← Quay lại trang sách

CHƯƠNG MƯỜI

“Tốt lắm,” Merriman nói trong khi ông nhìn theo chiếc xe của nhà Stanton vòng qua khúc quanh rời khỏi bến cảng và đi xuôi con đường chính trong làng. “Họ sẽ có vừa đủ thời gian để đi xa hẳn.”

“Ông nói cứ như sắp có người ném bom ấy.” Simon nói.

Jane lo sợ hỏi, “Ông Gumerry ơi? Sắp xảy ra chuyện gì thế ạ?”

“Với các cháu thì không có gì cả. Đi nào.” Merriman quay lại và bắt đầu sải những bước dài rất nhanh ngang qua cầu cảng về phía căn nhà nghỉ, lũ trẻ vội vã chạy theo..

“Hẹn gặp lại sau, Merry!” Thuyền Trưởng Toms nói với theo.

Bọn trẻ đứng lại, lo lắng quay đầu nhìn; ông già đã đang bắt đầu tập tễnh đi về phía Ngôi nhà Xám. “Thuyền Trưởng ơi? Ông không đi cùng chúng cháu ạ?”

“Thuyền Trưởng Toms!”

“Đi nào,” Merriman nói không chút biểu cảm và đẩy chúng lên phía trước. Bọn trẻ ném cho ông mấy cái nhìn bực bội và trách móc. Chỉ có Will là vẫn bước đi một cách vô cảm.

“Thấy ông về cháu mừng quá.” Jane vòng tới bên cạnh ông. “Ông nói đi, sắp xảy ra chuyện gì thế ạ? Ông nói thật đi?”

Merriman đưa cặp mắt thâm quầng nhìn xuống em mà không hề chậm bước. “Phù Thủy Xanh đang hiện diện khắp nơi. Trong đêm nay, mọi quyền năng của Pháp Thuật Hoang Sơ, vốn không có quy luật hay mẫu hình nào hết, sẽ đều được thả tự do ở nơi đây. Ông và những người khác đã thu xếp sao cho hai căn nhà nghỉ và Ngôi nhà Xám sẽ được quyền năng của Ánh Sáng bảo vệ. Nhưng còn những nơi khác thì…đêm nay Trewissick đã bị khống chế. Nó không còn là một nơi an toàn nữa.” Giọng nói trầm của ông đầy căng thẳng và nghiêm nghị, khiến chúng hết sức hoảng sợ; chúng bồn chồn lóc cóc chạy bên ông, ngược lên những ngõ nhỏ và bậc thang ngoằn ngoèo dẫn về cửa nhà nghỉ. Rồi chúng ùa vào căn phòng sáng đèn chẳng khác nào đàn chuột chui xuống hang để tránh một con cú đang săn mồi.

Simon nuốt nước bọt, lấy lại hơi, cảm thấy hơi ngượng vì đã cuống lên. Nó hỏi Will như muốn gây sự, “Cậu đã ở đâu vậy?”

“Hỏi chuyện mọi người,” Will đáp.

“Thế cậu đã phát hiện ra được những gì nào? Câu đã biến đi khá lâu còn gì nữa."

“Không có gì nhiều,” Will nhẹ nhàng trả lời. “Không có gì ngoài những chuyện chưa xảy ra.”

“Tức là cậu đi chẳng được tích sự gì, phải không?”

Will cười. “Cũng gần gần như thế.”

Simon trố mắt nhìn cậu một lát rồi bực dọc quay đi. Will liếc nhìn Jane, và nháy mắt với em. Em nhe răng gượng cười với cậu ta, nhưng sau đó khi cậu quay đi thì lại để ý ngắm nghía cậu kỹ hơn. Anh Simon muốn gây sự, và cậu đã lảng đi để tránh chuyện cãi cọ, em nghĩ thầm. Đôi khi cậu cứ như là người lớn vậy. Cậu là ai hả Will Stanton?

Em nói, “Ông Gumerry, chúng ta phải làm gì bây giờ? Ông có muốn cháu và anh Simon lên trên gác canh chừng không ạ?”

“Ông muốn các cháu đi ngủ,” Merriman đáp. “Đã muộn rồi.”

“Đi ngủ ấy à!” Sự phẫn nộ trong giọng nói của Barney là rõ ràng hơn cả. “Nhưng mọi chuyện mới bắt đầu có vẻ hay ho mà!”

“Bây giờ thì cháu gọi đó là hay ho thôi.” Khuôn mặt xương xương của Merriman tối sầm lại nghiêm nghị. “Sau cháu sẽ phải dùng một từ khác đấy. Hãy làm như ông bảo đi.” Trong những lời ấy thoáng qua một vẻ gì đó khiến chúng không dám cãi lại nữa.

“Chúc ông ngủ ngon ạ,” Jane ngoan ngoãn nói. “Chúc ngủ ngon, Will.”

“Hẹn sáng mai gặp lại các cậu,” Will thân mật nói, và cậu biến sang bên nhà của gia đình Stanton.

Jane bỗng rùng mình.

“Sao thế?” Simon hỏi.

“Tự nhiên em thấy rùng mình…(Nguyên văn: “Có người bước qua mộ em.” Ở phương Tây có tục cho rằng khi rùng mình tức là có người bước qua mồ mả của mình.) Em không biết nữa, chắc là em bị nhiễm lạnh.”

“Ông sẽ pha cho các cháu mỗi đứa một cốc nước ấm và mang lên,” Merriman nói.

Khi lên đến trên gác, Simon dừng lại ở cái hành lang nhỏ nối giữa hai phòng ngủ, đưa tay túm tóc với vẻ dữ dội tuyệt vọng. “Thật là nực cười! Điên rồ! Một phút trước bọn mình còn đang tham dự vào một chuyện gì đó hết sức vĩ đại... ngắm nhìn cái... cái vật đó, thế rồi ông Gumerry xuất hiện, và chưa kịp hiểu ra làm sao thì ông đã tống bọn mình lên giường với mấy cốc cacao nóng.”

Barney ngáp một cái rõ to. “Ờ thì đúng thế... nhưng mà em cũng mệt rồi...”

Jane lại rùng mình. “Em cũng thế. Em không biết nữa. Em thấy người thế nào ấy. Cứ như là... Hai anh em có nghe thấy tiếng rì rầm rất khẽ vẳng từ xa đến không?”

“Không,” Simon đáp.

“Em buồn ngủ quá” Barney nói. “Chúc ngủ ngon.”

“Anh cũng đi ngủ đây,” Simon nói. Nó nhìn Jane. “Em ngủ một mình sẽ không sao chứ?”

“Ờ, nếu xảy ra chuyện gì” Jane đáp, “thì em sẽ chui tọt vào trốn dưới gầm giường anh nhanh đến nỗi anh không nhìn thấy đâu.”

Simon cố nặn ra một nụ cười. “Ừ, cứ làm thế đi. Có một điều chắc chắn là đêm nay sẽ chẳng có đứa nào ngủ được đâu.”

Nhưng một lát sau khi ông Merriman gõ nhẹ lên cửa phòng Jane thì trên chiếc khay ông bưng vẫn còn nguyên ba cái ca bốc khói. “Ông chẳng cần phải pha cả ba cốc làm gì” ông nói. “Simon và Barney đã ngủ say rồi.”

Jane đang ngồi bên cửa sổ, trong bộ đồ ngủ và chiếc áo choàng mặc trong nhà, nhìn ra ngoài. Em nói mà không quay lại, “Ông đã phù phép cho hai anh em phải không ạ?”

Merriman khẽ đáp, “Không.” Có một cái gì đó trong giọng nói của ông khiến em quay đầu lại. Ông đang đứng ở ngưỡng cửa, cặp mắt lấp lánh sáng giữa những quầng thâm bên dưới hàng lông mày rậm bạc trắng. Ông quá cao so với căn phòng nhỏ hẹp đến nỗi mớ tóc bạc phơ bù xù của ông chạm vào trần nhà.

“Jane,” ông nói. “Các cháu không hề bị phù phép gì hết, và cũng sẽ không bao giờ xảy ra chuyện đó cả. Ông đã hứa như thế với các cháu ngay từ đầu kia mà. Và ở đây các cháu sẽ không thể bị làm hại. Hãy nhớ rõ điều đó. Cháu biết ông mà, ông không khiến các cháu bị nguy hiểm đến tính mạng đâu, không phải lúc này, không bao giờ cả.”

“Cháu biết chứ ạ. Tất nhiên là cháu biết,” Jane nói.

“Thế thì hãy yên tâm ngủ đi.” Merriman nói. Ông chìa một cánh tay dài ra, và em với tay chạm vào những đầu ngón tay của ông, giống như một thỏa thuận ngầm giữa hai ông cháu. “Đây, cháu uống một ít cacao đi. Trong đó không có bùa mê thuốc lú gì đâu, ông hứa đấy. Chỉ có đường thôi.”

Jane vội nói, “Cháu đánh răng rồi ạ.”

Merriman bật cười. “Thì lại đi đánh lại lần nữa.” Ông đặt cái ca xuống và đi ra, đóng cửa lại.

Jane cầm lấy cốc cacao và lại đến ngồi bên cửa sổ, những ngón tay ôm lấy bề mặt nhẵn mịn, nóng hổi của cái cốc cho ấm; trong phòng rất lạnh. Em nhìn ra ngoài cửa sổ, những ngọn đèn bên cạnh giường phản chiếu lên cửa kính khiến em không thấy gì cả. Không suy nghĩ gì, em liền thò tay ra tắt đèn đi, và ngồi đợi cho đến khi mắt quen dần với bóng tối lờ mờ.

Khi em đã có thể nhìn được rõ trở lại, em không còn tin nổi vào mắt mình nữa. Từ căn nhà nghỉ, nằm ở sườn đồi cao bên trên mặt biển, em nhìn thấy rõ toàn bộ bến cảng và phần lớn ngôi làng. Đây đó rải rác mấy quầng sáng vàng vọt tỏa ra từ những ngọn đèn đường: hai ở bên kè đá, ba ở phía bên kia bến cảng, trên con đường chạy ngang qua Ngôi nhà Xám; những ngọn đèn khác rải rác ở xa hơn bên trong làng. Nhưng những quầng sáng rất nhỏ. Tất cả những chỗ khác đều tối đen. Và trong bóng tối, dù nhìn đi đâu, Jane cũng thấy mọi vật đang di chuyển. Mới đầu em tự nhủ là mình đang tưởng tượng, bởi vì hễ em thoáng thấy có chuyển động và nhìn về hướng đó chăm chú cho rõ thì nó lại biến mất. Em không thể nhìn thẳng vào nó một cách rõ ràng được. Nhưng hiện tượng đó không kéo dài.

Tất cả thay đổi bởi chỉ một dáng người. Ông ta đi lên khỏi mặt nước ở bên rìa bến cảng, trèo lên mấy bậc thang một cách kỳ lạ như lướt. Ông ta ướt lướt thướt; quần áo dính chặt vào người, mái tóc dài đẫm nước rủ xuống tối sẫm quanh mặt, và khi ông ta bước đi, một dòng nước nhỏ xuống quanh người và kéo dài ra như một lối đi. Ông ta chậm chạp đi về phía phố chính của Trewissick, không hề nhìn ngang dọc. Khi đến góc đường có cái nhà máy đồ hộp nhỏ, với phần nhà mới mở chìa ra giữa những tòa nhà gạch cũ nằm lộn xộn dọc cầu cảng, người đàn ông trong bộ quần áo ướt sũng không hề chậm bước hay tránh sang bên. Ông ta cứ thế đi xuyên qua bức tường như thể nó không có ở đó, và một hai giây sau thì hiện ra ở phía bên kia. Rồi ông ta biến vào bóng tối của con phố chính.

Jane nhìn trân trối vào màn đêm đen như mực. Em cố tự nhủ, “Không phải như vậy. Không phải như vậy.”

Đêm rất yên tĩnh. Jane giữ chặt cái cốc của mình như một tấm bùa giữ em lại với hiện thực, rồi đột nhiên giật nảy người, mạnh đến nỗi đánh đổ cả nửa cốc cacao lên thành cửa sổ. Em đã nhìn thấy có gì chuyển động ngay bên dưới mình, ở cửa nhà nghỉ. Gần như không dám nhìn, em bắt mình đưa mắt xuống, và thấy hai dáng người đi ra khỏi cửa. Ông Merriman trông không lẫn vào đâu được, mặc dù ông mặc một chiếc áo khoác dài có mũ trùm, nhưng nhờ ánh sáng từ một ngọn đèn đường Jane vẫn thấy rõ vầng trán cao và cái mũi khoằm dữ dằn như mỏ diều hâu của ông. Nhưng phải mất một lúc em mới nhận ra dáng người thứ hai, cũng mặc áo khoác và trùm mũ như vậy, chính là Will Stanton. Em chỉ nhận ra cậu ta nhờ vào dáng đi đặc biệt của cậu, mà cho đến tận lúc đó em cũng không ngờ là mình sẽ nhận ra được.

Họ bước đi không chút hấp tấp đến giữa cầu cảng. Jane cảm thấy một nỗi giục giã điên cuồng khiến em những muốn mở tung cửa sổ và hét lên cảnh báo để họ tránh khỏi những nỗi hiểm nguy khó lường, nhưng em đã biết quá rõ người ông lạ lùng của mình nên đã không làm vậy. Ông không bao giờ giống với những người khác; ông luôn có những sức mạnh không thể đoán trước, luôn có vẻ vĩ đại hơn bất kỳ người nào chúng đã từng biết. Thậm chí có thể chính ông đang tạo ra những điều này cũng nên.

“Ông thuộc về phe Ánh Sáng” Jane nói to lên với chính mình, nói một cách nghiêm trang, lần đầu tiên nghe thấy rõ sự hệ trọng đúng nghĩa và không thể tưởng tượng nổi trong những lời ấy.

Rồi em trầm ngâm nói thêm, sửa lại một chút, “Họ thuộc về phe Ánh Sáng.” Em ngắm nhìn cái dáng người đội mũ trùm nhỏ bé hơn, nhận thấy trong đầu mình một cảm giác miễn cưỡng kỳ lạ, không muốn tin rằng ở Will có cái gì đó siêu phàm. Khuôn mặt tròn vui tươi, với cặp mắt xanh xám và mái tóc thẳng màu nâu của cậu, ngay từ khi cuộc phiêu lưu này khởi đầu, vốn luôn là một hình ảnh làm người ta yên lòng một cách kín đáo. Nhưng nếu cậu cũng giống như Merriman Lyon thì ở Will sẽ chẳng có gì khiến người ta yên lòng cả.

Nhưng rồi em quên bẵng cả Merriman, cả Will, và mọi thứ quanh mình, bởi vì em đã nhìn thấy những ánh đèn. Đó là ánh đèn của một con tàu ở ngoài khơi: những ngọn đèn sáng rực như sao, hơi chập chờn trên sóng. Chúng bập bềnh và đu đưa ngoài khơi, trong bóng tối, nhưng chúng đang tiến lại quá gần. Rõ ràng đó là ánh đèn của một con tàu khá lớn, nhưng chúng lại đang tiến lại rất sát những tảng đá ở Mũi Kemare, hết sức gần, đầy nguy hiểm. Em nghe thấy có tiếng người, yếu ớt kêu lên, một trong số những tiếng kêu hình như là: “Đèn ma! (Nguyên văn: “Đèn của Jack Harry”. Theo truyền thuyết, Jack Harry là người đầu tiên tưởng nhầm đèn ma là những ngọn đèn của một con tàu thật.)” Và khi rời mắt khỏi mặt biển em thấy bến cảng bỗng đầy những người: ngư dân, phụ nữ, trẻ con, vừa chạy vừa vẫy tay và chỉ ra biển. Họ chen qua hai dáng người đứng im của Merriman và Will như thể hai ông cháu không có ở đó vậy.

Thế rồi Jane thấy khung cảnh như bỗng mờ đi một cách kỳ lạ trong thoáng chốc. Khi mắt em nhìn rõ trở lại, mọi thứ vẫn y như trước, và mặc dù em thấy đám đông dân làng có vẻ hơi khác đi, quần áo và vẻ bề ngoài, nhưng em không dám chắc. Em chưa kịp nghĩ thêm thì đám đông bỗng như chìm trong nỗi kinh hoàng. Một ánh sáng chập chờn quái lạ tỏa ra khắp bến cảng. Và một đoàn thuyền có những ngọn đuốc cháy bùng bùng bao quanh bỗng nhiên vượt qua tường chắn tràn vào cảng, những con thuyền rộng kỳ lạ chật ních những tay chèo, một số để đầu trần để lộ mái tóc dài đỏ rực, một số khác lại đội mũ sắt chắc chắn có hình một con lợn lòi bằng vàng với những tấm chắn mũi dữ dằn phủ xuống mặt. Đoàn thuyền đó tiến đến chỗ nước nông; những kẻ trên thuyền buông mái chèo, nắm lấy gươm và những ngọn đuốc rực cháy rồi trèo ra, chen lấn nhau bì bõm tràn lên bờ với những tiếng hò hét rợn tóc gáy mà Jane có thể nghe rõ đến phát sợ ngay cả khi cửa sổ vẫn đóng kín. Dân làng chạy tán loạn, hoảng hốt kêu la; chỉ có một số ít ở lại chống lại bọn xâm lăng bằng gậy và dao. Nhưng bọn người tóc đỏ chỉ chú tâm vào một điều: chúng dùng gươm đâm, chém, phạt tất cả những gì vớ được với một sự hung bạo khủng khiếp mà Jane không bao giờ nghĩ là con người có thể có được. Máu tuôn đỏ lòm cả kè đá, và tràn xuống biển, khiến những con sóng đục ngầu.

Jane loạng choạng đứng dậy, thấy buồn nôn, và quay mặt đi.

Khi em cố sức run rẩy quay trở lại chỗ cửa sổ, những tiếng la hét gần như đã tắt hẳn. Dân làng đang bỏ chạy và những tên xâm lăng đang gầm gào kia đã ra đến tận những con đường xa nhất, và một quầng sáng đỏ đáng sợ đang vươn lên trên khắp ngôi làng, bao trùm cả bầu trời. Trewissick đang bốc cháy. Những lưỡi lửa liếm quanh các ngôi nhà trên ngọn đối phía đối diện bến cảng, và lóe lên đỏ rực ở các ô cửa sổ; nhà kho ở đầu kia bến cảng bùng cháy khi lửa ào ào tràn đến. Gạch đá không hiểu sao vẫn cháy dữ dội như chỉ là gỗ. Sau một hồi tuyệt vọng đánh vật với cái then cửa, Jane mở tung cửa sổ ra, và tiếng lửa gào thét rừng rực cùng với hàng cuộn khói được lửa soi sáng rực tràn vào. Bóng những ngọn lửa nhảy nhót trên mặt nước nơi bến cảng. Trong lúc hoảng loạn, Jane không hề nhận ra rằng em không ngửi thấy mùi cháy, và cũng không cảm thấy sức nóng nào.

Dưới chỗ kè đá, Will và Merriman vẫn đứng yên lặng trong chiếc áo choàng có mũ trùm, như thể họ không nhìn thấy những gì đã xảy ra từ đầu tới giờ.

“Ông Gumerry!” Jane thét lên. Em không thể nghĩ đến cái gì khác ngoài việc lửa có thể bén tới hai căn nhà nghỉ. “Ông Gumerry ơi!”

Thế rồi những tiếng ồn ào bên ngoài bỗng biến mất, biến mất hoàn toàn. Em nghe thấy giọng mình, và thấy rằng cái mà em tưởng là một tiếng hét rất to hóa ra chẳng lớn hơn một tiếng thì thầm. Trong khi em ngồi đó quan sát, không tin nổi mắt mình nữa, thì những ngọn lửa tắt dần và biến mất, cái quầng sáng đỏ trên bầu trời cũng mờ đi. Không còn thấy máu nữa, chẳng còn lại chút dấu vết gì của nó. Mọi thứ trên bến cảng Trewissick lại trông như thế những tên tóc đỏ tàn bạo từ biển cả ấy chưa hề đặt chân đến vậy.

Ở đâu đó, một con chó tru vào bóng đêm. Người lạnh ngắt, sợ hãi, Jane kéo chiếc áo choàng vào người chặt hơn. Em muốn đi gọi Simon, nhưng em cũng không thể rời mắt khỏi cửa sổ được. Vẫn không nhúc nhích, hai dáng người tối sẫm bọc trong áo choàng của Will và Merriman vẫn đứng bên mép nước. Không hề có dấu hiệu gì chứng tỏ họ đã nhìn thấy những gì xảy ra.

Trên làn nước nơi bến cảng có một ánh sáng lấp lánh, long lanh, và Jane thấy tít trên cao mặt trăng đã hiện ra sau những đám mây. Một ánh sáng khác lạ đang chiếu khắp mọi nơi, lạnh nhưng dịu nhẹ hơn: mọi thứ đều hóa thành màu đen, trắng và xám. Và vang vọng vào ánh sáng ấy, từ giữa không trung, là một giọng nói. Đó không phải là giọng nói của con người, mà là một giọng nhẹ bẫng, siêu phàm, lặp đi lặp lại ba lần một câu bằng âm sắc cao đến nỗi có thể làm dừng nhịp mọi con tim.

Thời khắc đã điểm, nhưng người chưa tới.

Thời khắc đã điểm, nhưng người chưa tới.

Thời khắc đã điểm, nhưng người chưa tới.

Jane nhìn khắp xung quanh bến cảng, nhưng không thấy ai cả, chỉ có hai dáng người bất động bên dưới mà thôi. Con chó ở đâu đó lại tru lên. Em lại cảm thấy tiếng rì rầm, ong ong kỳ lạ trong không gian, và rồi em bắt đầu nghe thấy những tiếng nói khác í ới xa xa bên trong làng.

“Tàu Xổ Số! Tàu Xổ Số!” em ngỡ đã nghe thấy họ kêu lên như vậy. Rồi một giọng đàn ông, nghe rõ hơn, “Tàu Xổ Số bị bắt rồi!”

“Roger Toms! Roger Toms!"

“Giấu họ đi!”

“Đem họ đến chỗ mấy cái hang đi!”

“Đám lính Hải Quan đang đến đấy!”.

Một người phụ nữ nức nở: “Roger Toms, Roger Toms..."

Bến cảng lại đầy người đi đi lại lại, lo lắng dõi mắt ra biển, hối hả chạy tới lui. Lần này thì Jane tưởng như em có thể nhìn thấy những khuôn mặt trong đám đông nom giống những người Trewissick mà em biết: người nhà Penhallow, nhà Palk, nhà Hoover, nhà Tregarren, nhà Thomas, tất cả đều lo sợ, đều rối loạn, ném những cái nhìn hoảng hốt cả về phía biển lẫn đất liền. Họ dường như không thực sự tiếp xúc gì với nhau, họ như những người mộng du, như những người tuyệt vọng vật vã trong cơn ác mộng. Và cả đám đông thét lên một tiếng lớn khi một bóng ma từ biển lao tới chỗ họ.

Nó không phải là một cảnh tượng khủng khiếp, nhưng nó lại khiến người ta thót tim hơn bất kỳ cảnh tượng nào. Đó là một con tàu: một con tàu đen, có mỗi một cột buồm dựng thẳng, phía sau có kéo một chiếc xuồng nhỏ. Lặng lẽ, đáng sợ, nó từ biển lướt vào bến cảng, gần như không chạm vào nước mà chỉ lướt trên mặt sóng. Trên tàu không có thủy thủ. Không có bóng dáng bất kỳ vật gì chuyển động trên những boong tàu đen ngòm. Và khi vào đến đất liền, nó không dừng lại, mà đi tiếp, lặng lẽ lướt qua bến cảng, qua những mái nhà và ngọn đồi, rời khỏi Trewissick, đi về phía vùng đồng hoang. Và như thể con tàu ma ấy đã kéo theo mọi dấu hiệu của sự sống cùng với nó, đám đông cũng biến mất.

Jane bỗng nhận ra là em đang bám chặt vào thành cửa sổ đến nỗi ngón tay đau nhói. Em đau khổ tự nhủ: thì ra ông muốn bọn mình đi ngủ là vì lý do này đây. An toàn và trống rỗng với một tấm chăn phủ lên trí óc, ông muốn bọn mình như vậy. Thế mà mình lại gặp phải nhiều cơn ác mộng hơn là mình nghĩ có thể gặp trong cùng một đêm, và cơn ác mộng kinh khủng nhất lại là mình vẫn đang còn thức...

Em lo sợ nhìn lại qua rèm cửa. Merriman và Will bước đến giữa cầu cảng. Một dáng người thứ ba, cũng mặc áo choàng và trùm mũ, đi từ phía bên kia bến cảng đến chỗ họ. Vươn người đứng rất thẳng, mặt hướng về ngôi làng và những ngọn đồi, Merriman giơ hai tay lên không. Và mặc dù không thấy gì cả, nhưng dường như một làn sóng thịnh nộ khủng khiếp đã gầm thét tràn tới chỗ họ, chồm lên họ, từ ngôi làng Trewissick bị bóng tối ám ảnh.

Jane không còn chịu nổi nữa. Khẽ rên lên một tiếng khổ sở, em lao ngang qua phòng và chui vào giường. Em kéo chăn lên trùm kín đầu, và nằm đó run rẩy, ngột ngạt. Em không lo cho sự an toàn của chính mình; ông Merriman đã hứa với em rằng căn nhà đã được bảo vệ, và em tin ông. Em cũng không lo cho ba người đang ở dưới bến cảng; nếu họ có thể sống sót qua vô số những điều quái dị như vậy thì họ có thể sống sót qua bất kỳ cái gì khác. Nỗi sợ đang xâm chiếm Jane khác hẳn: đó là nỗi kinh hoàng khủng khiếp khi nghĩ đến một điều không hay biết, đến cái sức mạnh vô danh đang càn quét qua mặt đất và biển cả ngoài kia. Em chỉ muốn rúc vào một góc như một con thú, để tránh xa khỏi nó, để được an toàn. Vậy là em làm thế, và nhận thấy rằng, thật kỳ lạ, chính vì nỗi sợ ấy quá lớn và quá mơ hồ, nên nó cũng dễ dàng biến mất.

Dần dần Jane không run rẩy nữa, em thấy ấm hơn. Đôi tay đôi chân căng cứng của em thả lỏng ra; em bắt đầu thở chậm hơn và sâu hơn. Rồi em ngủ thiếp đi.