- 3 -
7
Câu chuyện vẫn chưa có hồi kết, tạm chấm dứt với tỉ số hòa: có thịt và hang, có tiếng động của kẻ thù mà không gì và không ai cản nổi. Giả sử có ai đó nói với ông rằng ngày hôm này hôm này ông sẽ ốm, và ông ngã bệnh thật, thì ông cũng không bất ngờ. Bất ngờ có lẽ chỉ là trường hợp ngược lại, nhưng trường hợp ngược lại cũng từng xảy ra, người ta có thể vượt qua được bệnh lao, trong một số ít trường hợp, biết nói thế nào nhỉ, căn bệnh ấy tự dưng biến mất. Ít nhất thì ông vẫn được nghe kể như thế, hồi ở an dưỡng đường ngày xưa, khi ông chưa mắc căn bệnh phổi hay nói chính xác là không bị bệnh gì.
Trong vòng tay cô, đôi khi ông tin vào điều đó. Hay đúng hơn: Ông quên đi điều mà thực ra ông không tin, vì sự thực là ông không ngừng lo lắng, ông lắng tai, thậm chí đang trong vòng tay cô ông vẫn nghe ngóng trong mình, nơi đó may mắn thay còn có những tiếng động khác.
Chỉ qua một đêm mà mùa đông đã ập đến rét buốt. Ngoài đường tuyết phủ ngập mắt cá, lạnh lẽo và xám xịt, và giữa lúc ấy, lần đầu tiên từ vài tuần nay ông sốt lại, không cao, nhưng đúng là sốt. Dora bắt ông lên giường ngay, cảm hứng viết lách của mấy tuần vừa qua tắt ngấm, ông rơi vào trạng thái ngu ngơ và trống rỗng, ông thờ ơ giở tờ báo Dora mang về, cả ngày bất bình, khiến cô bắt đầu lo, nhưng không, vẫn không thấy chứng ho. Ông cảm thấy kiệt lực, phần nào cũng là thích hợp với thời tiết cuối năm, khi vạn vật bên ngoài bắt đầu sa vào trạng thái cứng ngắc như xác chết.
Đêm trôi qua, không có sự cố đặc biệt. Ngày 24 bắt đầu như ngày 23 chấm dứt, ông sốt, nhưng không ho, ông nằm trên tràng kỷ gần lò sưởi, trong khi Dora đi kiếm nốt những thứ cuối cùng cho mấy ngày lễ. Cô vừa đi khỏi thì ông lên cơn sốt. Ông bắt đầu run, bốc hỏa và đồng thời thấy lạnh. Dora phát hoảng khi quay về, cô gọi điện cho bác sĩ, một ông giáo sư quen qua nhiều tầng giới thiệu, ông này cử trợ lý đến, một người tầm ba mươi, không tìm ra nguyên nhân. Phải đợi, ông phán, và nói luôn tiền công, một con số điên rồ.
Vì chỉ bị sốt, ông không muốn nằm, nhưng vì chiều ý Dora nên ông không ra khỏi giường, và viết một lá thư nữa cho M., giọng thảm hại hơn cảm giác thực, nhưng đó là chuyện quen thuộc giữa hai người. Mặc dù hiện tại không ốm đau, ông vẫn viết về những cơn bệnh cũ đã chộp được và quật ngã ông ở Berlin, làm việc gì cũng vất vả, kể cả đưa từng nét bút, do vậy ông không viết lách gì, chỉ chờ đợi thời buổi khấm khá hơn, hoặc còn tệ hại hơn, ngoài ra ông được chăm sóc tử tế và dịu dàng - cách ông ám chỉ Dora - trong mức độ có thể có được trên thế giới này. Cũng chẳng có gì nhiều hơn để kể. Bên ngoài đang có tuyết, những bông tuyết nhảy nhót ngoài cửa sổ từ mấy tiếng rồi, nhìn rất đáng yêu, cứ như được trở về tuổi thơ.
Ngày thứ tư cơn sốt chấm dứt. Dora muốn ông nằm yên tại giường, mặc dù ông cho rằng cô cường điệu. Cô vẫn có vẻ thất thần, khi cô mỉm cười, khi cô đem đồ ăn đến, hoặc khi ngồi vào giường và cho biết trông ông tồi tệ ra sao. Như thần Chết, ông nói, khiến cô lắc đầu quầy quậy, lạy Chúa, không, rồi cô khóc òa, vì cô vừa nghĩ đúng như thế.
Trời giá buốt, những bông hoa tuyết lan tỏa trên cửa kính, nhưng có vẻ như ông đã ổn trở lại. Đã sang ngày thứ hai ông không sốt, Dora có thể thú thực cho ông biết cô gọi điện cho Elli lúc ông sốt, gọi từ phòng khách bên cạnh, trong lúc ông nằm rối loạn đầu óc và ngạc nhiên không hiểu cô đi đâu mà lâu thế. Dora cắn rứt vì đã không xin phép, nói cho cùng thì cô không được gọi điện cho gia đình ông, song trong cơn hoạn nạn cô không biết cách nào khác. Anh đừng giận, cô nói, trong khi ông không giận nổi một giây, mà còn nhẹ người, vì ông ghét gọi điện thoại. Dora có muốn gọi điện hộ ông từ nay về sau? Chỉ nghe tiếng chuông điện thoại, ông đã ngán, lần nào cũng giật bắn mình, thường chẳng biết phải nói gì, hoặc mọi thứ sẽ bát nháo lên như mới đây với Elli, hai người tranh nhau nói, nhảy cóc chuyện nọ xọ chuyện kia, hỏi những chuyện hoàn toàn vô bổ như thời tiết, anh ngủ ra sao, có ho không, toàn những chuyện mà nếu ngồi đối diện nhau thì người ta mới có thể bình thản giải thích được.
Bức thư đã đến lúc cần gửi cho Elli được ông mở đầu như sau: Anh nghĩ ngay tới cái tệ hại nhất, chẳng hạn cô ấy đã mua nửa con bồ câu hay đại loại như vậy. Nếu là thư cho Ottla thì có lẽ ông sẽ viết khác hẳn, nhưng với Elli ông luôn có cảm giác phải đón đầu những trách cứ của cô, ngoài ra cô cũng không được nhận ra rằng ông đang lo lắng vì giá cả tăng vùn vụt và thậm chí đã tính chuyện nên rời Berlin. Tạm thời mới chỉ là một trò chơi, ông quả quyết, nêu những lựa chọn như Schelesen, Vienna hay Hồ Garda, rồi lại gạt đi. Sang năm mới nhất định sẽ khá hơn, ông viết, nghe nói giá cả sẽ hạ, hạ xuống một nửa, người ta nói thế, mọi thứ thậm chí sẽ như cho không, cứ nằm ườn xác cũng kiếm ra tiền, ông pha trò nhưng không quên nói thêm Dora đã mặc cả thành công qua điện thoại để hạ một nửa tiền công bác sĩ.
Liệu có phải ông ghét gọi điện vì người ta không thể nói dối bằng giọng nói? Trong thư người ta có thể giả tạo, mập mờ, nhưng trong điện thoại mọi thứ lập tức bị phơi bày trần trụi. Ví dụ như hỏi xin cái ống nhổ, ông không thể nói khi gọi điện. Chuyện khá phức tạp, liên quan đến một cô gái muốn tặng ông món quà Giáng sinh. Giáng sinh qua từ lâu, tuy nhiên ông nhờ Elli bảo cô gái ấy ra hiệu Waldeck & Wagner mua cái nắp mới, ống và gioăng cao su vẫn còn nhưng lâu nay ông không dùng, đề phòng nếu cần.
Bỗng dưng khan hiếm cồn. Dora tìm mua ở nhiều cửa hiệu khác nhau, nhưng vô vọng, nên bây giờ cô đun bằng nến vụn, vất vả và khá kỳ khôi, nhưng rốt cuộc cô cũng đã xoay xở được. Đồ ăn vẫn nóng bỏng lưỡi, tuy nhiên đó vẫn là một nấc thụt lùi. Không biết từ bao giờ, họ chẳng làm được gì, thậm chí tem thư cũng không dám mua, nói gì đến những khoản ngoại lệ.
Ước nguyện cho năm mới không thiếu, nhưng người ta hầu như không dám nghĩ đến. Dora ước không bao giờ phải hoảng hồn như trước đây một tuần; đêm giao thừa cô muốn nằm trên giường cạnh ông, đã quá nửa đêm từ lâu, Dora không mở nổi mắt vì mệt, chân cô lạnh ngắt, nhưng thân mình ấm áp dưới lớp chăn, ông lơ đãng ôm cô. Gần hai giờ cô ngủ thiếp đi, lạ thật, bất chấp ngoài cửa sổ có tiếng ồn ào váng tai kéo dài hàng giờ liền, như ông tả trong lá thư gửi về nhà sau đó, bất kể trời băng tuyết, bầu trời ngang dọc pháo thăng thiên, tiếng nhạc và tiếng hò reo rợp đất.
Họ sẽ không mãi mãi bên nhau. Đôi khi ông hình dung cô đang cô đơn, vắng ông, mười năm nữa, ở tuổi ba lăm, khi sắc đẹp đã phai nhạt nhưng đồng thời được định hình rõ nét, và xét theo một nghĩa nào đó thì đã trở thành bất biến. Cô sẽ không thon thả mãi, sẽ đầy đặn hơn, nếu ông không đoán sai, nhưng ánh mắt cô sẽ vẫn thế, bản tính dịu dàng, sự sống động, niềm tin thánh thiện sẽ vẫn thế.
Có lần ông mơ thấy F. Từ nhiều tuần nay, lần đầu tiên ông nhớ đến cô, chỉ vì cuộc gặp trong mơ. Ông biết cô đã có gia đình và con cái, như người ta kể lại, vì ít lâu sau khi hủy hôn họ không viết cho nhau nữa. Ông cũng chẳng biết viết chuyện gì. Rằng ông rốt cuộc đã sống được cuộc sống mà cô không sẵn sàng chia sẻ cùng ông? Ông chỉ còn nhớ rằng giấc mơ xoay quanh các món đồ gỗ và việc trang bị cho một phòng khách mênh mông, vì đó là đề tài khiến hai người hay cãi vã.
Ông viết cho Ottla rằng Meran không đến nỗi dở. Mặc dù vậy, trước hết ông vẫn trụ lại Berlin, giá cả sẽ hạ chút ít trong năm mới như thông báo, đi tàu điện ra quảng trường Potsdam rẻ đi một phần ba, một lít cồn chỉ còn nửa giá. Mặc dù Dora ngần ngại, họ đã đi ra thành phố, thời tiết không còn quá xấu, và quả thật rất hay, khi lại có dịp đi lẫn vào dòng người, có thể nhận ra là mọi thứ vẫn ở nguyên vị trí quen thuộc, giá cả, như đã nói, khá hấp dẫn, ví dụ một suất thịt rán kiểu Vienna với măng tây trong một nhà hàng góc phố chỉ vẻn vẹn 20 curon. Đúng, trời lạnh lắm, ông viết lúc tối, nhưng dưới tấm chăn chần lông vũ thì ấm, thỉnh thoảng ngoài công viên hé chút nắng ấm, và tựa lưng vào lò sưởi cũng rất thú, nhất là khi sục chân vào bao ủ chân nữa thì còn gì bằng.
8
Cô vui nhất vì bây giờ cả cha mẹ ông cũng biết đến cô, biết một cách chính thức rằng hai người sống với nhau. Cô từng tổn thương đôi chút, khi Franz do dự không muốn cho cha mẹ biết chuyện, nhưng giờ thì họ biết rồi, cô thoáng xuất hiện trong những bức thư đi thư lại, cô có một cái tên, cô là người phụ nữ bên cạnh Franz, một người phụ nữ mà người ta thậm chí còn hàm ơn; trong bức thư gần nhất, cha mẹ ông gọi cô là nàng tiên tốt bụng, gần như trong cổ tích.
Có tin dữ, chuyện căn hộ. Họ đến nói chuyện với bà chủ nhà, kỳ thực chỉ vì họ cân nhắc, liệu có nên vì lý do phí tổn mà trả lại phòng thứ hai, nhưng lúc này mới vỡ lẽ họ nên thuê thêm phòng thứ ba, vì bà Rethmann cần tiền, mà số tiền bà dự tính thì họ không kham nổi. Phải, thật đáng tiếc, bà nói, và Franz hỏi bao giờ, bà đáp, không phải ngay lập tức, bà dự tính đến ngày mồng Một tháng Hai, ngoài ra có chỗ thay thế, một bà bạn quen đang tìm khách thuê nhà mới sau khi người cũ qua đời, bà sẽ nói chuyện với bà ấy.
Khác với hồi tháng Mười một, vụ bị tống ra khỏi nhà lần này như sét đánh giữa trời quang. Franz rất bực, cảm thấy mình bị xua đuổi và không còn thích căn hộ nữa. Ông ngờ vực Berlin, ngờ vực cuộc sống của hai người, có lẽ nên đi khỏi đây. Nhưng đi đâu? Ông kể cho cô nghe về Meran, trước đây nhiều năm ông đã ở đó, nhưng cô không hình dung nổi, thêm nữa ông mới chỉ đến đó thăm người quen, một mình, ít nhiều như một chuyến đi nghỉ. Vậy có lẽ Hồ Garda còn tốt hơn, ông cũng đã từng đến đó. Hồ Garda, ông nói, rộng gần như biển, nhưng ở Ý, với những xóm làng sặc sỡ, phía xa xa nhìn thấy núi. Nhưng Meran cũng có núi non khắp nơi, cô sợ núi, chưa bao giờ cô nghĩ cuộc đời mình phút chốc trở nên rối rắm như vậy.
Cô bàn bạc với Judith. Bạn gái cô đã mấy lần gọi điện và nói, họ phải gặp nhau, có chuyện mới. Không, không có đàn ông nào cả, vì Dora hỏi: Chuyện đàn ông hả? Hừm, có thể, Judith nói, nhưng không phải như cậu nghĩ. Họ hẹn nhau tại một tiệm cà phê ở Moabit mà chủ tiệm là chú của Judith, và trong khi họ gọi đồ uống thì đã rõ cả: Judith sẽ đi Palestine, cuối tháng Năm, chậm nhất là trong hè. Người đàn ông mà cô nhắc đến tên Fritz, không nhiều tuổi lắm, ba mươi sáu, bác sĩ, đã theo Zionism từ lâu. Cô định cùng ông ta đến một kibbutz[(6)][11] ở vùng biển. Ngoài ra hai người không có quan hệ gì hơn. Nhưng ông ta hỏi Judith còn quen ai muốn đi cùng. Cậu có muốn không? Dora kể về Meran, cô không biết có đi Meran không. Judith cho rằng, nếu hai người đi Meran được thì đi Palestine cũng thế. Nhưng làm sao được, họ sống bằng gì ở đó, chưa kể đến thể trạng của ông, trời đất ơi, họ đi đâu bây giờ.
Tuyết rơi liên miên, cô nghĩ đến bạn, Judith sẽ đi Palestine, trong khi cô suốt ngày tưởng tượng đi lên núi. Franz trầm lặng, ông muốn biết chuyện ăn ở rốt cuộc thế nào, nhưng người quen của bà Rethmann đang du lịch. Họ gặp nhau ngoài hành lang, chào hỏi rồi ai đi đường nấy. Có lần, vào buổi chiều, bà đứng trước cửa cùng một người đàn ông, nghe nói ông ta đến xem nhà, nhưng không có vẻ hài lòng lắm. Ông ta ngán ngẩm liếc Franz đang nằm trên tràng kỷ, trong khi bà Rethmann khen lợi thế của ba căn phòng và làm ra vẻ vô cùng phiền muộn khi phải để những người thuê nhà tuyệt vời này phải ra đi.
Họ đang lâm vào tình thế lửng lơ. Khi thì họ chắc chắn được ở lại, khi thì họ đã sẵn sàng đi ở nhờ bạn bè. Hay họ nên rời Berlin? Lại phải nói đến Meran, họ xác định tinh thần, Meran, tại sao không, sau đó Franz nhắc đến Vienna, khiến Dora thú thực cô rất ngạc nhiên, vì hồi ở Müritz ông tuyệt đối không bỏ lỡ dịp nào để nói xấu Vienna, theo ông thì Vienna không chấp nhận được về bất cứ mặt nào, mặc dù đó ít nhất cũng là một thành phố.
Từ khi bị sốt hầu như ông không viết gì. Buổi tối ông ngồi vào bàn, nhưng dễ nhận thấy ông không hài lòng, công việc làm ông mệt mỏi, cướp đi sức lực của ông, thay vì đem lại cho ông sức khỏe mới. Đôi lúc cô muốn can ông, cảnh báo và xin ông đừng thức lâu như hôm qua, vì ông đi ra ngoài cả nửa đêm qua. Cô nghe tiếng ông quay về, chỉ muốn hỏi ông mà không dám, trong bữa sáng, khi cô vận áo choàng trong nhà của ông và ngồi trong lòng ông, không ai biết cuộc đời họ sẽ tiếp diễn ra sao.
Cô chưa bao giờ hiểu rõ chuyện với M., qua những điều quá ít ỏi ông kể. Họ không đem lại hạnh phúc cho nhau, hình như ông nói “hủy hoại nhau”, dù sao đi nữa, ông đã đợi chờ cô ấy rất lâu, đã hy vọng từ lá thư này đến lá thư sau, tan nát cõi lòng, và tất cả chỉ còn là vấn đề thời gian, cho đến lúc họ kiệt sức buông nhau ra. Một, hai lần, cô thấy một bức thư nằm đó, với nét chữ của ông trên phong bì, và cô thoáng nghĩ ngợi, trước đây mấy tuần rồi.
Nếu chẳng may bệnh ông tái phát, cả lần này cô cũng không lưỡng lự khi gọi bác sĩ. Tối qua, trong bữa ăn, đột ngột cô lại có linh cảm như vậy, trông ông mệt mỏi và như bị sốt, và quả thật nhiệt độ của ông tăng cao. Kể từ hôm đó họ lại thường xuyên đo nhiệt độ. Ngay sáng sớm đã có nhiệt độ, lên xuống cho đến trưa, luôn quanh mức 37,5.
Cứ như chưa đủ, bà Rethmann cho biết mọi việc đã được thu xếp, đến ngày đầu tháng Hai họ phải ra khỏi nhà, và tiếc thay, căn hộ dự trù cũng không còn, đã có người thuê mất. Thôi được, họ đã ngầm tính đến khả năng đó, thậm chí Franz còn nói đùa, rằng ít nhất nhờ đó mà họ được làm quen Berlin, nhưng giọng ông hơi gằn, cứ như ông đột nhiên không quan tâm bất cứ chuyện gì nữa, thậm chí không nhắc đến Meran và Vienna.
Dịp để vui mừng vẫn tiếp tục là các bưu phẩm, khi một miếng bơ khi vài vật dụng trong nhà được gửi đến, thường là của Ottla hay mẹ, và một lần của Hội Phụ nữ, một tổ chức thường gửi đồ cứu trợ cho ngoại kiều sa vào hoàn cảnh khó khăn ở Đức, theo đề nghị của Max. Franz ước ao một thanh sô cô la, những thứ không tìm đâu ra ở Berlin, nhưng thay vào đó họ nhận được bột tấm, gạo, bột, đường, trà và cà phê đến phát chán, khiến họ cũng chỉ phấn khởi có chừng mực. Có thể nướng bánh ngọt. Và quả thật cô có ngay ý tưởng: cho trẻ con ở cô nhi viện Do Thái, năm trước cô có làm thợ may ở đó. Người ta đón tiếp cô như một thiên sứ, cái bánh biến mất trong nháy mắt, sau đó lũ trẻ còn dùng dằng không muốn cho cô đi. Những khuôn mặt đói và buồn, mắt đen to. Thế là em cất tiếng hát, cô kể cho Franz nghe vào buổi tối. Mọi người cùng hát, họ cầu nguyện, những giọt lệ khi chia tay thật nặng nề, dường như ai cũng rõ rằng rất lâu nữa, đây là cuộc viếng thăm cuối cùng.
Những chuyến đi ra ngoài như vậy hoàn toàn là không tưởng đối với Franz. Anh là một gia súc từ đầu đến chân, ông pha trò. Liệu ngày ở Müritz cô có tin vào chuyện đó không? Ở bãi biển chắc chắn trông anh gần như một vận động viên. Anh bơi, anh thoăn thoắt chạy từ ghế hộp xuống nước và quay lại, rồi anh đi với em đến tận cầu bến, dạo chơi xuyên rừng với em, hai lần chỉ cách nhau mấy ngày, giờ thì nhìn xem anh đã ra sao. Ông muốn cô đi gặp mọi người, cô không nên cho rằng không thể để ông một mình, chẳng hạn như khi ngủ thì ông tuyệt đối không cần cô. Em hiểu chưa? Khi cầu xin cô, trông ông như một cậu bé, cô gật đầu, lắc đầu, sẽ nghĩ lại.
Cô không bao giờ muốn ngủ thiếu ông nữa.
Để tiết kiệm, bây giờ họ chỉ đốt lò sưởi trong buồng ngủ. Gần giống hồi ở phố Miquel. Người ta cần ít không gian đến kinh ngạc, vì thực ra họ chỉ có giường, cái bàn con, ghế và tủ, mà thậm chí chỉ cần cái giường, họ ăn luôn ở đó, mặc cho mấy hôm sau vẫn còn thấy vụn thức ăn khắp nơi.
9
Khó có thể diễn tả thể trạng của ông, tạm bỏ qua nhiệt độ cao và chuyện ông áy náy vì chẳng có sức ngăn cản Emmy làm ầm ĩ mọi chuyện. Không có cớ gì để vui cả. Ông ngủ, ông có đồ ăn, ông có Dora, đã đành, nhưng nhìn chung ông cảm thấy yếu nhược, công việc đình trệ, ngoài vài dòng nguệch ngoạc ban đêm thì mấy tuần qua ông không làm được gì hơn. Ông sợ bệnh tái phát, ông có thể đọc tên được nỗi sợ ấy trong một bức thư dài gửi Max mà ông làm ra vẻ đó chỉ là chuyện vặt: phải nện nền đất dưới chân ông cho chắc, phải lấp đầy vực thẳm trước mặt ông, xua lũ cú diều đang lượn quanh ông, xoa dịu cơn bão trên đầu ông, thế thôi, xong rồi thì, ông viết, tình hình sẽ khá hơn một chút.
Dạo này ông thường tiếp khách bên giường. Vợ chồng Kaznelson đến hồi đầu tháng Ba và ở lại nửa buổi chiều, trong khi bạn gái Judith của Dora mới đây chỉ được ông tiếp nửa tiếng. Thế cũng đã quá nhiều, nhưng có lúc ông lại thấy phấn chấn, chỉ muốn ra khỏi nhà để khỏi tiếp tục bỏ lỡ mọi dịp, chẳng hạn như tối nay có buổi giới thiệu Anh em nhà Karamazov[(7)][12]. Bà Bugsch và nữ nghệ sĩ trình diễn Midia Pines đã mời, họ có mặt từ đầu giờ chiều, và từ đó trở đi không hề có một giây tẻ nhạt. Đặc biệt, cô Midia tóc đen đã làm ông phấn chấn, họ trò chuyện về các nhân vật vĩ đại của Nga, sự khác biệt giữa Tolstoy và Dostoyevsky, kỹ năng đọc, thậm chí còn có kế hoạch sau buổi đọc sách sẽ đi vào thành phố, nhưng rốt cuộc chính kế hoạch đó lại khiến ông ngộ ra rằng nên ở nhà thì hơn. Ai cũng bất ngờ, thậm chí sửng sốt, năn nỉ thuyết phục ông, trong khi ông cũng cố đứng dậy và thế là dứt điểm sự việc.
Kết quả hình như ông đã bỏ lỡ một dịp tốt. Dora rất ấn tượng khi quay về và từ lúc đó không ngớt nhắc đến cô Midia nọ. Đã quá bảy giờ, bữa sáng thứ nhất bày trên bàn cạnh giường và ông lắng nghe cô kể, được chăng hay chớ, vì đôi khi ý nghĩ của ông trôi đi nơi khác, hầu như ông ghen tị với đám người phấn khích quanh Dora hôm qua, trong quán rượu những lời ngợi ca Midia vang lên không dứt. Thật tiếc là không làm sao kể cho chính xác được, Dora nói, nhưng cô rạng rỡ, cô luôn nhớ đến ông, suốt buổi tối, trong khi ông nằm trên giường ở nhà và bực mình bởi cú điện thoại của Elli, vì họ vừa đi khỏi thì có chuông, đầu dây kia là Elli với những nỗi lo vĩ đại của mình.
Họ vẫn chưa có nơi ở mới.
Dora đăng báo: Đàn ông đứng tuổi, tìm hai phòng, ưu tiên ở Steglitz, nhưng lần này cô mở rộng thêm đến Zehlendorf và qua đó ngày càng ra xa thành phố. Đôi khi ông cảm thấy như bị cầm tù. Từ mấy tuần nay ông không đến Đại học Do Thái, không gặp cả Emmy, chỉ nói chuyện ngắn qua điện thoại, nhưng thế còn tệ hơn đi gặp cô ta, vì cô rất thờ ơ, gần như lạnh lùng khi nhắc đến những giọt lệ của mình, rằng cô đã khóc biết bao lần và biết bao nước mắt vì Max, nhưng giờ đây, trong nháy mắt, chuyện đã qua rồi.
Cứ ngồi vào bàn là ông tự hỏi, mình còn có việc gì nữa mà làm, và ông tự an ủi bằng cách nghĩ đến căn hộ mới. Ông không hiểu rõ lý do khiến ông chỉ muốn đem đốt hết bản thảo, vì không còn sức chăng, hay vì sự tĩnh lặng quá lớn có muốn lờ đi cũng không được?
Dạo này tuyết bắt đầu tan. Tuyết tháng Giêng hầu như không còn, dĩ nhiên không chắc có còn rét lại không, nhưng ít nhất cũng có sự thay đổi khi mặt trời hiện ra. Ông ra công viên, ngồi ghế băng, chỗ ngày xưa có đứa con gái gọi ông là Do Thái. Ông chóng mệt, vì vậy ông lại nghỉ tiếp ở chiếc ghế băng gần nhất, và đến chiếc sát đó lại nghỉ. Trên bảng dán báo cạnh tòa thị chính ông phát hiện trên trang nhất tin Lenin qua đời, rõ ràng đã trước đó mấy hôm rồi. Ông giật mình nhận ra, họ biết quá ít những sự kiện như vậy, một thoáng thôi, vì ông thấy thế là đúng, có thể chưa bao giờ đúng như hôm nay.
Chưa bao giờ ông phải suy nghĩ chuyện tiền nong.
Sau khi đăng báo tìm nhà, điện thoại réo liên hồi, nhưng đa số những lời mời chào đều có vẻ đáng ngờ hoặc giá thuê quá đắt, hơn nữa ông vẫn sốt nên hầu như không thể đi xem nhà. Thật trái khoáy, họ thích một căn hộ có giá thuê ngốn đến ba phần tư tiền hưu của ông, họ đi hai bến tàu điện tới đó và hy vọng có thể mặc cả giảm giá, nhưng tất nhiên hy vọng không thành. Tuy nhiên, căn hộ đẹp lung linh, hơn xa căn hộ hiện tại, có hai phòng và một chái nhỏ, ở tầng trệt một biệt thự ngoài Zehlendorf, lọt giữa cây xanh um tùm, ông kể cho gia đình biết, có vườn, hiên kèm chỗ nằm, đèn điện, lò sưởi trung tâm. Mình điên thật, Dora nói. Nhưng chính họ thích thế, nhất là khi điện thoại vẫn không ngừng đổ chuông. Cuộc gọi gần nhất lúc mười giờ hơn, một giọng thân thiện, cởi mở với mọi điều kiện và đề nghị họ đến xem vào sáng mai, đó là bà bác sĩ Busse. Busse à? Ông nghe tên quen quen. Ông mở danh bạ điện thoại xem lại, ông chồng là nhà văn, theo trí nhớ của ông, là người kỳ thị Do Thái.
Khi đến xem nhà, họ được biết bà chủ là một góa phụ. Chồng bà, đúng ông nhà văn mà ông biết, đã mất mấy năm trước vì bệnh cúm Tây Ban Nha. Bà thoáng ngơ ngác khi thấy ông tiến sĩ không biết tin đó, vì tất cả các báo đều đăng, không chỉ ở Berlin. Không sao. Hai phòng có lò sưởi khá ổn, ông nhận xét, có ánh nắng khi mặt trời lên. Căn hộ trên lầu một, nên họ và chủ nhà hầu như không chạm mặt nhau, khung cảnh xung quanh còn giống làng quê hơn ở Steglitz. Giá thuê không quá bất hợp lý, nhưng họ không kham nổi. Số 25-25 phố Heide. Nhìn ra cửa sổ rất đẹp. Họ cũng được phép sử dụng vườn trong mùa xuân sắp đến, hy vọng lúc đó đã qua cơn bĩ cực.
Tính đến nay, họ chưa ở nhà nào quá mười tuần.
Tâm trạng mấy hôm nay chao đảo giữa kiệt quệ và mong đợi. Hai lần đi xem nhà có hơi quá sức, nhưng ngoài ra thì ông lạc quan, không ho, thân nhiệt ổn định, mọi thứ xung quanh rất yên bình, trong ông cũng vậy, không có ý tưởng nào sắc nét, không câu chữ nào mạch lạc, không ý tưởng nào về bất cứ chủ đề gì.
Họ đi qua cả khu một lần nữa khi chuẩn bị ra về, cứ như thể đây là lần cuối, mặc dù nếu muốn thì họ có thể quay lại nơi này bất kỳ lúc nào. Ở Vườn Bách Thảo họ gặp một con cáo già, nó đứng trong vạt thông và kiên nhẫn ngó qua chỗ họ, không sợ hãi, tựa như nó muốn chào. Đó là Steglitz, ông tiến sĩ nói, và Dora bảo, cô rất thích ở Steglitz, đó là thời kỳ hạnh phúc nhất trong đời cô.
Max gọi điện và nói, ông đang ở ngoài thành phố để nói chuyện với Emmy. Chiều ông sẽ ghé qua một lát. Emmy và ông vẫn đang nhùng nhằng, họ hầu như không nói được gì nhiều với nhau, có gì đó vẫn tồn tại nhưng đã bị hủy hoại, ông nghĩ Franz và Dora sẽ khiến ông nghĩ đến chuyện khác. Không ai có lời khuyên. Dora đã gói gần xong đồ đạc, nhưng bây giờ tạm ngừng tay, họ uống trà ăn bánh, sau đó đọc khá lâu hai truyện ngắn gần đây nhất. Dora muốn thế, cô vui vì đã thuộc lòng mọi truyện, trong khi Max ngồi im phăng phắc trên ghế gần đến những phút chót, rồi lại im lặng hồi lâu nữa, trước khi nhận xét rất hay về hang thú dưới đất.