← Quay lại trang sách

- 4 -

10

Hôm chuyển nhà thì ông mệt. Ông sốt, người nóng hầm hập, nhưng không đau chỗ nào, giống hồi tháng Mười hai. Ông tươi tỉnh lạ lùng, không hề ngạc nhiên, mà bực mình vì lại không giúp đỡ được gì, chỉ nằm trên giường và tự hỏi ở đâu ra lắm đồ đạc phải chuyên chở như vậy, rõ ràng từ tháng Chín tới nay đồ đạc trong nhà họ đã nhiều lên kha khá.

Thời tiết bất tiện cho việc chuyển nhà. Trời mưa, lại gió mạnh, nhưng cô không than phiền, hơn nữa cô không chỉ có một mình. Reha, một cô gái người Müritz, sẵn sàng đến giúp, mới đây họ gặp nhau và tán chuyện ngày xưa, nên ngỏ lời nhờ vả không khó lắm. Chặng đường từ ga khá xa, mười lăm phút đi bộ, đồ đạc nặng, thỉnh thoảng họ dừng chân thở, nhưng Dora luôn giục vì cô lo ông sốt lại, vì ông mỉm cười khó hiểu khiến cô lo lắng, tựa như ông biết những điều mà cô không dự cảm được. Họ đi hai chuyến, đến đầu giờ chiều chỉ còn sót lại mấy thứ lặt vặt. Vì Franz không thể ra đường trong thời tiết này, chuyến cuối đi ô tô, vui nhưng đắt chóng mặt, tuy nhiên mọi việc đã hoàn tất. Đây là lần chót, Franz nói, và Dora tin đây là lần chót, sẽ không còn căn hộ nào khác ở Berlin này nữa.

Lại những giờ phút trôi đi giữa hy vọng và sợ hãi. Nhưng cô yêu cảm giác được liên tục ngó xem ông đã ngủ chưa, vì đôi lúc ông ngủ, và lúc đó cô hôn lên vầng trán nóng của ông, hoặc cô chỉ đứng lặng yên quan sát ông thở nhè nhẹ, lồng ngực dâng lên hạ xuống. Ông tuyệt đối không được phép và không thể ra khỏi nhà nữa. Họ nhận được giấy mời dự tối thuyết trình của Ludwig Hardt[(8)][13], sẽ có cả phần đọc tác phẩm của Franz nên họ rất muốn đi, nhưng bây giờ chuyện đó là không tưởng. Franz cáo lỗi, ông viết một bức thư ngắn, và lại phải nhờ Reha chuyển hộ, vì Hardt ở một khách sạn nằm sâu giữa thành phố, và Dora không muốn để ông một mình lâu thế.

Tiếc là việc không xong. Rất có thể thư không đến tay người nhận, không có phúc đáp, buộc Franz phải viết bức thư thứ hai. Lần này Dora đưa thư, cô đã đến đó buổi tối và nghe bài thuyết trình của nhân vật nổi tiếng. Sau khi kết thúc, vất vả lắm cô mới tiếp cận được ông, vì rất đông người vây quanh ông, họ hỏi han, ca tụng cách ông đọc, khen những câu chuyện về con khỉ biến thành người. Cô tự giới thiệu là Dora, và có tin cho ông. Đáng tiếc là Franz bị ốm, cô sơ ý chỉ nói tên riêng, và cô rất thích buổi tối hôm nay. Hồi lâu ông mới biết cô ám chỉ ai, ông đọc thư và phân ưu với việc Franz không được khỏe, nói ông cũng muốn đến thăm, đáng tiếc sáng sớm mai ông khởi hành trên chuyến tàu đầu tiên.

Franz thất vọng, nhưng không nhiều, từ mấy năm nay ông không gặp và cũng không nghe gì về Hardt. Dora không biết nói gì nhiều về con khỉ. Cô thương nó, cô nói. Nó phải biến thành người như mình, có khiếp không? Cô tự hỏi, làm sao có thể nghĩ ra những câu chuyện như thế. Riêng cái tên Rotpeter. Cha mẹ ông nghĩ gì về con khỉ đó? Họ cũng nghe thuyết trình, họ kể trong thư như vậy, nhưng khác với thính phòng đặc kín người ở Berlin, hình như ở Praha chỉ có họ là thính giả.

Franz sợ nhất nếu mẹ tới thăm. Cơn sốt đến rồi đi, ông chấp nhận được, nhưng lạy trời, nếu mẹ ông đứng trong phòng này. Rủi thay, hình như ở nhà đã có kế hoạch từ lâu, cả một ông chú cũng muốn đến xem tình hình ra sao. Ông ấy đã gửi một khoản tiền lớn cho các khoản chi đột xuất, riêng đó đã là lý do để họ không thể từ chối đón tiếp. Franz thở dài, quả là ác mộng, vì một khi đã đến Berlin, họ sẽ tìm cách đưa ông khỏi đây, trong khi Dora thấy trong cuộc viếng thăm ấy cũng có mặt dễ chịu. Nói cho cùng, đó là mẹ ông, và rốt cuộc họ sẽ có dịp làm quen nhau và bàn bạc nên làm gì thì hơn.

Anh nghe này, cô nói. Vài hôm một lần, nói đi nói lại. Buổi tối trên giường, khi ông ngủ, khi cô tự tin vào chính mình. Anh nghe này. Không sao cả, bất kể chuyện gì xảy ra, bất kể những lời ngu ngốc mà tiếc thay, cô chỉ có thể thì thào. Tất cả đều đã được quyết định, ngay từ đầu, ít nhất là trong lòng cô, bất kể chuyện gì xảy ra với anh.

Sát ngày chuyển nhà, ông viết thư cho một bà bác, bà này sống ở một địa phương tên là Leitmeritz và bây giờ mới hồi âm bằng giọng không lấy gì vui vẻ cho lắm, chắc vì bà cho rằng ông và Dora ngỏ ý đến ở nhờ. Trong khi ông chỉ xin bà nghe ngóng xem ở vùng đó có nhà nào cho thuê không, hai đến ba phòng có đồ gỗ, tốt nhất là những phòng riêng biệt trong một dinh thự.

Ngoài ra không có gì nhiều.

Ông nằm sưởi nắng trên ghế đu, bên cửa sổ mở, và viết cho cha mẹ rằng hy vọng sắp tới ông có thể liều đi ra hàng hiên.

Ông nằm trên giường, giở vở xem, lắc đầu thất vọng về kết quả quá ư nghèo nàn của mấy tuần qua. Cô không an ủi được ông nhiều. Ông tự trách mình đã ít gắng sức vì cứ nằm mãi trên giường. Nhưng anh đang ốm, cô nói. Anh ốm từ tháng Mười hai, anh quên rồi sao? Nhưng ông không đổi ý. Ông rong chơi đã nửa cuộc đời. Vì sao ông chưa bao giờ nghĩ ngợi? Như một đứa trẻ, ông nói. Nhưng trẻ con đi ra thế giới, rời khỏi giường, trong khi hoàn cảnh anh ngược lại: Thay vì đi ra thế giới, anh càng ngày càng chui vào giường đắp chăn nhiều hơn.

Ông gửi cho gia đình số điện thoại mới, với điều kiện ông không phải bắt máy.

Ông gầy đi, mỗi lần đứng dậy là thấy yếu đến mức nào. Cô hầu như không nấu nướng gì nữa. Cô mua trái cây, đem cho ông sữa chua, đôi môi của cô, thỉnh thoảng một tờ báo.

Dần dần mọi người đều đã gọi điện đến, đầu tiên là Elli, rồi đến Ottla, và mẹ. Điện thoại ở tầng dưới, giữa sảnh, vì vậy không tiện nói chuyện. Cô lạnh, run cầm cập khi phải nói chuyện lâu. Nói chuyện với Elli vẫn đơn giản nhất. Họ không thân nhau lắm, do vậy cô dễ kể lại mọi thứ cho đẹp hơn lên, căn hộ mới không hẳn lý tưởng, tương đối ồn, không dễ chịu bằng nhà cũ. Trời lạnh, họ ít rời nhà, cô thú thực, còn Franz thì ổn, tuy nhiên đang nằm, hơi nóng, mặc dù thực tế ông bị sốt cao. Với Ottla thì cô thú thực Franz sốt. Ông sút cân, người yếu, cô đang cố hết sức. Ottla đáp: Thương quá, hai người hạnh phúc như vậy cơ mà. Cô cố an ủi, hồi tháng Mười hai hết sốt, tuy nhiên ai cũng rất lo, Berlin không lợi cho ông, đó không phải là lời trách, không được coi đó là lỗi của Dora, mà ngược lại, ngay từ đầu Dora là niềm hạnh phúc của ông.

Tối đến, khi cô ngồi bên giường ông khâu vá hoặc trông giấc ngủ của ông, cô tự hỏi, ông là ai. Phải chăng ông là người cô đang thấy trước mắt, một người đàn ông sốt mà cô chung sống, người cô hôn, người đọc cho cô nghe câu chuyện buồn cười về con khỉ, đôi khi đọc cả một bức thư, khi ông viết cho cha mẹ và làm như chẳng có gì xảy ra. Ông quay mặt vào tường nên cô không thấy mặt ông, nhưng cô biết rằng từ vài hôm nay trên khuôn mặt ấy có một nét gì đó mà cô không biết, một vầng sáng, cảm giác của cô là thế, nhưng khác với ngày xưa, khi ông đánh thức cô giữa đêm. Lần này là chứng bệnh, cô tin vậy. Mà cho đến nay ít khi cô nghĩ ngợi về bệnh ấy, tựa như đó là một người tình ngày xưa, là một thứ gì đó thuộc về ông mà cô không ghen tuông. Cô không hiểu nổi ý nghĩ đó, thậm chí không thể nói được là cô sợ, cô chỉ nhận biết nó và cố kiềm chế không đưa ra kết luận quá vội vàng.

11

Tất nhiên ông thiếu thốn một vài thứ, nhưng không thiếu đến quặn lòng như ông từng nghĩ, những cuộc dạo chơi khi trời tuyết ngập này cũng giống như các chuyến thám hiểm. Từ nhiều tuần nay, thành phố xa xôi như mặt trăng. Nhưng để thay đổi, ông cũng nhỏm dậy, vì Rudolf Keyser của tờ Neue Rundschau đã lặn lội đến phố Heide ngập tuyết và không tin vào mắt mình. Giờ đây ông tiến sĩ đã quen với việc người ta giật mình khi thấy ông. Ông nằm trên tràng kỷ, bắt tay ông Keyser đang bàng hoàng ra mặt, nhận xét rằng đêm qua không có gì khác thường, mấy hôm vừa rồi cũng chẳng khác thường. Ông gắng gượng, mỉm cười, và thấy trong người thực sự dễ chịu, xung quanh đều có thiện chí với ông. Như mọi khi, Dora đã chuẩn bị bữa điểm tâm, ông thú thực thiếu Dora thì ông không sót được ở Berlin, thậm chí có thể coi như ông nói lời tỏ tình trước mặt người lạ, một người đàn ông không khác gì sứ giả đến từ một cuộc sống đã lùi xa trong mắt ông. Họ tranh luận sôi nổi, nói chuyện sách vở, sân khấu, nhắc đến những người quen chung, nhưng với hàm ý như tất cả đã chôn chặt trong quá khứ, và hồi lâu sau ông tiến sĩ thấy không thoải mái. Ông đã lệt bệt đến thế sao? Dora kể lại những biến động trong mấy tuần qua, nhắc đến giai thoại với vụn nến. Cô nghĩ, trong khung cảnh này không nhất thiết nói chuyện công việc, nhưng không, Keyser cứ muốn biết, ông tiến sĩ lảng đi, có gì đáng nói đâu, nhưng như thế chỉ càng làm mọi thứ tệ thêm, vì Keyser bắt đầu khen ngợi ông, nhắc đến các bài viết đã được xuất bản, tỏ ra thông thạo đến kinh ngạc, ông đi đi lại lại và đọc to trích đoạn người thợ lò sưởi nói về chàng Rossmann nhìn thấy bức tượng Nữ thần Tự do, sau đó ông chia tay với những lời chúc tốt đẹp nhất.

Như mọi khi, cứ sau một lần tiếp khách kéo dài, hôm sau ông không ra khỏi giường, tuy nhiên không có nghĩa là sáng sớm ông không dậy để vào nhà tắm cạo râu trước gương, đó cũng là lúc ông soi kỹ khuôn mặt mình thật lâu. Dạo này trông ông gần như đứa trẻ, thật khó diễn tả, ông ốm, nhưng nét nổi bật là sự biểu cảm, tựa như ông đã cố gắng cả đời để nom như một học sinh trung học, vậy mà vừa đạt ngưỡng ấy ông đã phát triển thụt lùi thành một đứa trẻ.

Dora nghĩ gì, ông không rõ. Cô không nói cho ông hay, cô nhìn thấy gì ở ông, có lẽ vì mọi điều đã quá rõ, vì cô nghĩ không được phép khiến ông lo lắng, cứ như thể điều gì không nói ra thì không tồn tại vậy. Chẳng hạn mấy bộ com lê của ông không vừa nữa, các góc đều lỏng lẻo xộc xệch, cả đồ lót cũng trở nên rộng rinh. Giày có lẽ còn vừa. Nhưng ông xỏ giày ra đường lần cuối khi nào nhỉ? Thậm chí đầu ông dường như cũng co lại. Ông biết tai người ta phát triển cho đến tận tuổi già. Nhưng ông không già. Ông vẫn nghĩ thế từ khi biết nghĩ. Ông sẽ chết trẻ, đại khái trong tình trạng như bây giờ, chết mà không đạt được chút thông thái nào.

Không phải lần đầu tiên ông tự hỏi, sẽ còn gì để lại. Ông đã viết ba cuốn tiểu thuyết thất bại, vài chục truyện, và cả đời viết thư từ, chủ yếu gửi đến những phụ nữ không ở gần ông, thư rồi lại thư, trong đó chỉ giãi bày vì sao ông không ở bên họ và không chung sống cùng họ.

Ông cảm thấy yếu nhược và bải hoải, đồng thời đầy quyết tâm. Ông đã suy nghĩ, liệu có nên nhờ Dora hủy đi thứ này thứ nọ, những dòng nguệch ngoạc của mấy tháng qua, tất cả, trừ hai truyện cuối cùng. Có thể ông chưa viết được những truyện thực sự, có thể tất cả còn ở phía trước, khi mùa đông khủng khiếp này qua đi, khi ông hồi sức, bất kể ở đâu.

Ít nhất thì thời tiết ổn định. Ông có thể ngồi ngoài hiên nắng và để Dora chiều chuộng. Cô luôn chú ý quấn chăn kín cho ông. Cô đem thư từ, đồ ăn, một cốc sữa hay nước quả, lúc đó ông nhìn cô một cách vui vẻ, gần như thư thái, cho đến bốn giờ chiều, lúc cô đưa bưu thiếp của người chú báo sẽ đến thăm. Gì thế? cô hỏi, và ông, vì ông hiểu ngay gia đình cử người chú đến, biết hồi kết đã đến. Ngay tối đó ông viết thư phàn nàn với cha mẹ, tỏ ra ngạc nhiên, mặc dù ông giận dữ và tìm cách phản kháng; mọi lo lắng đều vô căn cứ, Zehlendorf hoàn toàn chẳng hay ho gì đối với người chú, và do đó chẳng bõ công đi xa như vậy.

Hôm sau người chú đến nơi. Nếu trong khi chuyển nhà họ không đánh mất số điện thoại của ông ấy thì đã có thể ngăn chuyến đi vào phút chót, nhưng giờ đây chuyện đã rồi. Đầu giờ chiều chuông cửa reo, và chưa đầy năm phút sau người chú đã có kết luận chắc như đinh đóng cột. Franz cần đi dưỡng bệnh ngay, Berlin rất có hại, Franz phải đến một nơi khác càng nhanh càng tốt, đi Davos, lên núi, chỉ cốt sao rời khỏi Berlin. Dora mời ông ngồi, nhưng ông từ chối, khăng khăng nhắc đi nhắc lại những lời khuyên. Làm như vô tình, ông săm soi căn hộ, tạm hài lòng, mặc dù sau đó ông nói, ở đây rất ấm cúng, hơi nghèo nàn nhưng không đến mức như cha mẹ Franz lo ngại.

Sau đó họ bỏ hẳn đề tài an dưỡng đường. Người chú bực mình về giá cả, nhưng ông hết lời khen thành phố, nhiều lần ông dạo chơi rất lâu, từ quảng trường Potsdam hoành tráng xuyên qua phố Leipzig đến quảng trường Alexander, dỏng tai nghe hai gã bài trừ Do Thái nhìn mặt đã thấy ngu xuẩn trong quán cà phê Josty. Ấn tượng ban đầu như thế. Ông hình dung tình cảnh ở đây tồi tệ hơn nhiều. Quả thật ông thích Berlin, thích cả phố Heide, đã mấy lần ông cố thuyết phục Dora cùng ông đi nhà hát, một phụ nữ trẻ như cô phải giao tiếp với nhiều người. Ông hỏi về gia đình cô, vì sao cô đến Berlin, thời kỳ trước Franz như thế nào. Một lần, lúc cô có việc ra ngoài chốc lát, ông vỗ vai Franz vẻ thán phục, cô gái của cháu thực sự tuyệt vời, rất biết lo toan, rất gan dạ, rất giản dị.

Ông chú Franz ngủ đêm ở một nhà trọ có ăn sáng bên hồ Wannsee, nên không đến trước mười một giờ sau bữa sáng thứ hai. Ngày thứ ba, cũng là ngày cuối, không khí vui vẻ nhất, họ viết chung một bưu thiếp cho mẹ Franz, ý kiến chốt lại của người chú không quá tệ, theo ông, Franz sống ở Zehlendorf rất tốt. Nhưng vẫn cần cân nhắc chuyện ra đi. Buổi tối Dora đưa ông đi nghe đọc sách của Karl Kraus, người mà ông tiến sĩ không đánh giá cao, nhưng chẳng hề gì, Dora rất phấn khích, cô cực kỳ vui vẻ, cả trên đường về, đến tận nửa đêm trong một nhà hàng vắng người, ở đó cô và người chú duyệt lại lần nữa các phương án.

Khi chia tay, ông chú nói: Cháu biết là cháu không thể ở lại đây. Chú rất hiểu ý cháu không muốn, nhưng tiếc rằng không thể khác được. Cháu tự nhìn mình đi, ông nói, nhìn Dora đi, cô ấy không nghĩ khác chú. Nói cho cùng, đây là khoảnh khắc nặng nề, ông chú đầy vẻ phiền muộn, trong lúc Dora chỉ gật đầu, thất vọng, kiệt quệ, nhưng cũng nhẹ lòng, như Franz cảm nhận, tựa như cô vừa phát hiện ra mình đang chịu gánh nặng gì với Franz.

Ở phút cuối cùng ông tiến sĩ đã hứa. Ông sẽ rời bỏ Berlin, đầy luyến tiếc, với một hy vọng cỏn con. Có thể họ chỉ phải đợi. Phải kiên nhẫn, em kiên nhẫn vô hạn, Dora nói, rồi giải thích ngay, tại sao không thể đợi thêm nữa, tại sao cô không nề hà đi bất cứ đâu. Trước đó cô vừa gọi điện cho Judith. Lần nào cũng thế, mỗi lần gọi điện cho Judith cô lại thêm dũng cảm, cô nói, ở đâu cũng thế, Judith cũng bảo vậy, và gửi lời chào Franz thắm thiết.

Robert viết thư và gửi một thanh sô cô la. Lẽ ra phải trả lời ngay và cảm ơn, nhưng trong tình trạng bấp bênh này, ông chẳng đầu óc đâu mà trả lời. Gần trưa tuyết rơi nhẹ, sau đó mặt trời ló dạng, ông liều đi ra hiên, không lâu, ngơ ngẩn hơn là phiền não, cảm giác vô dụng ngày càng tăng.

Sáng sớm hôm sau ông thu xếp giấy tờ. Ông nằm trên giường, chưa tỉnh hẳn, và ông hỏi cô, nói chính xác những thứ ông cần, vở ghi chép, thư từ, các tờ rời… Dễ chịu, cô cứ lẳng lặng thực hiện. Cô hơi ngạc nhiên vì bỗng dưng có việc này, nhưng cô vẫn làm. Ông có thể nghe tiếng cô lục tìm, tiếng giấy loạt soạt, tiếng ngăn kéo đóng mở cách nhau vài phút. Ông có hai truyện trên giường, đã kiểm tra lại, mọi thứ khác vứt đi cũng được. Toàn thứ vớ vẩn, ông nói, thỉnh thoảng người ta phải vứt bớt vài bao cát cho nhẹ khinh khí cầu. Khi dồn thành một đống mới thấy nhiều hơn có thể tưởng tượng, mất thì giờ đến khó tin. Dora quỳ trước lò sưởi đỏ hồng, ném từng tờ, cô luôn phải dừng đợi chốc lát để không làm tắt lửa, trong khi ông ngắm lưng cô uốn cong, đôi chân trần, lòng bàn chân của cô. Mãi đến khi đốt xong cô mới hỏi lý do. Như thế có tốt không, ý em là như thế có tốt cho anh không? Và ông nói, có, anh nghĩ đó là một kiểu tẩy trần, nhẹ cả người, cho dù phần lớn những thứ cần đốt không có ở đây, những quyển nhật ký ngày xưa để ở chỗ M., và phần còn lại trong phòng ông, ở nhà cha mẹ.

Đêm đến họ trò chuyện, Dora sẽ làm gì khi ông vào an dưỡng đường. Cô sẽ ở gần ông, thuê một phòng, đến thăm ông, ở một vùng nhiều rừng, nơi người ta có thể dạo chơi và tận hưởng ánh nắng xuân trên một chiếc ghế băng. Cô nói, cô đã thấy vui vui, ông chú rất ủng hộ đi Davos nhưng cô không quan tâm, cô sẽ vui từng ngày. Lúc này, trong bữa sáng, ông muốn nói rằng ông đang suy ngẫm một truyện mới, chưa cụ thể lắm, giống như đêm qua, khi cô đã thiếp đi từ lâu, một dạng tổng kết, lại một truyện về thú vật, về âm nhạc, hát ca, và mọi thứ liên quan với nhau ra sao. Có thể cô sẽ coi đó là một dấu hiệu tốt, ông nghĩ, và quả thật cô rất vui khi thấy ông đã có kế hoạch, cuộc sống tiếp diễn, thậm chí có thể ở Praha, là một cái tên khó chịu nhưng cứ nói ra cho có chút thay đổi, và nếu đến mức cùng cực thì ông cũng cùng cô đi Praha.

12

Hầu như đã chắc chắn họ phải sẽ rời Berlin, dẫu vậy họ vẫn tiếp tục có những khoảnh khắc đẹp, chiều chiều, khi cô vào giường với ông, khi ông ăn, ánh mắt ông nhìn, sự hàm ơn của ông, mà lẽ ra cô mới là người hàm ơn, đối với bàn tay, đôi chân ông, thật vậy, vì chúng luôn tìm đến với cô, ở Müritz, trong những buổi chiều đầu tiên. Cô không muốn coi nhẹ những ngày này chỉ vì Franz và cô có thể phải đi khỏi đây, vì đó là những ngày bên ông, là cuộc sống chung. Cô không thích ra khỏi nhà, nhưng gần chỗ họ chẳng có gì nhiều, cô phải đi xa, lần nào cũng sợ không may xảy ra chuyện gì, sau một tiếng, cô quay về, và nghe tiếng ông, âm hưởng giọng ông, cô biết có chuyện gì không.

Từ vài hôm nay ông ho khủng khiếp, chưa bao giờ như vậy. Quả thật cô vẫn chưa quen chứng ho của ông, và bây giờ cô phải làm quen, đó là những cơn ho thực sự, đôi khi kéo dài hàng tiếng, sáng sớm hoặc chiều tối. Franz luôn xua cô đi vì ông dùng ống nhổ, không muốn cô nhìn thấy lúc đó, và hình như ống nhổ lúc nào cũng đầy. Có lần cô hỏi và cũng đã nhìn thấy một chút, và ông gần như nổi cơn thịnh nộ. Nhiệt độ liên tục quanh mức 38 độ, nhưng không vì thế mà ông sợ, ông nói, ông nằm ngoài hiên sưởi nắng và lo sẽ vào an dưỡng đường.

Họ vẫn chuẩn bị tinh thần có thể đi Davos. Franz hỏi liệu họ có nên cùng đi Praha. Họ cũng thoáng tính đến một an dưỡng đường ở Wienerwald. Gia đình cố gắng hết sức để tìm cho ông một nơi thích hợp. Franz, như mọi khi, băn khoăn chuyện giá cả, nhưng cô gạt đi. Anh không xứng đáng được như thế sao? Đối với em, anh xứng đáng được tất cả. Mỗi sáng, khi thức dậy, cô suy nghĩ lâu, hôm nay mặc gì cho ông nhìn, cô đứng trong phòng tắm, thoa chút son, chỉ vừa đủ để ông không nhận ra.

Franz hỏi cô ước gì nhân dịp sinh nhật. Ông ho đến nỗi hàng mấy phút không nói được, ngay cả khi đang đi lại, vì khi trầm trọng thì ông đứng dậy và cố đi lại, chậm chạp, từng bước nhỏ, trong khi vẫn ho quằn quại. Ông phẩy tay, họ sẽ bàn tiếp vào lúc khác, tỏ ý đây chỉ là chuyện nhỏ, cố mỉm cười, nhưng chỉ tạo ra nét mặt méo xệch.

Ông ho đến tận nửa đêm, do đó họ mệt rũ suốt hôm sinh nhật. Nhưng cô mặc chiếc áo dài xanh lục đậm vì ông luôn nói, đó là Müritz. Ông nói, trong chiếc áo dài này cô hấp dẫn xiết bao, khiến ông nghĩ đến mẹ cô, vì không có mẹ thì không có cô. Ông chiều cô khi cố ăn, muốn cô tự đi mua hoa cho mình, và buổi trưa cô đã ra khỏi nhà để mua một bó lan chuông. Khi cô quay về, ông mệt nặng. Ông ngủ, cô ngồi bên giường, đặt tay lên vầng trán nóng bỏng, ông bắt đầu mê sảng, nhưng trông không có vẻ thực sự đau đớn, rồi tỉnh một lát, mỉm cười, sau đó lại lịm đi.

Họ cần gấp một thầy thuốc. Cô sực nhớ ra cách đây mấy năm từng quen một bác sĩ ở Breslau, cũng như cô, người ấy đến Berlin và làm tại Bệnh viện Do Thái. Bác sĩ Nelken. Không gặp được ông bác sĩ, cô nhắn để ông ta gọi lại. Hai tiếng sau, không thấy gọi lại, cô thử lần nữa và gặp may, à, Breslau, ông bác sĩ hứa sẽ khẩn trương.

Trông Franz thật đáng sợ. Ông nhỏm dậy mặc com lê để tiếp bác sĩ, kể bệnh trạng, và được thăm khám. Không làm được gì nhiều. Ông bác sĩ nhỏ người, xương xương, những điều ông ta nói họ đã biết từ lâu. Họ phải đi khỏi đây. Tôi cũng nghĩ thế, Franz đáp. Lúc này, nom ông thật xa cách với cô, ông đứng tựa bậu cửa sổ với nụ cười như thể muốn nói với bác sĩ Nelken, xin lỗi, bác sĩ đến đây chỉ phí thì giờ.

Bác sĩ Nelken không chịu nhận tiền công, vì vậy hôm sau Franz gửi tặng ông một cuốn sách về Rembrandt. Cô đem sách ra bưu điện, đứng xếp hàng lâu, tư lự và buồn bã. Franz không hẳn trách móc vì cô lại gọi bác sĩ, nhưng cô thấy rõ rằng ông không hài lòng. Cả khi cô kể chuyện với Elli qua điện thoại, hình như ông cũng không hài lòng, cô đứng dưới sảnh và chỉ nói những gì mọi người đều biết, hỏi chuyện tìm an dưỡng đường đến đâu, gia đình gõ cửa khắp nơi, nhưng đáng tiếc họ chưa tìm ra giải pháp.

Mình có thực sự cùng nhau đi Praha? Về phần Franz, ông hầu như đã quyết định xong, sẽ đến đó vài hôm, trước khi đi tiếp Davos, kế hoạch vẫn thế. Không có cô ông sẽ không đi đâu nửa bước, ông nói, mặc kệ gia đình muốn hiểu sao thì hiểu, mặc cho trước đây mấy tuần ông còn phản đối. Họ nói chuyện nhiều về thành phố, về những gì ông muốn chỉ cho cô xem, nếu ông đủ sức. Ông lạc quan, nhà xuất bản đã gửi hợp đồng cho cuốn sách mới, có cả tiền tạm ứng trước khi có sách, một số tiền không thể tin nổi, ông quả quyết, và niềm vui ấy của ông kéo dài mấy tiếng liền.

Chuyện Praha, cô không chắc lắm.

Lần đầu tiên Judith đến phố Heide, cô đem theo kẹo sô cô la mừng sinh nhật muộn, và cố gắng khích lệ hai người. Franz nằm ngoài hiên, phàn nàn vì mọi người biết nhau quá ít. Dora và ông đã không tận dụng thời gian, và bây giờ họ sắp ra đi, mỗi người một phương trời. Judith không đi vào tháng Năm, mà sẽ đi ngay cuối tháng này. Franz đưa cô địa chỉ vợ chồng Bergmann, phòng khi cô cần giúp đỡ hoặc muốn nói chuyện bằng ngôn ngữ cũ[(9)][14]. Ông hy vọng nhận được thư của Judith. Giống nhiều người khác, ông chỉ mơ về Palestine. Còn chị thì được đến đó thực sự, xin chị đừng quên chúng tôi. Giọng ông buồn bã và nghiêm trang, rồi thì ông lại đùa, sắp tới ông sẽ giàu to, sẽ khá nổi tiếng, nếu ông không lầm, ít ra cũng phải nổi tiếng ngang Brenner.

Nhà xuất bản chưa gửi tiền đến, nhưng ông đã bắt đầu chi từ đó. Ông viết cho Elli nói sẽ trang trải nợ với gia đình, nhắc đến một món quà lớn cho mẹ. Ông cần một ít cho người giúp việc và Dora. Ở Praha họ sẽ cùng nhau mua sắm, ông hứa, một chiếc ví cầm tay mới, một cây bút máy mới để viết, cô muốn gì được nấy.

Cô ước không bao giờ phải viết cho ông nữa.

Thời gian đầu cô sẽ không đi Praha. Họ đã bàn chuyện đó, ở nhà cha mẹ ông không sẵn chỗ, buộc cô phải ra khách sạn, chưa biết bao giờ ông nhận được chỗ tại an dưỡng đường, khi nào biết thì cô sẽ đến với ông. Chưa bao giờ cô thấy ông u ám như hôm nay. Càng ngày ông càng thấy nặng nề hơn, rời bỏ Berlin, cuộc chia ly sắp tới, hết tự do. Anh sẽ là gì khi thiếu em? Em có thể giải thích cho anh biết không? Ông nói, đã lâu ông không thổ lộ rằng cô có ý nghĩa gì đối với ông, mặc dù đâu phải thế. Họ ngồi ở tràng kỷ. Cô nghĩ: một lần này nữa thôi, cô dựa đầu vào vai ông, ôi, đồ ngốc, đồ ngốc của em.

Max sẽ đến trong ngày mai. Họ đã nói chuyện điện thoại với nhau, chưa hẹn chính xác ngày giờ, nhưng Max luôn sẵn sàng đón Franz. Mọi thứ vẫn còn nguyên vị như khi người ta đặt chúng ở đó, trên tràng kỷ một cuốn sách mở, kim chỉ của cô, áo vest của ông trên lưng ghế, quần áo trong tủ, các vở ghi chép của Franz. Buổi tối bên ngoài trời vẫn còn sáng, người ta cảm thấy mùa đông đang lui bước, họ mơ đến tiết xuân, đến những chuyến đi đâu đó mà có khả năng ông sẽ không bao giờ thực hiện được nữa, kể cả khi thời tiết thuận lợi, nếu như hiện tại đang chưa phải lúc thuận lợi, nhưng thực ra, lúc này chắc chắn vẫn đang thuận lợi.

Chú thích:

[7]: note: "2. Ngày nghỉ theo lịch Do Thái, bắt đầu từ lúc mặt trời lặn hôm thứ Sáu và kết thúc lúc bắt đầu tối trong ngày thứ Bảy, tuyệt đối không được làm việc..sup"

[8]: note: "3. Kẻ thù của nhân dân (En Folkefiende) là tên một vở kịch phê phán xã hội của kịch gia Na Uy Henrik Ibsen (1828-1906), khi diễn ở Đức do Eugen Klöpfer thủ vai chính..sup"

[9]: note: "4. Zionism hay Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái là tên gọi một hệ tư tưởng hoặc cũng là phong trào gắn liền với tư tưởng đó, ra đời cuối thế kỷ 19 với mục đích kiến thiết, biện minh và bảo toàn một nhà nước dân tộc độc lập của người Do Thái (Israel) trên đất Palestine..sup"

[10]: note: "5. Schatzkästlein des Rheinischen Hausfreundes là sách sưu tập của nhà thơ Johann Peter Hebel (1760-1826), gồm các truyện ngắn và giai thoại trong bộ lịch 1803-1811..sup"

[11]: note: "6. Khu dân cư Do Thái với tài sản công cộng và cấu trúc dân chủ cơ sở, xuất hiện lần đầu tiên năm 1910. Hiện nay có chưa đến 2% dân Israel sống trong các kibbutz..sup"

[12]: note: "7. Tác phẩm cuối cùng của nhà văn Nga Fyodor Dostoyevsky (1821-1881)..sup"

[13]: note: "8. Ludwig Hard (1886-1947): một nghệ sĩ trình diễn Đức, nổi tiếng bởi những chương trình văn chương do ông ghép lại từ các tác phẩm của Heine với các thi sĩ kinh điển và hiện đại khác..sup"

[14]: note: "9. Tiếng Hebrew..sup"