II Ở - 1 -
1
Những ngày đầu giống giấc ngủ gà gật buổi chiều trên tràng kỷ, khi ông không rõ những tiếng động đến từ đâu, từ dưới phố lên, từ trong bếp ra, hay từ nơi nào đó sâu thẳm, như tiếng gõ mơ hồ, một giọng nói như giọng Dora nhưng cũng có thể do ông tưởng tượng, một thứ gì đó trong ông mà ông có thể gọi ra, vì ông đã có lần nghe nó.
Khi tỉnh dậy, ông thấy mọi thứ lạ lẫm một cách dễ chịu, những âm thanh xô bồ bị nén xuống của xóm ngoại ô ngoài cửa sổ, sự im ắng trong công viên lúc họ cùng đi dạo. Tất cả hầu như đều mới mẻ và bất ngờ, khuôn mặt cô buổi ban mai, mùi hương cô tỏa ra khi ngồi xếp bằng tròn trên tràng kỷ và đọc Torah(1). Gì cơ? Em muốn thế à? Ở đây với anh như thế, em thấy được không? Những ngày đầu, khi câu hỏi không là câu hỏi.
Ông ở Berlin, và ông có cô gái trẻ ấy. Lúc nào ông cũng có thể đưa tay chạm tới cô, nhưng ông thường chỉ ngắm cô, bàng hoàng xúc động bởi một chi tiết, cổ cô vút cong, hông cô đưa đẩy khi cô đi qua phòng. Mọi thứ dành cho ông, dường như cô nói vậy, những gì ông thấy ở cô, hãy cứ chiếm lấy.
Họ sống một thời gian dài như dưới một quả chuông úp kín, gần như bàng quan với mọi thứ bên ngoài, với giá cả tăng chóng mặt mà họ cũng phải gánh chịu, với tình hình chung nhộn nhạo, với sự băng hoại tinh thần. Chỉ mình bà chủ nhà khiến ông phải lo ngại. Khi trao chìa khóa hôm thứ Tư, ông không hề nhắc tên Dora, song họ đã chạm trán nhau vài lần, có lần còn bắt chuyện vài phút, thân mật tự giới thiệu, nhưng ông linh cảm tình hình có thể đảo ngược bất cứ lúc nào.
Mấy ngày đầu ông nói với Emmy: Anh chưa thực sự đến nơi. Ví dụ, hôm nay anh mới đánh liều ra thành phố lần thứ hai. Họ hẹn nhau ở trước phòng đổi tiền trong ga Sở thú, người ngợm chen lấn, trông số tiền đem vào đổi mà ghê, ngay cả khi tính ra chưa đầy hai chục dollar. Emmy nói: Hai người chọn đúng thời điểm dở nhất để tới đây, khó có thể tệ hơn được nữa. Nhưng trông cô hân hoan, cô nói mấy câu về Dora khiến ông vui vẻ, chuyển sang kể chuyện Max, mới hôm qua cô vừa gọi điện cho Max. Không khí ngột ngạt làm ông tiến sĩ mệt. Vừa vào đến trung tâm ông bắt đầu ho. Emmy nhìn ông đầy lo âu rồi kéo ông về phía bể hải dương học là nơi yên tĩnh và tối một cách dễ chịu, gần như trong rạp phim. Những con cá bơi xa xa sau tấm kính. Người ta nhìn thấy cá to nhỏ đủ màu sắc, những con sứa phát quang làm Emmy lợm giọng, xa nữa là cá mập. Emmy hoảng sợ hoặc chỉ làm ra vẻ. Ông tiến sĩ quàng tay ôm cô, tựa như phải bảo vệ cô, cũng được, tại sao không? Cô thơm phức, ông thoáng nghĩ khi ôm cô, và lẽ ra cô phải cuốn hút ông lắm, ở một kiếp khác, dù rằng cho đến giờ ông chỉ biết cô sơ sơ.
Ông viết thư cho cha mẹ. Thư trả lời do Elli viết. Cô lo lắng từ xa, vì nhìn từ xa thì nhiều chuyện nhanh chóng mang vẻ nguy hiểm, trong khi ở cạnh thì chúng gần như là thói quen. Tuy nhiên suy ngược lại cũng đúng. Người ta chỉ cần mở mắt ra hoặc đọc báo địa phương, độ này hầu như hôm nào ông cũng đọc Thông cáo Steglitz trên bảng tin treo ở tòa thị chính. Nhưng chính ông muốn đến Berlin bằng được kia mà. Nói chung ông chỉ đảo mắt lướt qua các trang. Sáng nay ông phát điên vì những con số, tiếc rằng như vậy chưa hết, bài học thực sự còn đang đợi ông. Ở Vườn Bách Thảo, ông ngồi xuống chiếc ghế băng trong ánh nắng tưng bừng. Một nhóm thiếu nữ đi ngang qua. Khởi đầu như một cú phiêu lưu tình ái. Một con bé dong dỏng, xinh xắn, tóc vàng, dáng như con trai, mỉm cười điệu đà với ông, chu mỏ lên và gọi gì đó về hướng ông. Ông cười đáp lại một cách thân thiện quá mức, cả tới lúc con bé và đám bạn gái quay lại nhìn ông mấy lần, ông vẫn mỉm cười, cho đến khi từ từ hiểu ra nó nói gì. Nó nói: Do Thái.
Bức ảnh ông đi chụp tại cửa hàng bách hóa Wertheim dạo đầu tháng Mười là để gửi cho cha mẹ. Xem giá tiền mà phát hoảng, nhưng dù đã gạt hẳn chuyện đó qua một bên, ông vẫn không thể nào hài lòng. Cổ áo bên phải có một nếp gấp xấu xí, giờ thì không thể sửa được nữa rồi, cà vạt, gi lê và bộ com lê có vẻ ổn. Hiếm khi người ta thấy ảnh chụp giống mình, dù vậy ông vẫn buộc phải thú nhận bức ảnh làm ông sốc. Trông ông như một học sinh cuối bậc trung học già sọm. Tai vểnh, mắt to, cố nhìn ra vẻ đạo mạo. Chẳng có chút gì của Dora. Tại sao ông không cười? Ừ, một tí xíu nụ cười, có vẻ thế, một thoáng qua, một tẹo bóng bẩy, có thể nói thế nếu ông cố tỏ ra thiện chí khi ngồi trên tàu điện quay về chốn Steglitz yên tĩnh.
Ottla gửi một bưu phẩm kèm bơ và muốn biết tình hình sức khỏe của ông, cô đang tưởng tượng những ngày đầu tiên của ông với người phụ nữ kia. Có thể nhận ra nỗi nghi ngại lờ mờ của cô, ông tiến sĩ vốn không ưa đông người ở gần, thêm vào đó, ông và Dora mới chỉ quen nhau một thời gian ngắn. Cô ấy đang ở chỗ anh à? Anh có đối xử tốt với cô ấy không? Nghe cứ như thể cô phải ra tay che chở Dora. Nhưng thật là thừa, ở đây hoàn toàn không có gì phải giữ ý. Đúng, cô ấy đang ở chỗ ông, không phải cả ngày, nhưng thường xuyên đến mức ông quen có cô bên cạnh. Đã hình thành một nhịp điệu nhất định, gần như tự nhiên xảy ra và dường như chưa bao giờ khác cả.
Elli viết thư trách ông. Cô gọi chuyến đi Berlin là một chủ định gàn bướng, cô nghi ngờ tính kiên định và chân thật của ông, và như mọi khi, lấy lý do là vấn đề cân nặng. Có vài ý ông thấy hoàn toàn đúng. Ở Müritz ông không béo lên, ở Schelesen thoạt tiên ông có lên cân rồi lại sút, và đúng thời điểm trước khi mọi cố gắng sẽ mãi mãi quá muộn thì ông lại lên tàu đi Berlin và khăng khăng không bao giờ hối hận. Sao cô không hiểu điều đó nhỉ? Chẳng phải cô đã làm quen với Dora rồi sao? Ông không hứng thú viết thư cho cô. Không thích viết như một dạng nghĩa vụ giải trình, mà lại là giải trình cho Elli vốn là người trong cuộc từ giờ phút đầu tiên, và chứng kiến ông tìm được xiết bao hạnh phúc với Dora.
Ông đề nghị gửi tiền, gửi theo thư thường, mỗi lần một ít thôi, để tạm thời không thể cắt phăng sợi dây rốn.
Không may, thời tiết thay đổi xoành xoạch. Mấy ngày qua hầu như mưa không ngớt, không hẳn ông bị nhiễm lạnh, nhưng ông cảm nhận được tác động không hề thuận lợi của chốn đô thị, ông đã làm quá sức, hối hận đã đến nhà Puah ở phố Steinmetz, đặc biệt vì không rũ bỏ được ấn tượng rằng sự hiện diện của ông không làm cô vui. Tiếng Hebrew của ông từ mấy tháng nay chẳng khá lên đáng kể. Cách cô chào ông gần như khuôn phép, cô hỏi thăm Dora cho lịch sự chứ chẳng vì quan tâm. Dora giỏi tiếng Hebrew đúng không? Ông nhớ lại phút chia tay thắm thiết ở Müritz, thất vọng vì không có gì nhiều nhặn còn đọng lại từ dịp đó, hồi đầu tháng Tám. Trên đường về, trên tàu điện ông thấy mệt mỏi lạ lùng, rồi ông lên giường sớm, cơn ho bật lên, như đặt trước, lúc gần mười giờ đêm, về chất lượng không có gì đáng nói, như ông viết cho Max sau này, về số lượng thì đáng ngại.
Ngày hôm sau ông gần như nằm liệt giường. Như mọi khi, ông dậy lúc bảy giờ hơn, hai tiếng sau lại nằm, nửa tỉnh nửa mê ăn vài thứ lặt vặt cho bữa sáng và bữa trưa để cuối cùng cắn răng ra khỏi giường lúc năm giờ. Dora chăm sóc rất tận tình, nhưng không liên tục hiện diện để hạn chế cảm giác ngượng ngùng của ông. Cô cấm ông ra phố lúc trời mưa, cô nhận luôn việc đi chợ, nói gì cũng với giọng đùa cợt mà ông đã quen. Đôi khi Ottla cũng nói như vậy với ông khi cô lo âu, như một biểu hiện của sự gắn kết.
Em không quan tâm anh đúng mức, Dora nói, em hay vắng mặt quá. Trong khi họ gặp nhau hầu như mỗi ngày. Ông cảm giác cô luôn có mặt hoặc chỉ đi khỏi những lúc hợp lý, suốt ba tiếng đồng hồ ông ngồi tiếp bác sĩ Weiss, cho đến khi ông ta đột ngột cáo từ, sau cả buổi lúng túng, hồ hởi trong tuyệt vọng, trừ nửa tiếng với Dora.
Ông vẫn chưa có một thời gian biểu ổn định. Ngày lại ngày trôi qua hờ hững và vô dụng, ông viết thư, xong là hết. Ông liên tục phải đi đổi tiền. Họ ăn uống, có chuyện để nói, làm quen nhau. Không có gì khó khăn. Không phải sự tìm hiểu nào cũng thành công ngay. Có những điều nhạy cảm, những rào cản mà người ta phải dẹp đi trong chính mình, và nhất định không nguyên nhân nào xuất phát từ con người kỳ diệu kia. Đôi khi lòng ông ngập tràn kiêu hãnh, lúc đó ông muốn khoe cô khắp nơi, nhìn đây, nhìn tôi có gì đây này, cứ như cô là chiến lợi phẩm của ông. Hôm qua, lúc bác sĩ Weiss đến thăm, cảm giác đó hết sức mãnh liệt, mỗi khi cô đến và mang theo thứ gì đó, mỗi khi cô ngồi xuống cạnh họ chốc lát.
Vậy là ít nhiều họ đã sống như một đôi. Căn phòng không rộng lắm. Nếu mọi chuyện tiếp tục tiến triển dễ chịu như hiện nay thì họ phải tìm một căn hộ, nhưng tạm thời ông hoàn toàn hài lòng với hoàn cảnh này. Tối đến, khi cô đi khỏi, ông không nhẹ người mà cũng chẳng phiền lòng. Cô thường để lại chỗ ông vài thứ, khăn quàng, cái nhẫn tháo ra lúc rửa chén bát, sợi tóc vương trên gối tràng kỷ, một thoáng hương thơm kiểu Dora ngoài hành lang, một chút phảng phất từ giọng nói, khi ông thả mình vào bầu không khí yên tĩnh của bóng đêm.
Ông muốn trụ lại đây tối thiểu đến cuối năm.
Khi thời tiết cho phép, ông vẫn hay đi dạo, ông thường đến Vườn Bách Thảo là nơi người ta có thể nghiên cứu các loài cây và hoa cực hiếm trong nhà kính. Trời mưa, nhưng đến lúc này vẫn chưa quá rét, người ta có thể mặc áo vest là đủ, song có lẽ không còn được bao lâu nữa. Ông cần vài món đồ mùa đông, áo choàng, quần áo hằng ngày, đồ lót, áo ngủ, có lẽ cả một túi ủ chân. Max có thể đem vài thứ đến, hoặc ông đi tàu hỏa đến lấy. Lúc ra đi, ông nói với cha mẹ sẽ chỉ ở lại dăm hôm, đến giờ đã được mấy tuần, ông áy náy, nhưng không quá mức, vả lại nếu về thăm nhà thì lập tức ông lại biến thành đứa con trai, và đó là điều ông không bao giờ muốn.
2
Đối với Dora, khởi đầu thế là ổn. Sau cái đêm cả hai thức trắng ấy, ông không bị ho lại, song cô sẽ chú ý chăm sóc ông hơn. Trời vẫn tiếp tục lạnh và mưa, nắng hửng lên được vài giờ đồng hồ đã lại mưa tiếp. Tỷ giá dollar đã đến ngưỡng bốn triệu mark, họ phải căn cơ, nhưng cô cảm thấy mình tràn đầy sinh lực, cô sống với người đàn ông vừa quen được ba tháng, là người cho cô bất cứ sự tự do nào như ý. Cô có quyền đến và đi khi nào cô muốn, làm theo giờ để lấy vài xu ở Volksheim, chuyện trò với Paul, gặp Judith. Cả hai đều khen cô xinh, hỏi thăm sự tình ra sao. Có đúng như cậu vẫn hằng mơ ước không? Dĩ nhiên cô có thể trả lời vài câu, nhưng cô chỉ thích gật đầu thôi, cô rạng rỡ như vừa nhớ ra một chuyện gì đó, một chi tiết mà trước đây cô không chú trọng, nhưng trời ạ, thực ra điều đó liên quan gì đến người khác cơ chứ.
Một thời gian dài cô thực sự tin rằng khi họ cùng nhau ra khỏi nhà, người ta nhìn họ là đoán ra hết, tựa như khắp nơi đọng lại dấu vết, một ánh sáng gì đó, một mùi hương chưa phai, một dấu ấn trên da, một vết trên cổ, mấy tiếng sau khi ông hôn vẫn còn in dấu.
Vài thứ cô thấy lạ. Từ nhiều năm nay ông không ăn thịt, trừ thịt gia cầm, ông nhai rất lâu theo phương pháp của một bác sĩ, giờ ngủ và thức của ông rất kỳ quặc. Trông ông mệt mỏi, mắt quầng thâm sau những đêm khó ngủ, và cô tự hỏi, những đêm ấy ông ngồi viết hay không ngủ được, hay trước tiên viết rồi sau đó không ngủ. Đêm đến, ở phòng mình cô nghĩ khá lâu về mỗi ngày vừa trôi qua, những cuộc chuyện trò về Palestine, những chuyện đùa khi họ đi chợ, cách ông đứng dậy giữa bữa ăn và ôm cô từ phía sau. Cô mau quên những gì hai người nói. Cả những cử chỉ âu yếm của ông cũng chỉ để lại đường nét lờ mờ, một làn sóng dập dềnh lên xuống, những tiếng thở dài, thi thoảng một câu thì thào, không theo thứ tự chính xác nào. Trước đây cô vẫn chưa biết rõ chính mình. Cô nói với ông mỗi khi có dịp, rằng cô chỉ biết rõ chính mình từ khi ở bên ông. Mọi thứ vẫn dành cho anh, có điều khi ấy em chưa biết anh. Hay đúng hơn: Em đã biết anh, chỉ đáng tiếc là em chưa biết đi tìm anh ở đâu, rồi em đã phát hiện ra anh ở bãi biển.
Nếu bố cô biết chuyện, ông ấy sẽ nói, anh không phải người Do Thái. Anh không tuân thủ ngày Sabbath[(2)][7], anh không thuộc các bài cầu nguyện, vậy mà anh muốn có phúc lành từ em ư?
Bà chủ nhà cũng có vẻ không hài lòng với họ. Dễ thấy bà ta nhăn trán khi họ gặp nhau lúc tối muộn, đã đến giờ đi ngủ từ lâu, hoặc sáng sớm là lúc không thể không đặt câu hỏi: cô gái xinh đẹp kia qua đêm ở đây hay sao?
Có lần bà đến với hai người khuân vác để chở chiếc dương cầm đi như đã báo trước. Chín rưỡi, họ đang ăn sáng lần hai, và chuyện đáng xấu hổ duy nhất là bà Hermann làm như trong chuyện này có gì đáng xấu hổ, thậm chí còn buông lời nhận xét: Chắc bà chưa nói rõ hẳn cho ông tiến sĩ hiểu, hoặc từ sau chiến tranh mọi chuyện chẳng còn như xưa, đại khái toàn những lời bóng gió kiểu ấy. May mà hai người khuân vác chỉ quan tâm đến chiếc dương cầm. Họ trạc ba mươi, người Berlin, quen nói tục, nhưng người ta thấy rõ sức lực và sự nhẹ nhàng khi họ đưa cây đàn ra cửa. Franz phục sát đất. Khi họ đã xuống đến dưới đường, ông vẫn đứng bên cửa sổ quan sát họ di chuyển, cười nói rồi đi khỏi, vụ va chạm với bà chủ nhà nhanh chóng rơi vào quên lãng.
Mặc dù tiêu pha chật vật, họ vẫn cố mua một chiếc đèn dầu lớn. Chiếc đèn nhỏ kém sáng, và dạo này họ đã thường phải ngồi cả buổi trong bóng tối, ngày ngắn dần, sau năm giờ đã tối om. Dora yêu mùa tối trời này, yêu những buổi tối dài sau giờ làm việc ở Volksheim. Họ có nhiều thì giờ. Tuy nhiên cái đèn mới cũng sinh chuyện. Nó đắt cắt cổ nhưng không cháy tử tế, ít nhất đối với Franz, ông thấy nó chỉ được cái lắm muội và hôi. Đúng là ông vụng không để đâu cho hết, nhưng chính vì vậy mà họ có lý do để vui, ông khen cái đèn để chiếm được tình cảm của nó, ngợi ca ánh sáng của nó, nhưng tiếc rằng làm thế chỉ vô ích. Rõ ràng cái đèn không thích ông. Ông ra khỏi phòng, bảo Dora nói với cái đèn ông không có nhà, có khi vì thế mà nó cháy. Có trời biết cái đèn nghĩ gì, vì quả thật, cứ hễ ông đi khỏi là nói gì nó cũng nghe.
Đến tận lúc này cô vẫn hầu như chưa nhận ra ông là nhà văn. Ông viết thư và bưu thiếp. Đó là công việc của nhà văn sao? Một lần có bức thư làm ông bận tâm, ông nói, đó là bản thống kê sách đã bán. Trông ông bực bội, bải hoải thì đúng hơn, mất nửa ngày, nhưng không lâu hơn. Cô để ông yên cả buổi chiều, phiền muộn vì một sự phiền muộn không phải của mình, tựa như cô phải chờ đợi khoảnh khắc ông nhận ra sự hiện diện của cô, đợi câu nói đầu tiên, nụ cười đầu tiên trong bữa ăn.
Có lần họ định đi xem phim. Trước nay họ vẫn ở nhà buổi tối, nhưng vì buổi sáng thư tới kèm 50 curon nên họ được hưởng ngoại lệ, tiền bạc không phải là vấn đề, nhất là khi góc phố nào cũng có rạp phim, cả ở Steglitz, những tấm quảng cáo với cảnh giật gân, hình nam thanh nữ tú, hứa hẹn đủ thứ trên trời dưới bể. Nhưng vì lý do nào đó mà họ chưa có dịp. Họ ra đường rồi bắt đầu suy tính, họ đã đứng xếp hàng ở quầy vé rồi vào phút cuối cùng lại bỏ. Không hề thất vọng. Dora nói, cô muốn đi tiếp, cô chỉ cần ngắm các cửa hiệu trong khu Steglitz hơi tối tăm một chút là đủ. Được không, Franz, rạp phim có chạy đâu mất mà sợ? Dora nói vậy. Lần khác cũng được, cô nói, hôm sau, khi chuyện này qua đi đã, và không mảy may biết hôm sau là bao giờ.
Nếu phải viết cuộc đời mình ra giấy, cô sẽ chỉ viết toàn chuyện lặt vặt, vì niềm hạnh phúc, theo cô, sẽ là lớn nhất khi nó nhỏ xíu, đó là lúc ông buộc giày, lúc ông ngủ, lúc ông vuốt tóc cô. Lúc nào ông cũng làm gì đó với tóc cô. Ông chải đầu cho cô, gội đầu cho cô, rất thích và cũng rất lạ. Tóc cô, ông nói, có mùi khói và lưu huỳnh, mùi cỏ, đôi khi mùi biển. Ông nói ông chưa biết cô ngọn ngành. Nếu một ngày nào đó biết hết thì ông sẽ lăn ra chết tại chỗ, và do đó ông bất tử.
Thành phố đã có những vụ lộn xộn đầu tiên vì thực phẩm. Đặc biệt là ở các cửa hàng bánh mì, người mua xếp hàng dài dằng dặc ra tận ngoài đường. Buổi chiều Tile cùng một họa sĩ trẻ tới thăm, cô kể đã chính mắt nhìn thấy cảnh đó, thực ra nghe nhiều hơn nhìn, tiếng gầm gừ của lũ người như tê dại vì đói, vài tiếng la hét khi đằng sau cánh cửa hiệu bánh bị chốt chặt có gì đó chuyển động, tất cả đòi đem bánh ra.
Trông Tile không được mãn nguyện khi đến thăm. Rõ ràng cô mong được gặp một mình Franz, mãi đến khi qua cửa và nhìn thấy Dora, cô mới nhận ra họ là một đôi, chồng và vợ, trong khi cô chỉ là một thiếu nữ, một mối quen biết trong mùa hè, và suốt ba tiếng đồng hồ cô hầu như không hé miệng. Dường như cô chỉ dắt anh họa sĩ theo cho ra vẻ đứng đắn, hai bên không có gì nhiều để nói với nhau, à, có chứ: Anh họa sĩ đang có triển lãm ở Lützowufer, những bức tranh màu nước vẽ biển, cảnh nước và đụn cát, mây cuộn tầng tầng lớp lớp, dưới những ánh sáng khác nhau. Còn Tile? Vâng, cô kể mình vẫn múa, mặc dù xung đột với bố mẹ vẫn đang tiếp diễn. Franz nói, ông tin tưởng cô, nhân tiện cô hỏi về công việc của ông. Ông đang viết cuốn sách mới? Dường như Franz phải nghĩ ngợi một lát, rồi ông nói, không, sách mới thì không.
Viết lách chưa bao giờ là nghề của ông. Ông từng đi làm cho một công ty, dính dáng gì đó đến bảo hiểm, bây giờ đã về hưu, ông có vài quyển sách mà cô không biết và cũng chẳng cần chúng cho tình yêu của mình. Nếu họ đi Palestine, ông nói, chuyện viết lách nào có giúp được gì, ông sẽ phải học nghề gì đó, một công việc tay chân, thực sự đem lại lợi ích cho con người.
Khi viết, tôi là một người khó gần.
Những ngày tiếp theo, họ chơi trò Palestine. Liệu sẽ ra sao khi ông và cô ở một đất nước toàn người Do Thái. Riêng thời tiết thì tuyệt vời, họ có thể mở một quán ăn ở Haifa hay Tel Aviv, họ mơ mộng đại khái như vậy. Mình làm nhé? Em nghĩ sao? Nấu ăn tất nhiên là việc của cô, còn ông sẽ là một bồi bàn như thế giới này chưa từng thấy, riêng viễn cảnh đó đã đủ làm họ cười phá lên, vì ông nổi tiếng hậu đậu. Một nhà hàng nho nhỏ ở sát vỉa hè để khách có thể ngồi cả ở bên ngoài. Vài cái bàn thôi, họ tưởng tượng, không có nghĩa là họ tin vào khả năng ấy.
Họ cũng chỉ thoáng tin vào trường dạy làm vườn ở Dahlem. Franz kể, trước đó mấy năm ông đã thử nghề làm vườn, nhưng dạo ấy ông chưa yếu sức như bây giờ. Một người bạn biết rõ trường ấy đã can ngăn quyết liệt, công việc rất nặng, chắc gì người ta nhận một người ở tuổi ông, khó lắm, có khối người đang tìm việc. Franz có vẻ hơi tỉnh ngộ, nhất là khi nỗi thất vọng luôn là chính ông. Hai người đàn ông hôm trước đến lấy chiếc dương cầm đã một lần nữa cho ông thấy rõ điều đó.
Có lần ra công viên, họ làm quen với một con bé. Nó đứng trơ trọi trên bãi cỏ và khóc, vì thế họ bắt chuyện. Nó khóc nức nở, nói không ra lời, nó bị mất con búp bê, ở đây, đâu đó trong công viên. Thoạt tiên họ chẳng hiểu gì, con bé hấp tấp chỉ khắp các hướng, rõ ràng nó đã tìm con búp bê khắp nơi. Tội nghiệp con búp bê, mới sáu, bảy tuổi, không không không bao giờ có lại một con búp bê xinh như thế. Chiều qua còn thấy nó. Hình như con búp bê tên là Mia, hay đó là tên con bé?
Dần dần con bé đã bình tĩnh lại. Cháu nghe đây. Bác biết búp bê của cháu ở đâu, Franz nói. Ông cúi xuống nói với con bé, quỳ hẳn lên cỏ và ngẫu hứng bịa ra một câu chuyện. Nó đã viết thư cho bác, nếu cháu muốn thì mai bác đem cho xem. Con bé nhìn ông ngờ vực. Thư? Sao lại thế được? Thực ra thì không thể. Em búp bê của cháu viết thư á? Búp bê của cháu tên gì? Con bé nói, nó tên là Mia. Đúng là thư của một búp bê tên là Mia, bác vừa nhận được sáng nay. Chữ nó không dễ đọc, nhưng không sao, rõ ràng Mia là người viết thư. Franz để con bé đủ thì giờ nghĩ, mỉm cười động viên, cảnh tượng rất cảm động. Sau một hồi nghi ngại ban đầu, hình như con bé nghĩ chuyện đó có thể xảy ra. Nó bắt đầu tin. Hai bên thống nhất và hẹn chiều mai gặp lại. Franz vẫn quỳ trên cỏ, hỏi, liệu con bé có nhất định đến không, nghiêm chỉnh đến khó tin, gần như trịnh trọng, tựa như cả cuộc đời của ông phụ thuộc vào việc này, giống ngày nào ở Müritz.
3
Sau bốn tuần, dần dần ông đã đến nơi. Không viết lách gì mấy mà ông bận bù đầu, ông tận tình lo lắng cho Emmy, hầu như ngày nào cũng gọi điện cho cô, khi tiếp cô trong phòng mình ông cố hết sức khiến cô cười, để cô đừng đau đáu nghĩ đến Max đang muốn đi dự đám cưới của em trai thay vì đến Berlin với cô, và đó là một thất vọng khủng khiếp cho Emmy tội nghiệp.
Lúc nào ông cũng phải dàn xếp hoặc ai ủi ai hoặc phân bua chuyện gì đó. Ông viết cho Max khi thấy bạn than phiền vì bặt tin, viết cho giám đốc công ty để ngăn ông ta vì Berlin mà cắt xén tiền hưu. Tuần trước ông mời Dora đến một tiệm ăn chay ở phố Friedrich. Ông vẫn thích đi xem phim, đi nhà hát, nhưng giờ đây thay vào đó là con bé gặp ở công viên. Ông tự thấy ngạc nhiên, vì sao chuyện này lại quan trọng như vậy đối với mình, gì thì gì, ông dành nhiều thì giờ đến khó tin, bàn bạc với Dora và đọc luôn cho cô nghe các cuộc phiêu lưu của búp bê.
Một thời gian dài, có thể coi như họ có con. Búp bê đi từ công viên ra ga rồi đã tới biển. Tiếc rằng nó không có tiền, vì vậy nó cực kỳ may mắn khi gặp được một cậu bé bỏ tiền mua vé tàu cho. Búp bê ở biển vài hôm thì chán, nó muốn qua bờ bên kia đại dương, một đêm nó lên chuyến tàu thủy mà nó nghĩ sẽ sang Mỹ, không ngờ tàu lại đi châu Phi. Đó là tình hình sau ba lá thư.
Buổi chiều ở công viên, con bé luôn sốt ruột đứng chờ. Nó mới đến trường được ít hôm nên chưa biết đọc, và nó cũng có tên, là Katja, nó giải thích đó là từ tên Katharina mà ra. Thời tiết tốt, họ ngồi xuống cỏ để đọc lá thư mới nhất, trong đó viết là đừng lo lắng gì cả, búp bê thì cũng phải có lúc hứng thú du lịch chứ, búp bê sẽ quay lại chậm nhất vào dịp Giáng sinh.
Ngoài mấy lá thư kể trên, mấy tuần nay ông không viết được dòng nào, nói đúng ra là cả năm 1923 ông không làm được việc gì ra hồn, mặc dù: tất nhiên người ta luôn viết cái gì đó, ông có nhiều cuốn vở, nhật ký, mảnh giấy rời ghi lại những điều cần nhớ. Trong một bức thư viết cho Max ông đã huênh hoang nhắc đến công việc của mình đang được tiến triển tiếp ở Berlin, trong khi đó chỉ là những thử nghiệm, phác thảo cho một tiểu thuyết, khởi đầu, mảnh vụn, đôi khi một chi tiết vặt mà ông vừa hoàn tất, để rồi có dịp thì tốt hơn hết là quẳng vào thùng rác.
Katja hỏi: Nếu nó thích ở lại châu Phi hơn thì sao? Cho đến nay thực khó tin được rằng búp bê muốn quay về, vì ở châu Phi xa xôi nó đã yêu, đã mê đắm một hoàng tử, nếu người ta hiểu đúng những câu bóng gió của búp bê viết, thôi được, tại sao không, Katja hỏi: Nó thích hoàng tử hơn cháu à? Một mặt nó không muốn tin hẳn chuyện đó, nước mắt đã ầng ậng, song mặt khác nó đã bắt đầu buông xuôi, nó từng nghe nói trong truyện cổ tích có hoàng tử, nhưng ở châu Phi cũng có à?
Cũng là một chuyện dễ thương, như đã nói, mấy hôm đầu, khi con bé vui sướng và không quên chi tiết nào, chuẩn bị tinh thần cho trường hợp xấu nhất, là một ngày nào đó búp bê thú nhận sẽ không sớm quay về. Chị có tin không, hoàng tử đã cầu hôn em! Búp bê có hai tư tiếng để cân nhắc, nhưng nó không cần, nó muốn kết hôn với hoàng tử. Dora muốn chọn một kết thúc khác. Có thể mua một con búp bê mới và nói, đó chính là con búp bê ngày xưa, trên đường đi Mia đã đổi khác, nhưng vẫn là Mia ngày xưa. Không được sao? Ông tiến sĩ không nghĩ thế. Cần phải có một bài học. Trong lá thư cuối ông sẽ viết, búp bê rất hạnh phúc. Nếu như con bé chú ý trông nom búp bê tử tế hơn thì búp bê đã không bao giờ có dịp làm quen hoàng tử. Vậy chị không trông em tử tế là tốt, hay không tốt? Ông cũng có thể nói tương tự như vậy: Nếu trước đây mấy năm bệnh lao không phát ra ở anh thì anh đã lấy vợ và bây giờ không ở Berlin với em. Vậy bệnh lao phát ra là tốt, hay không tốt?
Ngoài ra họ chẳng thiếu gì. Họ ở bên nhau, họ có thời gian, đó là điều duy nhất có ý nghĩa. Chỉ có tiền thuê nhà cao là đáng lo, quá cao đối với một phòng, đây là một vùng rất đẹp, đã đành, nhưng vẫn chỉ là một căn phòng. Vài hôm bà chủ nhà lại đứng trước cửa và báo một số tiền mới. Cuối tháng Tám còn là bốn triệu, hôm nay giá đã ngất ngưởng lên đến nửa tỷ. Có vấn đề vì hóa đơn tiền điện, có vấn đề vì Dora. Thực ra ông không muốn chuyển chỗ, nhưng ông đã bắt đầu xem các quảng cáo cho thuê nhà để cắt hợp đồng ở đây. Một buổi tối họ quyết định, đến giữa tháng Mười một họ cần nhà mới, nếu được thì ở ngay gần đây. Ông nói, ông muốn có hai phòng, phòng khi buổi tối em không muốn đi, nếu em quá mệt, nếu anh không cho em đi, tối nào cũng đi xuyên thành phố, vào cái thời buổi này. Dora thích thời buổi này. Nói cho cùng, cô không quan tâm chuyện phòng ở, kể cả các bà Hermann trên thế giới này, thậm chí có lẽ cả cái thành phố này. Giờ thì cô vui, vì ông đã nói: hai phòng. Cô rạng rỡ, bên bàn viết, nơi cô vẫn thỉnh thoảng đứng, như cuộc sống tưng bừng nở hoa.
Dường như được quyết định chuyển nhà đem lại sinh khí mới, hôm sau họ vào thành phố, đến Đại học Do Thái ở khu Vựa Cỏ. Nếu cuộc sống giữa muôn vàn cây xanh của họ có một điểm yếu, thì đó là vì họ ở xa những người Do Thái. Ông tiến sĩ muốn học hỏi, ông biết quá ít về phong tục, lề thói, kinh cầu. Cả Dora cũng muốn học, dù từ bé cô đã biết hết, cô cũng không ngại nói cho ông biết buổi tối cô vẫn cầu nguyện tại phòng mình, cô tuân thủ ngày Sabbath và các quy định, cô thuộc văn bản mà ông chỉ coi là bộ sưu tập các mẩu chuyện, với một thông điệp không có hiệu lực với ông.
Ông vẫn cố gắng tiếp tục đi nhà hát, nhưng vở Kẻ thù của nhân dân với Klöpfer[(3)][8] đã cháy vé trước hàng tuần, còn nhà hát Schiller thì quá đắt, thế là thay vì đi xem Kortner diễn ông phải nhìn bộ mặt khóc sưng húp của Emmy, cô đi theo ông và các yêu cầu cô đặt ra cho Max ngày càng tăng, y như giá cả. Cô đòi Max rốt cuộc phải quyết định, ý cô là Max phải bỏ vợ, đơn giản vì bốn tuần một lần Berlin quá ít đối với cô. Một lần cô nổi đóa khi nghe nói đến nghĩa vụ, còn lại cô ít khi to tiếng. Cô thuật lại cuộc điện thoại cuối cùng làm cô rất hạnh phúc, kể về các buổi tập, về triển vọng được hát trong một buổi hòa nhạc nhà thờ. Ông không hứng thú gì lắm, song trước sau ông vẫn thích ngắm cô, ông thích loại nước hoa của cô, thích những cơn nép mình đòi che chở của cô, lúc cô cầm tay ông rồi không buông ra nữa, cách cô nhìn ông, tựa như đó là một Emmy thứ hai đang nuôi các chủ ý khác hẳn trong khi Emmy thứ nhất vẫn than vãn. Dường như ông khá lúng túng khi cô hôn tạm biệt ông, nhưng rồi ông tự nhủ, có gì đâu, cô là diễn viên, đối với diễn viên thì đó chẳng là gì khác ngoài thói quen.
Thực ra, cô không phải kiểu người ông thích.
Ông luôn bị hấp dẫn bởi phụ nữ tóc sẫm, phụ nữ nói giọng cổ, trầm, không hề giống Emmy. Dora có giọng nói ấy, cả M. nữa, mặc dù người ta biết rằng khó ghi nhớ được giọng nói.
Thật lạ, vì ông không cảm thấy sợ khi ở bên cô gái ấy, dù giá cả leo thang chóng mặt, riêng tuần qua đã tăng gấp sáu lần, mọi thứ đắt đỏ gần gấp trăm lần so với trước chiến tranh. Nhưng họ có chỗ ở. Ông gặp may, vì mục đăng trên tờ Thông cáo Steglitz dễ bị lọt khỏi tầm mắt, nhưng sau đó rất nhanh, ông gọi điện ngắn gọn hẹn đến xem nhà, và hai bên nhất trí ngay.
Căn hộ gần như ngay sát nơi ở cũ, cách đó hai phố, trong một biệt thự có mảnh vườn xinh xắn như ông viết thư tả cho cha mẹ, gồm hai phòng bài trí đẹp trên lầu một, phòng khách đón nhiều nắng như căn phòng của ông hiện nay, phòng nhỏ hơn chỉ nhìn thấy mặt trời lúc sáng sớm. Còn có một phòng thứ ba khá lớn mà bà chủ nhà sử dụng. Nhưng ông hy vọng sẽ quen dần với sự bất tiện ấy. Thậm chí ông còn nhắc đến Dora, hay ít nhất cũng không giấu giếm rằng hiện nay đang ít nhiều chung sống với một phụ nữ. Để xem tình hình tiến triển ra sao. Nghe nói căn phòng ấy chỉ để ngủ, vì bà Rethmann là bác sĩ và làm việc từ sáng đến tối ở phòng khám của bà tại Rheineck.
Đây là căn hộ đẹp nhất ông từng có.
Dora rất thích nhà mới có ánh sáng điện và lò sưởi hoạt động tốt, vì ở phố Miquel thì mùa đông tới họ sẽ chết lạnh, cửa đóng không kín, bếp ga phập phù, chưa kể đến chuyện va chạm liên tục với bà Hermann. Họ thấy mình thật may mắn. Dora sắp phải đi, cô đã hẹn gặp Judith, nhưng trước khi đi cô phải nói là cô khấp khởi mong đợi gì nhất. Vâng, anh có muốn nghe em nói không? Cô đã làm tóc, vậy ông nhận xét gì về tóc cô, ông chần chừ một thoáng không muốn cho cô đi, rồi lại thôi, có thể tối nay ông sẽ viết được gì đó.