- 2 -
4
Vị khách cuối cùng đến phố Miquel là Max. Ông đưa đến một va li chất đầy đồ mùa đông. Rất thân quen và rất lạ. Cô không chắc cô có cảm tình với Max không. Có thể cô đã nghe quá nhiều chuyện về ông, cũng có thể cô ngả về phe Emmy hơn.
Hai người ngồi ở bàn, khi cô đi vào họ đang nói chuyện chính trị, về những sự kiện mới đây. Cô nghe họ kể về vụ âm mưu đảo chính ở Munich, may mà đập tan được. Họ nói về người cầm đầu cuộc đảo chính, đó là một kẻ kỳ thị Do Thái thậm tệ, và hậu quả ra sao đối với người Do Thái khi có một kẻ như vậy. Cô đứng ở cửa hai, ba phút và lắng nghe, thoáng chút ghen tuông, nhưng sau đó mọi chuyện lại đơn giản đến ngạc nhiên, Franz cực kỳ kiêu hãnh khi rốt cuộc có dịp khoe cô với bạn, Max ngoan ngoãn chìa tay và nói: Thì ra chị là Dora.
Ông hơn tuổi Franz nhiều, đó là cảm giác của cô, một người đàn ông từ đầu đến chân, bất kể người ta hiểu chữ đó ra sao, rất khả kính, có gia đình, hơi tẻ nhạt trong mắt cô, Max là người quảng giao, biết mọi chốn, biết đàn bà, đã thấy và thử tất thảy, không hiếm khi lương tâm cắn rứt, và có vẻ như có năng khiếu về sân khấu. Điều này cô nghe từ Franz, vì đã có lần ông nhận xét một cách nghiêm túc theo ý đó. Họ ngồi với nhau một lát, nói chuyện giá cả, nhà hát, đôi khi đả động đến Emmy, nhưng rõ ràng họ đã hoàn tất đề tài Emmy rồi. Sau đó có chút điểm tâm nho nhỏ, họ trò chuyện, nhắc đến Müritz và chuyện hai người làm quen ra sao, mãi không dứt.
Buổi tối cứ thế trôi qua. Gần mười một giờ Max ra về, xuống dưới đường ông còn khuyên cô. Tôi vui thay cho hai người, ông nói. Chị chăm sóc Franz rất tận tình, xin chị đừng buông tay, đôi khi Franz là một người khó chiều, nhưng cũng là người tuyệt diệu nhất mà ông biết. Vâng, tôi biết, cô nói, nhưng ý nghĩ thật của cô là: Mình biết sao hết được; và nữa: Ông thì biết gì, ông biết gì về đôi tay Franz, miệng Franz, ông chẳng biết gì cả.
Ông là bạn thân nhất của Franz.
Ông không nói nhiều về căn hộ mới. Liệu có đắt quá không? Franz cũng muốn cho ông xem nhà nhưng không đủ thì giờ, thậm chí Dora cũng mấy hôm sau mới được xem nhà, và cô thấy nó đẹp hơn Franz miêu tả. Bà chủ nhà có vẻ thân thiện, khoảng bốn mươi tuổi, hơi khô khan trong bộ đồ xám, thái độ khiêm nhường một cách sang trọng. Tuy vậy bà đòi trả trước tiền lò sưởi. Số tiền khiến họ choáng váng, số tiền than bà đòi cao gần bằng tiền thuê nhà. Nét mặt Franz thoáng như đang nghĩ, bà làm vậy chỉ vì tôi là người ngoại quốc, nhưng sau đó bà cho xem hóa đơn, chính bà cũng thấy số tiền đó thật điên rồ, bà nói vài lời thân mật với Dora mà bà nghĩ là hôn thê của Franz, không ai cải chính.
Giờ thì sao đây? Sắp hết buổi chiều. Họ có thể đi dạo một lát và vui sướng vì trên thế gian này không chỉ có những bà Hermann, cô nói đại khái thế, nhận xét về áo sơ mi của ông mà cô chưa thấy bao giờ, trông ông đẹp trai vô cùng. Một buổi tối tuyệt vời, chi nhiều tiền, nhưng tiền có là gì, quan trọng là thoát được bà Hermann. Có thể ông sẽ viết về cô, Franz nói. Thật ạ? Cô bất ngờ, vì cho đến lúc ấy ông chưa bao giờ buông một lời về kế hoạch của mình. Cô thường tự hỏi, ông viết đề tài gì, giờ thì té ra ông viết về cuộc sống của họ ở Berlin.
Mặc dù vậy họ vẫn bất ngờ khi bị bà Hermann cắt hợp đồng. Bà viện cớ có người phàn nàn, trong nhà, bên hàng xóm, bà xin đừng hỏi chi tiết, bà không ra vẻ tiết hạnh, nhưng chuyện này thì thậm chí ở Berlin cũng không xuôi. Bà chỉ nói với Franz và coi Dora như không có mặt, giống tối qua, không chào hỏi, chỉ phì một hơi để người ta hiểu ngay rằng bà bực bội nhường nào. Giờ này mà còn chưa về nhà? Trên đường về rồi Dora vẫn còn thấy cáu, và bây giờ, trong lúc điểm tâm sáng sớm hôm sau, bà cứ thế xộc thẳng vào la lối. Giọng bà the thé, rõ ràng bà tính đến sự đối đầu, nhưng thấy Franz không nói năng gì bà quay ngoắt trở về phòng mình.
Franz nổi khùng mất một lúc, ông không nhớ nổi đã có lần nào bị đối xử như vậy, mặc dù ông đã gặp rắc rối với một số chủ thuê nhà. Họ nhận ra là đã quen chuyện nhà cửa, Franz đã qua trải qua hàng chục vụ, khách sạn, nhà nghỉ, chưa kể các an dưỡng đường. Cả Dora cũng hay chuyển nhà, riêng ở Berlin là năm lần trong ba năm qua. Cô không nhớ rõ nhà bố mẹ ở Pabianice, nhưng cô mường tượng rõ căn phòng lớn ở Bedzin sau khi mẹ qua đời. Ở Kraków, sau khi chạy trốn bố, cô sống dưới tầng hầm và nhìn qua lỗ thông hơi thấy mọi người đi trên vỉa hè; ở Breslau cô có một phòng gần lò mổ và sau đó cạnh ga. Franz không tin ngay một số chuyện cô kể, mùa đông đầu tiên trong một nhà vườn ở Pankow, căn phòng bé xíu trên một quán nhảy, và một phòng bé hơn nữa cạnh tuyến tàu điện trên cao. Cũng khá phiêu bạt, cô nhận xét, dù hai người không thuộc dạng xê dịch nhiều lắm, Franz còn ít hơn cô tưởng nhiều, thực ra ông từng ở Ý, đã ghé Thụy Sĩ, Đức và Áo. Cô muốn đi London hoặc Paris. Anh đi Paris với em nhé? Cô quên mất ông từng ở đó với Max, trước đó cả trăm năm, nhưng vô nghĩa, nếu có thể được, ông nói, ông sẽ bật dậy đi ngay với cô.
Buổi tối, cô ngồi trong phòng mình và cố hình dung ra ông ở tuổi hai lăm. Ngày đó cô vẫn là một cô nhóc, đang đi học, nhưng dù vậy: Mọi chuyện sẽ vẫn diễn ra như ở Müritz. Bất kể cô phát hiện ra ông ở đâu, trong quán cà phê hay giữa đám bạn bè, cô vẫn sẽ run rẩy, và hy vọng, và không bao giờ quên ông. Franz thì nói: Nếu như anh gặp em sớm hơn, một số chuyện sẽ khác đi, nhưng anh không thể gặp em sớm hơn. Thời điểm sớm nhất là Müritz, trước đó có lẽ anh chưa sẵn sàng. Mọi việc phải diễn ra như đã diễn ra, chỉ như vậy anh mới có được em, rồi đi Berlin, và sống như ta đang sống.
Hôm sau họ chuyển nhà. Gọi là đi dạo thì đúng hơn, chỉ giống như chuyển qua phòng khác trong cùng khách sạn, từ bên này qua bên kia hành lang. Dora đến từ sáng sớm và giúp gói đồ đạc, cô xua ông ra phố ăn để cô rảnh tay chở đồ đi. Cô phải chạy đi chạy lại hai lần. Bên ngoài khá lạnh, nhưng vẫn hơi có nắng, một đám trẻ con nhìn theo cô, chúng muốn biết cô đi đâu.
Trong căn hộ mới, thoạt tiên cô phải đi từ phòng lớn sang phòng nhỏ là nơi đặt tràng kỷ. Rồi cô xếp quần áo và đồ lót theo từng loại vào tủ, treo các bộ com lê lên mắc, mua đồ ăn tối. Cô thay quần áo, dùng thử phòng tắm, sau đó, trong áo dài mới, cô bắt đầu đợi ông. Quá sáu giờ khá lâu cô mới nghe tiếng ông về trước cửa. Ông gặp một người quen và được người ấy mời ghé thăm nhà, nên mới về muộn thế này. Ông ngượng vì chẳng giúp cô được việc gì, nhìn thấy ngay lọ hoa, hai tủ xếp ngăn nắp, và chiếc áo dài. Trông cô rất tươi trẻ, mới mẻ mà không rõ vì sao, ông nhận xét, hay do khung cảnh mới lạ, do ánh điện mà ông còn lạ lẫm. Phải làm quen với em, ông nói. Hay không phải nhỉ? Trời ạ, ở Müritz cô nghĩ ngợi mấy hôm liền, làm sao để quên ông, hy vọng ông không có gia đình, làm sao gặp lại ông được đây. Và lúc này cô đứng trong căn hộ mới của ông và rối trí, không hẳn rối trí, nhưng hồi hộp, như một thiếu nữ. Trong chuyện yêu đương, ông vẫn phức tạp, nhưng bao giờ có ông cũng thích, cô thấy thoải mái, không vội vàng. Có lần, mới đây thôi, cô nói với ông: Anh không cần phải cẩn trọng đến thế với em, và ông sửng sốt đáp lại: Nhưng anh phải cẩn trọng với chính anh, những gì có vẻ như chiều ý em thì chỉ là chiều ý anh.
Qua tuổi hai mươi, thỉnh thoảng ông đến với gái làm tiền. Cô không rõ vì sao ông thú nhận với cô, liệu cô có thấy thế là tồi tệ không, thực tế, nó có động chạm đến cô không. Một cô gần như còn là trẻ con và vì thế tạo ra một ảo tưởng nhất định về sự trong trắng; cô ta đi tất thủng lỗ chỗ và cười suốt buổi, nên ông vẫn còn nhớ. Các cô khác chỉ đọng lại như một nỗi sợ. Vài năm, ông nói, rồi thôi. Trời đã tối, ông nằm trên tràng kỷ, mắt nhắm như đã ngủ. Cô không có cảm giác lời thú tội ấy làm thay đổi được gì, thật kỳ dị, vì cô thấy xúc động, tựa như cảm nhận được cái tuổi hoa niên non nớt của ông, như chính cô, trước khi cô gặp ông, trẻ và ngốc nghếch.
Cô lấy vài đồ đạc từ phòng mình ở phố Münze, quần áo, khăn, giày. Cô đem cả mỹ phẩm đi, son môi đỏ, một hộp phấn dùng dở, sách để đọc buổi tối, khi ông ngồi viết ở bàn. Dạo này đêm nào ông cũng viết, đến tận sáng bạch. Khi ông chui vào giường với cô, cô thoáng thức giấc và hạnh phúc, đó là những hôm đầu, hồi ông còn ngủ bên cạnh cô trên chiếc giường nhỏ, nơi cô cho rằng đã cứu được ông.
Hồi ở Müritz ông đã kể với cô ông ngủ rất kém, mấy năm nay rồi, và chuyện những bóng ma mà có lẽ cô không hiểu hoặc không coi trọng. Cô cứ nghĩ rằng khi cô ở bên ông thì chúng sẽ không hiện ra, nhưng giờ đây cô buộc phải công nhận đối thủ mạnh hơn. Lũ ma quỷ đó là nỗi lo của ông? Ban đầu cô tin thế. Họ hầu như không có xu nào, họ sống nhầm thời; trong thành phố có biểu tình, mới đây vừa xảy ra xung đột đẫm máu giữa cảnh sát và người thất nghiệp, có người bị thương. Nhưng không phải thế. Và hình như cũng không phải vì bệnh trạng của ông. Hai người đều biết căn bệnh chỉ đang ngủ, nó có thể bùng phát bất cứ lúc nào, nhưng lũ ma quỷ thì ông biết từ trước đó đã lâu. Thỉnh thoảng chúng biến mất, để cho ông yên một lát, rồi chúng lại đổi ý. Cô nói cô không thích ma quỷ. Tại sao chính ông lại bị chúng ám? Cô muốn làm gì đó cho ông, cô vào bếp pha trà, mặc dù ông bảo chỉ phí thì giờ, cô nên đi ngủ, song rồi ông vẫn cho cô ở cạnh, trên tràng kỷ, cho đến khi ông dứt cơn.
Chưa bao giờ cô hình dung một ngày nào đó sẽ sống như thế này. Tuổi xuân của cô đầy ắp hàng ngàn kế hoạch, thuở mới mười bảy, mười tám, khi người ta dần dà tự hỏi, tương lai sẽ ra sao, mình sẽ gặp người đàn ông nào, sẽ có con không. Mười sáu tuổi cô đi theo Zionism[(4)][9]. Cô bắt đầu đến với nhà hát, cô đấu tranh cùng đội ngũ với bố. Ông khôn nguôi nỗi đau mất vợ. Hai mươi tuổi, cô chia tay bố trong giận dữ, và năm hai mốt lặp lại lần thứ hai. Mới trước đây bốn năm thôi ư? Từ xưa đến nay cô vẫn muốn đến với sân khấu, muốn thành diễn viên như Emmy, lạy Chúa, không như Emmy, tuy nhiên vẫn được hóa thân vào những vai lạ, vào lời thoại lạ, nhất là khi kịch bản viết bằng tiếng Do Thái hoặc Hebrew, ngoài ra còn thêm các vở kinh điển, như của Kleist là người Franz tôn kính, vài vở của Schiller. Cô mơ mộng như thế. Giấc mơ nay ít nhiều đã nhạt bớt, đã thành một ký ức để ngày nào đó cô sẽ phải nhớ lại, nếu nó vẫn còn quan trọng, bởi lúc này bên cạnh Franz nó không quan trọng.
Cô kể cho Judith nghe cảm nhận của mình khi Franz viết. Thực ra cô muốn nói đó là cảm xúc rất đẹp, hơi lạ lùng, thiêng liêng một cách khó hiểu, cô không rõ. Có lần cô quan sát ông qua khe cửa khép hờ. Có vẻ là một việc khó khăn, không hẳn vì đợi chờ, dù rằng đợi chờ là một phần của công việc, nhưng tối hôm đó ông viết mãi, viết mãi, thực sự dùng búa dùng đục, cảm giác của cô là thế, tựa như giấy làm bằng đá, là một thứ bất kham, nhưng rồi vẫn phải quy phục, sau đó gần như nhẹ nhàng, không còn như sự hành hạ nữa, cứ như ông đang bơi, xa tận ngoài khơi, cô nghĩ, và cứ thế ra mãi tận đại dương vô biên.
Đôi khi ông cũng nổi giận. Lúc đó ông im phắc, bình tĩnh một cách đáng sợ, càng giận càng im lặng hơn. Cho tới nay cô vẫn cho rằng chuyện đó không xảy ra ở ông, nhưng từ sáng sớm nay ông phát điên. Cha mẹ ông gửi 31 tỷ mark qua ngân phiếu, tiếc rằng như thế đồng nghĩa với việc phải đợi ít lâu mới nhận được tiền, và trong thời gian ấy tiền sẽ mất giá một phần ba. Ngay buổi tối ông đã chửi rủa. Ông viết một thư dài cho Ottla. Cô đang dự định lên thăm Berlin. Nhưng có vẻ ông bình tĩnh lại, rồi lại nổi giận, ăn cũng mất ngon, biết nói gì bây giờ. Cha mẹ có ý tốt, cô nói, họ không thạo tình hình. Nhưng nếu chẳng may thạo tình hình thì cũng vỡ tim mà chết.
Sau mười giờ ông còn làm việc lâu, chuyện bà chủ nhà ngày nọ, nhưng bây giờ ông lại có hứng đùa cợt. Tốt nhất đừng bắt một người như bà Hermann phải đợi, ông nói, bà ấy giục giã như đứa trẻ đòi kẹo. Sau đó cô không nghe gì nữa. Cô vẫn thức, cô đọc, nửa đợi nửa không đợi tiếng ông gọi mình, nhưng ông không gọi, cô đơn độc, như đã bị ông bỏ quên.
5
Lâu lắm rồi mới có một truyện đầu tiên mà ông tin và biết chắc sẽ hoàn tất, và thực tế là ông đã viết gần như xong hẳn. Truyện không quá dài, vài trang thôi, nhưng có vẻ ông đủ sức, thậm chí ông còn nghĩ đến việc đọc nó lên, xưa nay đó vẫn là một dấu hiệu tốt ở ông. Ông làm việc, ông cảm thấy mạnh mẽ, thậm chí cuối cùng ông còn viết được cho M., về một lá thư bị đốt của cô và một của ông, xảy ra từ hồi tháng Bảy. Ông sa ngay vào giọng ngày xưa, và tiếc thay, hậu quả là ông diễn tả không chính xác lắm ý mình. Một chuyện quan trọng đã xảy ra với ông, ông mở đầu như thế, rồi kể về khu nghỉ mát, về triển vọng ban đầu còn tù mù, đi Berlin thay vì đi Palestine, vẫn như từ xưa ông không thể sống một mình ở đâu đó, song bù lại thì ở Müritz đã xuất hiện một cứu tinh có thể nói là khó tin. Và thế là hiện nay ông đang ở Berlin, từ cuối tháng Chín, dễ hiểu là không ở một mình, nhưng nghe trong thư lại có vẻ như thế. Ông sống gần như ở thôn quê, trong một biệt thự có vườn, đây là căn hộ đẹp nhất mà ông từng có. Ông kể chuyện đồ ăn thức uống, còn sức khỏe thì, hừm, và cuối thư còn vội khom lưng trước lũ ma quỷ vô hình, thậm chí ông còn dùng chữ “sợ” ở một chỗ khá nổi bật, đó là điều phải nói ra, vì “sợ” là chữ cuối cùng của bức thư, tựa như ông vừa đóng vĩnh viễn một cánh cửa sau lưng mình. Ông làm việc này mất hai tối. Ông mừng vì M. không biết cuộc sống mới của ông, vì cô sống ở Vienna, hình như mới đây cô có đi Ý, rất xa Steglitz, nói đúng hơn là xa vô tận.
Mấy hôm nay có hàng loạt bưu phẩm to nhỏ gửi đến, được đánh số nghiêm chỉnh để dễ nhận ra có bị thất lạc gói nào hay không, và đáng tiếc cũng có gói bị mất. Mẹ ông gửi một chai vang chát, một đôi giày, bốn cái đĩa, một lọ nước ép quả mâm xôi to bà tự làm, ngoài ra còn có bơ như mọi khi, thậm chí một ổ bánh mì gối, mặc dù dạo này ông ưa bánh mì Berlin hơn. Mai Ottla đến. Ông đã gửi cô một danh sách các đồ cần thiết, ba khăn lau bát (nếu được), hai khăn trải bàn, túi ủ chân (đã nhắc nhiều lần) mà ông rất mong, vì khi viết ông hay lạnh chân.
Khác Max, ông không hề nghi ngờ thành công của chuyến thăm, và quả thực Dora và Ottla hiểu nhau ngay, cho dù họ chỉ có vài tiếng đồng hồ ở bên nhau, vì em gái ông phải về ngay tối nay. Nếu Ottla từng nghi ngại về cuộc sống của ông ở Berlin, thì bây giờ cô đã có thể yên tâm. Cô hết lời khen ngợi căn hộ, phong cảnh làng quê xung quanh, và thể trạng hiện tại của anh cô có vẻ không làm ai phải lo lắng, cô nói, người ta thấy ngay là anh chị ổn thỏa, dù hoàn cảnh bên ngoài rất khó khăn. Những thứ cô mang đến khiến họ rất vui, cô thậm chí không quên cái bếp cồn mà Dora thích nhất, cả bản thân Ottla cũng vậy, cô phụ Dora trong bếp, và ông nghe họ chuyện trò thân mật rất lâu trong đó.
Chiều muộn, trên đường ra ga Ottla nói, cô rất hiểu anh mình. Dora khác nhà mình, nhưng chính điều đó là hấp lực đối với anh, đúng thế không? Chuyện rõ ràng nhất và không phải tránh né: Chị ấy là người miền Đông, nhưng vẫn có những điểm chung, ông nói, đó là tính thực tiễn mà cả hai đều có. Có lẽ cha chỉ nhìn vào cái xuất xứ miền Đông đó. Đây hình như là lần đầu tiên họ không nói về cha, đúng thế, họ không hề nói một lời về ông, trong cả bốn tiếng, khi cả hai anh em đều đã có cuộc đời riêng theo ý mình, cô em gái với Josef và các con gái, ông với Dora ở căn hộ Steglitz này.
Ông cũng tự thấy ngạc nhiên khi có thể viết liên tục. Ngay trong đêm sau khi Ottla ra về, ông bắt đầu một truyện mới, không biết nó sẽ dẫn ông đến đâu, chắc chắn không đến Berlin, vì câu chuyện xảy ra dưới hang ngầm của một con thú. Mấy hôm nay ông ngủ tạm được, và ông viết, ông đang sống với người đàn bà này, trong cùng căn hộ, điều đó không cản trở ông viết. Truyện bà Hermann ông đã đọc cho Dora nghe rồi, có mấy chỗ khiến cô phì cười, tuy đó thực ra không phải câu chuyện kể về bà Hermann, nhưng cô đâu biết.
Ông có ấn tượng rằng ông không chỉ nhìn vào nội tâm mình nữa, như sau một cú khẽ xoay đầu và tựa như vì thế mà có gì đó biến đổi thực sự, thật ngạc nhiên. Tựa như xưa nay ông luôn phải xoay đầu, và đột nhiên ông nhìn thấy Dora, và thấy cả những điểm chung mà ông đã cùng cô tạo ra.
Ông đã nhiều lần viết về thú vật, về những sinh vật hạ đẳng, về một con gián, con khỉ, con chuột chũi khổng lồ, con diều hâu. Ông cũng từng viết về chó nhà và chó rừng, nhắc sơ sơ đến báo, đến con mèo ăn chuột.
Truyện mới bắt đầu thế này: Tôi đã đắp xong hang, trông có vẻ ổn thỏa. Đúng ra, từ bên ngoài chỉ nhìn thấy một cái lỗ, nhưng thực tế cái lỗ ấy không dẫn đến đâu cả, được vài bước là vấp ngay vào đá cứng.
Còn gì nữa? Tuyết đầu mùa đã rơi, rất lạnh, hầu như hết nắng, chỉ đôi khi lóe lên, từ mấy hôm nay ông không ra khỏi nhà.
Dân Berlin đói, khắp châu Âu quyên góp thực phẩm gửi đến, ông chỉ lơ đãng theo dõi tình hình, thỉnh thoảng Dora kể loáng thoáng vài chi tiết khi cô đi chợ hoặc đi gặp bạn bè trở về. Người ta đã quen hình ảnh những người ăn mày ngoài phố, khốn khổ thay, lúc này đến nửa thành phố là ăn mày, dân tình bải hoải và tuyệt vọng một cách nhẫn nhục, hoàn cảnh ở khu Vựa Cỏ thê thảm nhất, mặc dù những vụ tàn sát như hồi tháng Mười một không lặp lại. Dora nói tổ chức Do Thái Volksheim đã cùng đường, họ muốn làm gì đó, không chỉ nấu cháo cho những người nghèo nhất trong đám nghèo, mà phải tạo ra chuyển biến.
Người ta nên viết về thế giới hay chuyển biến nó?
Ông trả lời thư gần đây nhất của Robert và giải thích vì sao ông hầu như không kể gì về mình, thực ra ông không giải thích mà xác nhận tình hình. Ông không viết thư cho gia đình, cũng không viết cho Max và những người bạn đã bị lãng quên ít nhiều, không áy náy, nhất là khi ông đã dự cảm mình không còn nhiều thời gian nữa.
Ông bị áp lực và không rõ có chịu nổi áp lực đó không, đồng thời chưa bao giờ ông có nhiều thì giờ như độ này. Có thể đó là may mắn, ông nghĩ, một dạng phung phí, tối đến họ đọc cho nhau nghe trong căn phòng leo lét sáng, Dora đọc Torah tiếng Hebrew, hoặc ông đọc trong truyện cổ Grimm hoặc Hộp châu báu của Hebel[(5)][10], truyện về người thợ mỏ mà ông thích nhất. Trong những khoảnh khắc ấy ông nảy sinh cảm giác mình có miên man thời gian trên đời này, có nghĩa là thời gian ấy không bị phí phạm, khi ông biết vài phút nữa ông lại ra bàn viết, và sẽ ngồi lì ở đó, dù đối với ông tình trạng bấp bênh ấy vẫn tiếp tục phức tạp vô cùng, khi cô dựa vào ông hay gác chân lên nhau, một sự pha trộn giữa mong đợi và sợ hãi.
Ông đào bới mấy ngày mấy đêm liền trong cái hang của mình và ngạc nhiên thấy mọi sự sao đơn giản đến vậy.
Sáng sớm, khi mặc sơ mi và đeo cà vạt trước gương trong phòng tắm hẹp, khi tắm rửa và cạo râu và mặc bộ com lê sẫm màu, lúc nào ông cũng bảnh như sắp hẹn gặp cô đi ăn sáng ở quán cà phê, trong khi cô đã ở bên ông từ lâu, trong chiếc áo dài và sơ mi quen thuộc.
Ông tự hỏi mình đã học được chuyện đó khi nào. Hay người ta vẫn biết cách làm mọi chuyện thành thạo đúng lúc cần thiết?
Các buổi tối vẫn luôn gây ngạc nhiên, vì một lúc nào đó người ta phải trút đồ ra, chuẩn bị đi ngủ, phòng là phòng chung, không ai một mình, nhưng chẳng có gì phiền cả, mà ngược lại, vì ông nghĩ, một ngày nào đó họ sẽ sống đúng như thế.
6
Niềm hạnh phúc của cô không gợn tì vết, trong mấy tuần liền. Cô ngạc nhiên về vài chi tiết, như những buổi chiều ông nằm trên giường, những truyện kỳ dị ông viết, khi ông kể đã nhớ đến cô ở nơi này nơi kia, nơi con vật tích trữ mồi, quảng trường trong thành, chính em đó, mặc dù cô có là thánh cũng không thể nhận ra có mối liên quan nào. Nhưng điều đó không đụng chạm gì tới hạnh phúc của cô. Mùa đông lạnh buốt, nạn đói trong thành phố, đó là đề tài họ hay nhắc đến, và họ may mắn xiết bao khi có được những gì đang có. Cô không nghĩ sâu xa hơn, cũng vì phần nhiều không được phép nghĩ, chẳng hạn chuyện con cái, chuyện tương lai của cô trong căn hộ này, nơi cô ước gì không bao giờ phải rời xa nữa.
Ottla kể, cuộc sống sẽ thay đổi ra sao khi có trẻ con. Ottla hỏi thẳng khi chỉ có hai người trong bếp, thế nào, chị nghĩ sao? Vì Dora không hề đợi câu hỏi như vậy nên cô ấp úng, thực ra thì, ừ, cô nói, mọi thứ còn mới quá, ở thời buổi này, cô không rõ. Ottla nhìn cô đầy lo ngại, vì rõ ràng cả hai đều biết chuyện này liên quan đến Franz, tiếc rằng anh ấy đang có bệnh, nếu không bị bệnh, có lẽ anh ấy sẽ muốn có con với chị. Hai người đã nói đến chuyện đó chưa? Dora chỉ có thể lắc đầu, rồi kể về đứa bé có con búp bê, vì tất nhiên họ chưa bao giờ động đến đề tài ấy, nhưng xét về mặt nào đó thì có chứ, mấy ngày liền, hồi ở ngoài công viên. Ottla rất thích câu chuyện đó, dễ thương quá, cô muốn an ủi Dora, có trời biết sẽ còn gì xảy ra với hai người, chị còn trẻ, có thể anh ấy sẽ khỏe lại hoặc người ta phát kiến ra một loại thuốc, sao biết được. Ottla ôm cô thật chặt, như một người em gái, cô cảm thấy thế, lờ mờ cảm giác được an ủi, ngạc nhiên tại sao mình cần sự an ủi ấy, tại sao người ta nhìn nhận cô như vậy.
Đầu tháng Ba cô tròn hai sáu.
Cô nói chuyện với Franz về căn phòng mà cô đang thuê, và họ nhất trí là không nên giữ, một món chi vô ích, giữa tháng cô sẽ cắt hợp đồng. Chưa bao giờ cô thích nó, cái giường cũ, nơi cô nức nở khi Albert bỏ cô, mùi thảm ẩm mốc, đồ gỗ tàn tạ. Có lần cô đưa Hans đến, một sai lầm tai hại. Mọi thứ rối rắm, họ không biết nói chuyện gì, mà Hans thì không đến để nói chuyện, rồi anh đứng dậy và không bao giờ quay lại.
Bỏ thuê nhà sẽ không đụng chạm gì đến chuyện đi lại của cô, cứ hai ngày một lần cô vẫn đến Volksheim, tình cảnh ở đó ngày càng xấu đi, vì thực tế là thiếu đủ mọi thứ, tiền, thực phẩm, dân Do Thái nghèo ở khu này không biết xoay xở ra sao. Franz động viên cô. Phải có người nào đứng ra xoay xở chứ, ông nói, và không ai giỏi hơn em. Dù vậy cô vẫn nghi ngại, thấy mình nhu nhược, bị giằng xé, nên ở bên Franz hay đến với lũ trẻ hơn.
Ông vẫn chưa viết xong truyện. Nhưng có tiến triển, đều đặn sau mười giờ hay mười rưỡi ông ra bàn, và đôi khi cô ở lại với ông mà không cần giao hẹn trước. Cô đọc sách hoặc cứ ngồi đó quan sát nhịp điệu của ông, những lúc giải lao, trước khi ông lại bắt vào mạch truyện. Có lần cô thiếp đi, lúc cô tỉnh dậy thì ông ngồi bên cô, trông ông khác hẳn, kiệt lực như vừa làm việc gì nặng nhọc. Khuôn mặt ông thoáng bừng sáng, nó làm cô hơi đau đớn trong chốc lát, rồi hết. Bên ngoài đã sẩm tối. Anh vẫn thức? Ừ, ông nói, và anh vừa tìm thấy em ở đây. Rõ ràng ông chưa bao giờ có trải nghiệm đó, ông xúc động lạ lùng, thì thào như đang chứng kiến một chuyện không tưởng, ở đây, với cô, trong cùng phòng.
Từ khi biết em, anh là một con người khác.
Vài hôm một lần, ông đọc cho cô nghe, họ không rời nhau. Thậm chí đôi khi họ cùng cầu nguyện, và nhờ vậy mà cô ngạc nhiên, tại sao ông biết ít thế. Nhưng có lẽ chính vậy lại hay, khi ông đọc lời kinh cầu cạnh cô, tín cẩn một cách vụng về, như một học trò lẩm nhẩm những chữ đầu tiên trong bảng chữ cái nhưng tâm trí lại để tận đẩu đâu. Ông áy náy, có cảm giác mình làm sai mọi chuyện, nhưng biết thế nào là đúng hay sai, người ta cứ phải cầu nguyện thôi. Người ta tạo cho mình một không gian, cô nói. Tất cả yên lặng. Chỉ trong yên lặng tuyệt đối cô mới thỉnh thoảng nghe được một tiếng nói, xa xăm, nhiều âm cao hơn âm trầm, trẻ trung kỳ lạ, do đó chẳng khó gì để cầu xin Chúa. Người có nghe con nói không? Hãy nhận lấy lời con. Chỉ cần Chúa biết cô đang đứng đây và không đòi hỏi gì quá đáng.
Một dạo cô mẫn cảm đến khó hiểu, cô trào lệ cảm động vì Ottla gửi hai khăn trải bàn và mấy khăn lau bát, rồi cô đột nhiên sợ mùa đông. Trong khi đó tuyết đầu mùa đã tan từ lâu, trời mưa, trong phòng ấm áp sáng sủa, đâu có lý do gì. Franz rất đáng yêu. Ông viết, dù không phải mỗi ngày, ông ôm cô, khen cô nấu ăn ngon, ngồi cạnh cô trong bếp, giống như ngày nào ở Müritz.
Không phải linh cảm. Mấy hôm nay lòng dạ cô không yên, suốt ngày cô đi đi lại lại, lờ mờ ý thức rằng họ có thể bị tổn thương, ông và cô, rồi nỗi sợ đó từ từ nhạt đi.
Franz viết từ mấy ngày nay, trông ông mệt mỏi, nhưng hài lòng. Ông chưa xong, còn vướng phần kết, dù vậy ông vẫn muốn đọc cho cô nghe những gì đã viết ra. Lại lần nữa cô phải nghĩ, ông nói hay xiết bao, cô ưa nghe giọng ông hơn là theo dõi câu chuyện mà trước sau cô vẫn thấy lạ lẫm. Con thú đó là Franz? Đôi khi cô chỉ thấy con thú, rồi cô cho rằng đã hiểu ra ông viết về cuộc sống của mình ở Steglitz này, mọi thứ rối mù, nhưng không ghê gớm đến mức khiến cô không nắm được mấu chốt. Ông nói, cô là quảng trường trong thành. Con thú sợ hãi, nó hì hục cả ngày cả đêm, giữa chừng nó đói, và quả thực kho dự trữ đã mênh mông khôn xiết, cả cái hang thơm mùi thịt, và cô giật mình nghĩ, thịt chính là cô, rồi đến đoạn con thú ăn thịt, sợ vô cùng.
Mãi mấy hôm sau cô vẫn ngơ ngác. Trời nổi gió bão đã mấy tiếng, Franz đã đi nằm, do vậy cô có thì giờ suy nghĩ tiếp. Cô cảm thấy mình trần trụi, như bị hắt hủi không rõ nguyên do, tổn thương nữa, nhưng kỳ lạ là cô thích thú. Cô là thịt, nhưng không giống lúc Albert thờ ơ vứt cô đi. Cô không thể hiểu tường tận. Bản thân câu chuyện thật đáng sợ. Có đúng là ông luôn sợ hãi? Vì đây là một câu chuyện chủ yếu về nỗi sợ. Thú vật có biết sợ không? Ở một vài đoạn cô bật cười và hy vọng Franz không giận cô. Ông phủ nhận ngay, ngược lại, ông còn thấy vui, mặc dù đó là những đoạn ghê rợn nhất.
Chứng ho, Franz nói, tất nhiên luôn thường trực. Về mặt này chứng ho cũng giống lũ ma quỷ, lạy Chúa, người ta không được đánh thức nó, thậm chí có lẽ không được nhắc đến nữa, vì như vậy là người ta sẽ nhử nó rời nơi ẩn nấp và không dễ gì tránh chạm trán.
Họ cùng nhau ăn sáng, Dora mặc áo khoác trong nhà của ông và ngồi trong lòng ông. Cô mặc chiếc áo này là chuyện mới. Cô được phép viết lời chào hỏi cuối những lá thư ông viết, ai cũng biết cô và hỏi thăm cô, Max và Ottla đã tới đây, bây giờ thêm cả Robert mà cô chỉ biết là đã từng cùng Franz ở an dưỡng đường trước đây mấy năm. Riêng cha mẹ ông không biết gì về cô. Franz viết thư về cho cha mẹ, luôn giống như ông chỉ sống một mình ở Berlin. Ông không muốn họ phải lo lắng, ông nói. Chỉ chừng nào không phải lo lắng, họ mới để ông sống yên lành ở đây, nên ông than phiền tiền giặt ở Berlin rất đắt, ông kể chuyện thời tiết đến nay không tệ lắm, khô và không quá rét, ít sương mù, hôm nay tuy mưa nhưng mọi thứ không đến nỗi tệ.