họ thậm chí còn không gọi nó như vậy, họ gọi nó là buôn bán công hằng. Họ có những con thuyền nhỏ rất nhanh, các đội thủy thủ dày dạn kinh nghiệm. Rất nhiều thuyền buôn đã được đóng ngay tại Trewissick này.” Ông già lơ đãng nhìn xuống chiếc tẩu, xoay xoay nó trong tay, mắt ông trở nên mơ màng xa xăm. “Nhưng câu chuyện của tàu Xổ Số là một câu chuyện kinh khủng, về một vị tổ tiên của ta mà đôi khi ta ước là mình có thể quên đi được. Mặc dù ghi nhớ thì vẫn tốt hơn. Tàu Xổ Số đến từ Polperro (Một thành phố cảng nhỏ nằm ở phía Đông Nam Cornwall.), một con tàu tuyệt đẹp khi lướt sóng. Đội thủy thủ tàu đã có nhiều năm kinh nghiệm trên đường buôn, chưa bao giờ bị tóm, cho đến một ngày kia, ở phía đông vùng này, một con tàu Hải Quan đuổi kịp nó, cả hai bên nổ súng vào nhau, và một thủy thủ trên tàu Hải Quan bị giết. Giết người là chuyện khác hẳn so với buôn lậu. Vậy là toàn bộ thủy thủ đoàn của tàu Xổ Số trở thành những kẻ bị truy nã. Để chạy thoát ở Cornwall không phải là khó, và họ đã được an toàn trong một thời gian. Và họ đã có thể được an toàn lâu hơn, nhưng một người trong đám thủy thủ, Roger Toms, đã tự hộp mình cho Hải quan và tố cáo bọn đồng đảng của mình, nói rằng một thủy thủ trên tàu tên là Tom Potter đã nổ phát súng thảm khốc đó.”

“Và Roger Toms chính là ông tổ của ông,” Jane nói.

“Đúng thế, kẻ lầm lạc khốn khổ đó. Người dân Polperro bắt cụ bỏ lên một con thuyền đi vùng Đảo biển Măng sơ, để cụ không thể làm chứng chống lại Tom Potter trước tòa được. Nhưng Hải Quan đã đưa cụ quay lại, còn Tom Potter bị bắt, và đưa ra xử ở tòa Đại Hình ở London, rồi bị treo cổ.”.

“Thế Potter có tội thật không ạ?” Simon hỏi.

“Cho tới ngày nay vẫn không ai biết cả. Người dân Polperro khăng khăng cho là y vô tội... có người còn nói chính Roger Toms đã bắn phát súng đó. Nhưng có thể họ chỉ bảo vệ người của họ mà thôi, vì Tom Potter sinh ra ở Polperro, còn Roger Toms lại là người Trewissick.”

Simon nghiêm nghị nói, “Nhưng cụ không nên tố cáo bạn của mình như thế, ngay cả nếu Potter có tội thật đi chăng nữa. Như thế chẳng khác gì sát nhân cả."

“Đúng vậy.” Thuyền Trưởng Toms nhẹ nhàng nói. “Đúng vậy. Và Roger Toms không còn dám bên mảng đến Cornwall nữa, kể từ ngày đó cho đến khi chết. Nhưng không ai biết được động cơ thật sự của cụ. Một số người Trewissick bảo rằng Potter có tội, và rằng Toms tố cáo y vì cụ nghĩ đến những người vợ và đám con nhỏ, vì cụ chắc rằng trừ phi kẻ có tội bị tố cáo, nếu không thì sớm muộn gì toàn bộ thủy thủ trên tàu Xổ Số sẽ bị bắt và treo cổ hết. Nhưng phần lớn đều nghĩ xấu về cụ. Cụ là nỗi nhục của cả làng, thậm chí đến giờ người ta vẫn chưa quên.” Ông thuyền trưởng nhìn ra bầu trời đang tối dần bên ngoài cửa sổ, và cặp mắt xanh trên khuôn mặt tròn hiền hậu của ông bỗng đanh lại. “Những người ưu tú nhất và những kẻ hèn hạ nhất đều xuất thân từ Cornwall. Và cả ở nơi khác kéo đến nơi đây nữa.”

Jane và Simon trố mắt nhìn ông, không hiểu. Chúng chưa kịp nói gì thì Barney bước vào phòng.

“Đến lượt anh rồi đấy, anh Simon. Thuyền trưởng, cháu đi lấy thêm mấy miếng bánh ngon tuyệt ấy được không ạ?”.

“Việc theo dõi khiến người ta mau đói,” Thuyền Trưởng Toms nghiêm trang nói. “Tất nhiên là được rồi."

“Cảm ơn ông ạ.” Barney dừng lại ở cửa một lát, liếc nhìn quanh phòng. “Cẩn thận mắt này,” nó nói, với tay về phía công tắc và bật đèn lên.

“Trời ơi!” Jane kêu lên, chớp chớp mắt trong ánh sáng chói lòa bất ngờ. “Trời tối thật rồi. Bọn chị mải nói chuyện nên không để ý.”

“Và hắn vẫn còn ngồi đó,” Barney nói.

“Vẫn còn cơ à? Trong bóng tối ư? Làm sao mà hắn vẽ trong bóng tối được?”

“Hắn vẫn đang vẽ đấy thôi. Có thể hắn không vẽ cảnh trước mặt, nhưng hắn vẫn đang quét màu vẽ lên tấm vải, mặt lạnh như tiền. Trăng lên rồi, chỉ là trăng lưỡi liềm thôi nhưng cũng đủ sáng để nhìn thấy hắn qua ống kính. Em bảo thật, hắn đúng là điên hết chỗ nói rồi.”

Simon nói, “Tại mày không nhớ căn nhà lưu động đấy thôi. Hắn không điên đâu. Hắn thuộc phe Bóng Tối đấy.”

Nó ra khỏi phòng và lên gác. Barney nhún vai rồi đi vào bếp để kiếm bánh.

Jane hỏi, “Thuyền Trưởng Toms, khi nào thì ông Gumerry sẽ quay về ạ?”.

“Khi ông ấy tìm được cái mà ông ấy muốn tìm. Cháu đừng lo. Họ sẽ đến thẳng chỗ chúng ta thôi.”

Thuyền Trưởng Toms khó nhọc đứng dậy, với tay lấy cây gậy. “Ta nghĩ có lẽ ta cũng nên nhìn qua cái kính viễn vọng ấy xem sao, xin phép cháu một phút nhé, Jane.”

“Ông có tự đi được không ạ?”

“Ồ có chứ, cảm ơn cháu. Ta chỉ đi chậm là ổn thôi.” Ông tập tễnh đi ra, và Jane đến quỳ lên ghế ngồi cửa sổ, nhìn ra bến cảng. Một cơn gió đang nổi lên ngoài đó, em có thể nghe thấy tiếng gió bắt đầu khe khẽ rít lên qua khung cửa. Em thầm nghĩ: chẳng mấy chốc hắn sẽ bị lạnh thôi, cái tên họa sĩ đến từ Bóng Tối đó. Tại sao hắn cứ ngồi mãi ở đó? Hắn đang làm gì vậy?

Gió thổi mạnh hơn. Mặt trăng biến mất sau những đám mây. Bầu trời tối đen, và Jane không còn nhìn thấy những đám mây lúc trước vẫn còn lờ mờ. Đột nhiên em nhận ra rằng mình có thể nghe thấy tiếng biển. Thường thì tiếng rì rào khe khẽ của những con sóng vỗ vào tường cảng luôn tạo nên một giai điệu trầm lắng không ngừng, thứ giai điệu đã hóa thành một phần của cuộc sống nơi đây, vì lúc nào cũng nghe thấy nó nên chẳng ai để ý tới. Nhưng giờ thì tiếng từng cơn sóng nổi lên rất rõ ràng, em có thể nghe được từng tiếng ầm ào. Biển, cũng như cơn gió, đang mạnh lên.

Simon và Thuyền Trưởng Toms đã trở lại trong phòng. Jane nhìn thấy bóng họ mờ mờ trên cửa kính, và quay lại.

“Không thể nhìn thấy hắn được nữa,” Simon nói. “Không có đủ ánh sáng. Nhưng anh nghĩ hắn vẫn còn ở đó.”

Jane nhìn Thuyền Trưởng Toms. “Chúng ta làm gì bây giờ ạ?”.

Khuôn mặt của người thủy thủ già đầy vẻ lo lắng, hằn lên những nếp nhăn do suy nghĩ. Ông nghiêng đầu lắng nghe tiếng gió. “Ta sẽ đợi một lát xem thời tiết ra sao, có nhiều lý do để làm vậy hơn là các cháu tưởng đấy. Sau đó... sau đó thì chúng ta sẽ tính tiếp.”

Barney hiện ra ở khung cửa, nhấm nháp một miếng bánh to tướng màu vàng ruộm.

“Trời ạ,” Jane kêu lên, để bắt mình thôi không lắng nghe tiếng biển nữa, “chắc em phải ăn hết cả đĩa bánh rồi đấy.”

“Hừmmmm.” Barney nói. Nó nuốt đánh ực một cái. “Mọi người có biết là hắn vẫn còn đó không?”

“Cái gì?” Tất cả nhìn nó chằm chằm.

“Em không chỉ ở rịt trong bếp đâu. Em vọt ra cửa sau và băng qua con đường trước nhà để nhìn từ trên tường cảng xuống... sợ là hắn sẽ nhìn thấy ánh đèn nếu em mở cửa trước. Và hắn vẫn còn ở đó! Ở nguyên chỗ cũ. Chắc chắn là hắn bị điên rồi, anh Simon ạ. Có thuộc phe Bóng Tối hay không thì cũng vậy. Ý em là hắn ngồi đó trong bóng tối với cái giá vẽ, và vẫn tiếp tục vẽ. Tiếp tục vẽ trong bóng tối như hũ nút! Hắn có một cái đèn gì đó thì phải, chỉ nhờ vào quầng sáng tỏa ra thì mới thấy được là hắn vẫn còn ngồi đó. Nhưng cũng vậy cả thôi, thiệt tình...”

Thuyền Trưởng Toms đột nhiên ngồi phịch xuống một chiếc ghế tựa. Ông nói, nửa như thì thầm với chính mình, “Ta không thích chuyện này chút nào. Thật là vô lý. Ta cố nhìn xem, nhưng chỉ thấy bóng tối..."

“Gió đang nổi lên to hơn rồi,” Jane nói. Em rùng mình.

“Ở ngoài kia, có thể nghe rõ tiếng sóng đập ầm ầm vào mũi đất ấy,” Barney vui vẻ nói. Nó nhét nốt

chỗ bánh vào miệng.

Simon hỏi, “Sẽ không có bão chứ ạ, thuyền trưởng?”

Ông già không trả lời. Ông ngồi thu lu trong chiếc ghế, nhìn trân trân vào lò sưởi trống trơn. Rufus, từ nãy đến giờ vẫn nằm yên trên tấm thảm trải trước lò, đứng dậy và liếm tay ông, rên lên ư ử. Một đợt gió mạnh bỗng rít lên trong ống khói và làm cánh cửa trước rung lên cành cạch. Jane giật thót mình.

“Ôi trời ơi,” em nói. “Em mong là ông Gumerry không sao. Giá mà chúng mình đã chuẩn bị trước một cái gì đó làm hiệu để gọi ông về khi cần. Giống như người da đỏ và dấu hiệu bằng khói ấy.”

“Giờ tối thế này thì mình chỉ cần một đống lửa thôi,” Barney nói. “Một đống lửa hiệu.”

“Ở vùng này,” Thuyền Trưởng Toms lơ đãng nói, “lửa hiệu cũng lâu đời như con người nơi đây vậy, họ đã nhóm lửa hiệu từ buổi ban sơ. Một lời cảnh báo, từ thuở thời gian bắt đầu..” Ông cúi người về phía trước, hai tay ôm chặt lấy đầu cây gậy chống có chạm trổ, và bần thần nhìn vào khoảng không trước mặt như thể đang dõi mắt ngược lại hàng bao nhiều thế kỷ trước, hoàn toàn lãng quên căn phòng và lũ trẻ đang ở đó. Khi ông lên tiếng trở lại, giọng ông nghe trẻ hơn, rõ ràng hơn, mạnh mẽ hơn, đến nỗi chúng kinh ngạc đứng im sững tại chỗ.

“Lần trước khi Bóng Tối trỗi dậy ở vùng đất này,” Thuyền Trưởng Toms nói, “nó đến từ biển cả và người dân Cornwall đã đốt lửa hiệu khắp nơi nơi để cảnh báo rằng nó sắp tiến tới. Từ Estols đến Trecobben đến Carn Brea những đống lửa cảnh báo bùng lên, từ St Agnes đến Belovely và vùng Đồi St Bellarmine, trải dài ra đến tận Cadbarrow, Đồi Trọc và Brown Willy. Đống lửa cuối cùng là ở Vellan Druchar, và ở đó Ánh Sáng đã khai chiến với Bóng Tối. Thế lực Bóng Tối đã bị đánh bật trở lại biển, và lẽ ra đã có thể trốn thoát bằng đường đó, hòng lại nổi lên tấn công lần nữa. Nhưng Nữ Thần đã gửi đến một ngọn gió Tây, thổi khô mọi hy vọng chạy thoát của chúng ngay khi còn ở trên bờ, và vậy là lần đó, mọi thế lực Bóng Tối đã bị đánh bại. Thế nhưng Cổ Nhân đầu tiên đã tiên tri rằng từ vùng biển ấy, từ bãi biển ấy, một ngày nào đó Bóng Tối sẽ lại một lần nữa trỗi lên.”

Ông đột ngột ngừng bặt, và bọn trẻ đứng sững đó, nhìn ông không dứt. Cuối cùng Simon cất tiếng khàn khàn hỏi, “Có phải... có phải Bóng Tối đang nổi dậy không ạ?”

“Ta không biết.” Thuyền Trưởng Toms đáp gọn, bằng giọng nói bình thường của ông. “Ta không cho là vậy, Simon ạ. Chúng chưa thể nổi dậy được. Nhưng nếu thế thì đang có một điều gì khác xảy ra mà ta không thể hiểu nổi.” Ông đứng dậy, tựa người, tay vịn của chiếc ghế. “Ta nghĩ đã đến lúc ta ra ngoài đó, xem ta có thể hiểu được gì nào.”

“Chúng cháu sẽ đi với ông,” Simon nói ngay.

“Các cháu có chắc không?”

“Thú thật là,” Jane nói, “cho dù chuyện gì đang xảy ra ngoài đó đi chăng nữa thì cháu nghĩ là chúng cháu vẫn thà đi với ông còn hơn là ở lại một mình.”

“Đúng thế ạ,” Barney hùa theo.

Thuyền Trưởng Toms mỉm cười. “Thế thì các cháu đi lấy áo khoác đi. Rufus, mày ở lại đây. Ở lại.”

Để lại chú chó lông đỏ bực bội trên tấm thảm trước lò sưởi, mấy đứa nhóc rời khỏi Ngôi nhà Xám và chậm rãi đi theo bước chân khó nhọc của ông thuyền trưởng xuống đồi. Ở chân dốc, nơi con đường dẫn từ trên đồi xuống gặp kè đá, ông già khẽ kéo chúng nấp vào cái bóng của một nhà kho ở phía sau bến cảng. Khi đứng túm tụm lại với nhau ở đó, bị cơn gió ào ào từ biển thốc vào, chúng có thể nhìn thấy tên họa sĩ phe Bóng Tối cách chúng chưa đầy hai mươi thước, ở ngay bên mép biển, ánh sáng tỏa quanh khiến hắn trông rõ mồn một..

Vì là lần đầu tiên Jane tận mắt nhìn thấy hắn, em hức lên một tiếng, nhưng em cũng nghe thấy cùng một âm thanh nghèn nghẹn bản năng ấy từ những người khác. Bởi vì tên họa sĩ không hề có một chiếc đèn nào để tạo ra cái quầng sáng bao quanh hắn. Ánh sáng đó tỏa ra từ chính bức tranh. Trong bóng tối nó tỏa ra đủ màu xanh, lục, vàng, theo những đường nét uốn éo xoáy tròn tựa như ổ rắn. Giờ mới nhìn thấy bức tranh lần đầu tiên, ngay lập tức Jane cảm thấy một nỗi khiếp sợ kinh hồn trước từng đường nét, màu sắc và cách thể hiện, thế nhưng em cũng không thể rời mắt khỏi nó.

Hắn vẫn tiếp tục vẽ, đến tận giờ. Làn gió thốc vào bộ quần áo của hắn, xô chiếc giá vẽ về phía hắn khiến hắn phải dùng một tay giữ nó, nhưng hắn vẫn tiếp tục điên cuồng quét lên bức tranh bằng một cây bút đầy những màu kỳ quái khủng khiếp, và trước cặp mắt kinh ngạc của Jane dường như những màu sắc ấy tự hiện ra từ cây bút mà tên họa sĩ không hề phải dừng lại để chấm thêm màu.

“Khủng khiếp quá!” Barney kinh hoàng nói. Nó nói rất to, không suy nghĩ gì, nhưng cơn gió thổi bạt những lời ấy khỏi miệng nó ngay khi nó vừa dứt lời. Tên họa sĩ, đang ngồi xuôi chiều gió, không thể

nghe thấy cho dù nó có lấy hết hơi gào tướng lên đi chăng nữa.

“Giờ thì ta hiểu rồi!” Thuyền Trưởng Toms đột nhiên thúc mạnh cây gậy xuống đất, mắt không rời khỏi bức tranh. “Đúng thế! Giờ thì ta đã hiểu! Hắn đang vẽ những lời thần chú! Mana, Reck và Lir... mọi quyền phép của chúng đều nằm trong bức tranh! Ta đã quên mất là có thể làm như vậy. Giờ ta đã hiểu, giờ ta đã hiểu... nhưng quá muộn. Quá muộn mất rồi.”

Jane sợ hãi nói trong tiếng gió, “Quá muộn ấy ạ?"

Và cơn gió nổi lên gào hú trong tai họ, quất vào mặt họ, ném những bọt nước biển mặn vào mắt họ. Không có mưa, không có sấm hay chớp, họ chỉ nghe thấy tiếng gió và tiếng sóng biển ào ào. Họ loạng choạng lùi lại dựa vào bức tường, bị cơn gió mạnh ép chặt vào đó. Ngoài kia trên cầu cảng, tên họa sĩ khom đôi vai rộng về phía trước, tựa vào cơn gió để đứng thẳng. Hắn ném cây bút vẽ đi, những tuýp màu và giấy bị gió thổi bay tứ tán. Hắn chỉ ôm chặt bức tranh phát sáng quái lạ đó. Hắn giơ nó lên cao quá đầu, và gào lên mấy lời bằng một thứ tiếng mà bọn trẻ không hiểu.

Và đột nhiên họ nghe thấy một âm thanh không giống với bất kỳ âm thanh nào họ đã nghe thấy phát ra từ biển khơi: một tiếng hút, rít mạnh, vang vọng khắp mọi phía cái bến cảng nhỏ bé. Gió dần lịm đi. Mùi biển bỗng bốc lên mạnh, rất mạnh: không phải mùi thối rữa mà là mùi bọt biển, mùi sóng, mùi cá, rong biển, thủy thủ, cát ướt và vỏ sò.

Trong khoảnh khắc mặt trăng hiện ra từ sau một mảng mây tả tơi, và họ nhìn thấy một ngọn sóng lớn không thể tưởng tượng nổi tràn đến bên bến cảng. Từ trong làn nước hiện ra một hình thù tối sẫm, cao bằng hai người thường, phủ bóng lừng lững lên họa sĩ, đem theo mùi biển càng mạnh mẽ hơn.

Tên họa sĩ vung hai cánh tay giơ bức tranh lên, đẩy nó về phía hình thù khổng lồ đen sì ấy, và gào lên bằng một giọng khàn đặc vì căng thẳng, “Đứng lại! Đứng lại, ta ra lệnh cho ngươi!”.

Thuyền Trưởng Toms khẽ lên tiếng, băn khoăn, nửa như thì thầm với chính mình.

“Hãy để mắt đến Phù Thủy Xanh,” ông nói.