III ĐI - 1 -
1
Max hẹn đến vào buổi chiều muộn, do vậy ông vẫn còn thời gian để làm việc. Ông không khỏe, nhưng mấy hôm nay ông làm việc không ngơi, một câu chuyện về tiếng hát, hay đúng hơn là về tiếng kêu chút chít, vì ông đang viết Dân chuột. Gần như lại là một dịp may nữa, trong căn phòng này, bên cạnh Dora đang ngồi trên tràng kỷ và để ông làm việc, có lẽ là lần chót, vì hiện tại tất cả dường như chỉ chấp nhận những lần chót. Dora nói cô thích cái tên đó. Josephine. Đó là anh? Một ca sĩ chuột. Bởi tới lúc này thì cô đã ngộ ra, người ta viết về thú vật và chỉ về thú vật, vì chúng chỉ là ví dụ, giống như cái Tôi cũng chỉ là một ví dụ, vì xét về nghĩa nào đó thì lần này ông viết về chính mình. Không phải chuyện một nữ ca sĩ. Ông quan tâm đến cái nhìn của đám đông, của khán giả đang bị hút hồn bởi nghệ thuật của nữ ca sĩ ấy trong khi mỗi người biết rằng nghệ thuật ấy chẳng có ý nghĩa gì to lớn, ngay cả sau khi ca sĩ đã chết đi, vì một ngày nào đó giọng ca của Josephine sẽ tắt ngấm. Ông muốn hoàn thành trước khi đi Davos. Không nghĩ gì xa xôi hơn, vì cho đến nay Davos chỉ là một cái tên, và chỉ nghĩ đến lúc phải đi Praha ông đã đủ sợ rồi. Dora ước gì được đi theo ông, cô ghen tị, hơi bực với Max, nhưng họ cũng chỉ đi với nhau vài hôm thôi. Hơn nữa, cũng phải có người trông nhà, Dora có nhiệm vụ ở Volksheim, còn với Max đó chỉ là một chuyến đi bình thường.
Buổi tối họ không nói chuyện nhiều nữa. Max mệt vì đi đường, phải đến ngay một nơi hẹn gặp, không phải Emmy, mấy tuần qua ông không nghe tin gì từ cô nữa. Ông đem đến hai va li to, chuyển lời chào và nỗi lo âu quen thuộc, có thể còn nhiều hơn thế nữa, Max có vẻ sửng sốt và rất thương cảm với Dora vì sự việc kết thúc như vậy. Tôi rất lấy làm tiếc cho hai người. Dora òa khóc trước mặt Max. Tính ông vốn vẫn hay động lòng như mọi khi, và hai ngày sau đó hầu như ông không xuất hiện nữa. Dora bắt đầu gói ghém, trong khi ông tiến sĩ viết thư trấn an cha mẹ, cảm ơn về gói quà. Bà giúp việc đã sẵn sàng nhường phòng cho ông, ông phải cảm ơn, không, tối thứ Hai, người hầu của ông chú không phải ra ga đón ông, và nhớ nhắc Robert ở lại Praha, rõ ràng là gia đình đã làm cho tất cả mọi người điên đầu. Cứ vài phút Dora lại hỏi phải làm gì với thứ nọ thứ kia, cô đóng đồng thời một lúc ba va li, lấy đồ này ra, gói thứ khác vào, quần áo, giấy tờ, những bộ đồ lớn mà ông mặc khi mới đến Berlin, găng tay, túi ủ ấm chân. Một lần ông nhắc cô nghỉ giải lao. Ở đây này, ông nói, cứ như cô không biết ông đang ở đâu, cô quay sang nhìn ông, với ánh mắt mà ông yêu mê mệt, chỉ thiếu điều vỡ tim.
Tối thứ Bảy trôi qua, rồi sáng Chủ nhật, ông viết vất vả nhưng cũng được đến hai trang. Những bữa ăn cuối cùng, những vòng tay ôm cuối cùng, cho dù hai người tỏ vẻ như cuộc sống của họ không hề thay đổi. Thậm chí Dora còn đi hẳn hai tiếng đến Volksheim, đón một nhóm trẻ con mới tới, rồi vội về, lao vào vòng tay ông, chưa bỏ áo choàng, hệt như ngày nào ở Müritz. Sau đó Max đến. Họ trò chuyện về Davos, nhân tiện nói đến truyện ngắn mới mà ông sẽ đọc cho nghe ngay khi có dịp, vấn đề chỉ là ở đâu và bao giờ. Mọi người vẫn dự tính chắc chắn đến Davos, và theo những suy tính mới nhất thì ông chú sẽ đưa Franz đến đó, và thế là họ chia tay để đi Davos, khi mùa xuân bắt đầu, chính là thời điểm đẹp nhất trên núi, theo lời Max là người duy nhất từng ở Davos, và Dora nói, ôi bao giờ cho đến mùa xuân, vì bên ngoài tuy có nắng nhưng lắm gió và lạnh.
Cuộc chia tay nặng nề và khó khăn, mãi không dứt, trong bữa sáng, trên xe ra ga rồi một lần nữa cho đến khi tàu hỏa chuyển bánh. Họ thức gần như trắng đêm nên Dora xám ngoét, cô nằm trong vòng tay ông, câm lặng, khiến ông tưởng cô đã ngủ, nhưng cô không ngủ, lo lắng đủ điều về chuyến đi, nói đến lần thứ một trăm là chỉ vài ngày thôi, rằng cô hạnh phúc xiết bao với ông, hạnh phúc từ giây phút đầu tiên. Lên đến sân ga Anhalt cô còn nhắc lại điều đó, rồi bỗng dưng cô chạy mất và quay lại với tờ báo và hai chai nước, đột nhiên ngơ ngẩn vì quên mất điều quan trọng nhất, làm sao em lại có thể quên nói với anh điều quan trọng nhất. Nhưng bây giờ thì quá muộn. Max và ông phải vào khoang ghế ngồi, đã có hai hồi chuông, cô đứng trên sân ga và vẫy, cho đến khi ông không còn thấy cô nữa.
Giờ đầu tiên, ông chập chờn nửa mơ nửa tỉnh, nghe Max nói một vài câu về Dora như sau một tấm màn, không an ủi, không trí trá về khả năng cải thiện thể trạng của ông, mà về niềm hạnh phúc Max đã được chứng kiến, không chỉ ban nãy ở ga, khi cô quằn quại vì đau khổ. Rốt cuộc khi tàu sắp đến Dresden thì ông thiếp đi, không sâu, cái gì cũng nông choèn và rỗng tuếch. Những lúc thoáng tỉnh dậy, ông bắt gặp ánh mắt của Max đang lo ngại sờ trán ông và hứa giúp ông đủ mọi chuyện, ngay khi Praha đáng ghét hiện ra sau khúc ngoặt cuối chặng.
Tất cả mọi người tụ họp khi Max đưa ông về, Ottla, Elli, Valli, cha mẹ, bà giúp việc và ông chú. Ông cảm nhận được, phần nhiều từ phía cha, rằng ông là nỗi thất vọng lớn của gia đình, người ta lo lắng và đồng thời cũng ngao ngán, Berlin chỉ tốn thì giờ và tiền của, và bây giờ người ta có thể mục sở thị mọi hậu quả. May mà ông có Max bên cạnh, vì từ xưa đến nay Max vẫn có tác động trấn an đối với cha mẹ, thực tế họ chỉ nói chuyện với Max, hỏi han về chuyến đi, mời ông ở lại ăn cùng, và Max dài dòng từ chối. Max muốn đi cho xong, đã muộn rồi, ông nói, Franz phải đi nghỉ, và mãi đến lúc đó, tựa như được hóa giải khỏi tình trạng đông cứng, người ta mới bắt đầu chú ý đến Franz. Ông chú khuân đồ đạc lên phòng mới, bà giúp việc xin thứ lỗi vì sự bất tiện, còn Ottla âu yếm vuốt tay ông và hỏi thăm Dora.
Chưa bao giờ ông nghĩ đến chuyện phải về Praha lần nữa. Ông luôn sợ điều đó, nhưng không phải trong khung cảnh này. Ông chỉ mừng rằng Dora không nhìn thấy ông, trong cái buồng quá chật chội của bà giúp việc, ngồi bên chiếc bàn hẹp và viết cho cô, trong không gian im ắng, vì mọi thứ đều im ắng đến khó hiểu, như bị bóp nghẹt thế nào đó, tựa như cả nhà chỉ đợi ông rời khỏi đây đi Davos mà thôi.
Tiếc rằng ông không chịu nổi quá vài tiếng. Đầu giờ chiều, trước khi đi nằm, thường thường ông đã khá kiệt lực vì cơn sốt cướp đi của ông mọi sức mạnh cường tráng nhất. Hằng ngày Max qua thăm, vừa làm ông phấn khích vừa làm kiệt quệ, họ trò chuyện về Emmy nay đã bỏ Max, về tình cảnh vợ chồng Max. Ông viết thư báo cho giám đốc an dưỡng đường Davos và ông chú sẽ đưa ông tới đó, rằng ông lấy làm tiếc không thể đi được, cơn sốt không cho phép ông ra khỏi giường. Ông viết cho Dora: Anh vẫn ra khỏi giường, dù chỉ được vài tiếng, như em đã biết từ hồi ở Berlin. Người ngoài nhìn thoáng qua thì có thể coi cuộc sống ấy giống hệt như ở Berlin, nhưng nếu quan sát kỹ, vắng em, thì hoàn toàn trái lại. Berlin là thiên đường, ông viết. Làm sao anh lại có thể để người ta đuổi anh khỏi chốn đó? Dora cũng viết một bưu thiếp vội vã, trên chiếc ghế băng ở ga, và cho đến tối còn thêm hai bưu thiếp nữa, cô bình tĩnh một cách bất ngờ, nhưng cũng không hẳn thế, mà giữa hai dòng chữ, cô tựa như vừa nói vừa cầu nguyện.
Hôm sau ông viết mấy câu kết, dường như chúng đã có sẵn từ lâu, như khi người ta nghe được gì đó rồi chép lại dần, như một giai điệu ngoài ngõ, khi có ai đó huýt sáo và cho những người đi qua quyền mặc nhiên được huýt theo trên đường về nhà. Truyện này là một trong những truyện dài nhất của ông. Ông quá hiểu rằng nó là một dạng lời bạt về chính ông và công việc của ông, về nỗ lực trở thành nhà văn nhìn chung là thất bại của ông, về sự phù phiếm của nghệ thuật, vốn song hành cùng sự phù phiếm của cuộc đời. Tối đến, ông mất tiếng. Thực ra ông chỉ khản giọng, nhưng cũng có thể tệ hơn, ông chỉ còn phát ra tiếng chút chít như Josefine, và không rõ lý do gì mà ông thấy thế cũng hợp lý. Đến bữa, chẳng mấy chốc mọi người đã nhận ra, mẹ ông hỏi lý do, nhưng ông không có lý do gì, và quả thực, sáng hôm sau giọng ông có vẻ lại bình thường như cũ.
2
Từ khi ông đi khỏi, Dora gần như chỉ ở Volksheim, chăm sóc lũ trẻ mới đến, cùng Paul kê lại bàn ghế phòng ăn và quay về phố Heide trước khi quá muộn. Paul thấy cô đổi khác. Cô già đi, trầm lặng hơn, đó là ấn tượng của anh, mặc dù từ Müritz đến nay mới qua nửa năm. Một buổi tối của những hôm đầu, trong một quán hàng, cô kể nhiều, về Davos, cô lo lắng và nhớ ông xiết bao. Trước đó Paul không biết cô sẽ đi Davos. Cô cũng chưa tìm hiểu chính xác Davos nằm đâu, cô thú nhận đã sợ hãi khi thấy bộ dạng thảm hại của Franz lúc khởi hành. Cũng có những chuyện cô không kể hết với Paul. Chẳng hạn như ban đầu cô hy vọng Franz bỏ quên thứ gì đó và cô lục tung mọi thứ lên, tìm đi tìm lại khắp các phòng. Chẳng lẽ lại kể cô đã hôn những lá thư của ông? Sáng sớm sau hôm chia tay khủng khiếp, cô chạy ngay ra hòm thư, vì có thể ông đã viết thư ngay khi ở trên tàu, nhưng không phải thế. Cái gì cũng nặng nề, khi cô thức giấc, khi cô bày đồ ăn sáng, cho ông và cho mình, hai đĩa, dao, nĩa, khi cô không biết giọng ông như thế nào nữa, rồi cô nhớ lại được, nếu thật cố gắng thì cô cũng lờ mờ nhớ được tiếng ông cười. Hồi mùa hè, sau khi ông rời đi, hàng tuần liền cô còn nhớ rõ từng chi tiết nhỏ nhất về ông, nhưng lần này cô hoàn toàn rối trí, cô quên ví tiền, cô giật mình khi chuông điện thoại réo dưới sảnh, và chạy ra hòm thư vào những thời điểm vô cùng phi lý.
Lá thư đầu tiên còn tương đối dài. Ông viết về chuyến đi, những giờ phút nửa mơ nửa tỉnh, lúc về đến nhà cha mẹ, ban đầu còn vui sướng nhưng rồi ông than vãn họ chẳng có gì để nói với nhau. Cô có thể hình dung ra mọi chuyện. Có thể hình dung ra cô em gái Ottla tốt bụng, Elli và bà mẹ, và hy vọng là họ tôn trọng nhu cầu được yên tĩnh của ông. Max đến hằng ngày, Robert cũng ghé qua một hôm và gửi lời chào cô. Truyện ông đã viết xong, nhưng cơn sốt không hạ, giọng ông khản đặc, chắc cô sẽ mất thì giờ để làm quen. Ông viết rằng ông mơ thấy cô, hầu như hằng đêm, cho dù sáng dậy chỉ còn nhớ lờ mờ. Nhưng cô hiện diện, nâng giấc ngủ cho ông, nếu ông chợp mắt được, vì thường thường ông thức chong chong đến sáng. Cũng sắp đến mùa xuân, ở Praha không khác gì Berlin. Sáng nào em gái cũng đọc cho ông nghe tin tức báo đăng về Berlin. Ottla gửi lời chào thân tình. Sắp rồi, ông viết. Anh hy vọng em không giật mình khi thấy anh. Em hỏi bà Busse xem có gửi lại một số đồ đạc được không, nếu không tìm được chỗ nào khác?
Cho đến lúc ấy cô không nhớ đến bà Busse. Ban đầu họ không để ý đến nhau, nhưng bây giờ cô nhận ra bà rất thân mật và đồng cảm. Mới hôm qua, bà đến trước cửa và hỏi thăm Franz. Tiền nhà đã trả đến hết tháng Ba, nhưng theo bà Busse thì Dora chẳng việc gì phải lo, lại càng không vì mấy thứ đồ đạc, ở đây có một tầng hầm, nhà thì rộng và có khối chỗ, cô thậm chí còn chưa thông thuộc hết. Dora mời bà vào phòng một lát, hai người uống trà và trò chuyện về những người đàn ông vắng mặt của họ, về bệnh cúm Tây Ban Nha khủng khiếp cướp đi hàng triệu mạng sống, vào những tuần cuối của chiến tranh và mùa đông tiếp theo. Ốm đến ngày thứ năm, tám giờ sáng, thì ông nhà tôi ra đi, bà Busse kể, và Dora nhắc đến Franz cũng bị cúm, một thời gian dài không ai dám chắc ông có qua khỏi hay không. Thế nào đó mà họ nói qua chuyện viết lách, vì đó cũng là một điểm chung của hai người đàn ông, mặc dù Dora chưa đọc dòng nào của ông Busse và bà Busse cũng chưa đọc Franz bao giờ. Có một lúc bà Busse gọi Dora là cô bé tội nghiệp, rồi bà lại muốn biết tại sao cô và Franz chưa thành hôn; chừng nào hai người còn sống thì chẳng sao, nhưng một quả phụ sẽ suy tính khác. Hay cô phản đối hôn nhân? Chồng tôi rất nghiêm khắc về mặt này, may mà ông ấy không biết thời thế đã đảo điên ra sao. Cháu có nét gì đó rất Do Thái, bà nói, ừ, cái mũi, bà nghĩ vậy, vì Dora rất xinh, nói chung phụ nữ Do Thái rất xinh.
Cô đến gặp Judith. Judith cho rằng bà Busse kỳ thị Do Thái, và người ta không nên nhận trợ giúp từ một người như thế. Nhưng tiếc thay, bàn chuyện đó cũng vô ích, vì Franz đã viết thư báo chuyện đi Davos không thành, người ta không cho phép ông nhập cảnh. Ông không nói rõ lý do, nhưng tạm thời không thể rời khỏi Praha, bây giờ phải tìm một trại điều dưỡng từ đầu, họ sẽ không sớm gặp lại nhau. Dora nói, chờ đợi làm cô phát điên, dù ông mới xa cô chỉ một tuần, còn hồi mùa hè ông vắng mặt tận hơn sáu tuần. Judith luôn miệng kể về anh bác sĩ, và dĩ nhiên anh này muốn quyến rũ cô hoặc đã quyến rũ cô từ lâu rồi, song cô không tiết lộ gì cụ thể. Cô đã mường tượng cảnh mình là nông dân, cầm xẻng đứng trên sa mạc, bên cạnh anh Fritz kia. Cô đùa giỡn với hai cái tên, F và R, tên như vậy rõ ràng là may mắn, dù chuyến đi Palestine chưa hề chắc chắn, vì xin giấy phép không hề dễ, và tiếc thay Fritz đang có gia đình. Phải đợi thôi, Judith nói, giọng rất trầm tư, có lẽ mình sống lầm cuộc đời, không giống cậu, ngay cả khi cậu đang có nỗi lo lớn, nhưng cũng chính điều đó khiến tớ ghen tị với cậu.
Các buổi tối hết sức nặng nề. Khi cô viết thư cho ông và cảm thấy không được gần ông, không có mặt nơi mình cần có mặt, không được an ủi ông. Có lần ông kể về giấc mơ. Một lũ cướp đường bắt cóc ông ra khỏi nhà ở phố Heide và nhốt vào nhà kho ở một sân sau, và cứ như chưa đủ tệ, chúng trói tay và nhét giẻ vào mồm ông, bỏ ông một mình trong một góc tối của nhà kho, khiến ông tin mình đã hết đời, nhưng cũng có thể không, vì đột nhiên ông nghe tiếng cô nói, giọng nói tuyệt diệu của cô ngay gần đó. Ông hấp tấp tìm cách cởi trói, thậm chí còn lôi được giẻ trong mồm ra, nhưng đúng lúc đó thì bị bọn cướp phát hiện và chúng lại bịt mồm ông lần nữa. Có đúng là một giấc mơ tuyệt vọng không, chính bởi vì nó như thật? Ông ước gì được mơ khác về cô. Xét về khía cạnh nào đó thì ông liên tục mơ về cô, khi nằm trên giường buổi chiều, khi ngồi cạnh cha mẹ buổi tối, khi ông đi dạo. Hôm qua ông đi được nửa đường lên Thành Cổ Praha, một mình, mà cũng không một mình, vì ông liên tục chỉ cho cô xem gì đó, trong tâm trí thôi, tựa như cô đang ở Praha trong vài tiếng để cùng ông đi qua những ngõ nhỏ thân quen.
Cứ thế, cô khắc khoải sống từ thư này đến thư sau. Sáng sớm cô đợi thư của tối qua và chiều về thì nhận được thư của sáng sớm. Thường thường cô đứng đọc ngay, không cởi áo choàng, để không phí phạm giây nào. Cô đọc thư trên đường ra tàu, vì vậy để lỡ vài chi tiết và rốt cuộc cô có hai bức thư, bức thư đầu như một điệu nhạc, và bức thư sau bằng câu chữ. Vẫn chưa tìm ra trại điều dưỡng mới, và rồi lại tìm được, gần Vienna, đi mất chừng một tiếng, theo lời ông chú thì trại đó nức tiếng không kém gì Davos. Gần như đã có quyết định rồi, hộ chiếu của ông đang ở chỗ nhà chức trách, Dora cũng nên xin giấy phép, ông thoáng nhắc đến hy vọng rằng cô sắp đến bên ông. Vâng, Vienna, hay quá, cô trả lời, như thể xưa nay cô chỉ mơ ước đến Vienna. Sự thực thì họ có thể sẽ không được thấy Vienna, nhà chức trách Áo vẫn có thể từ chối giấy phép. Em biết nói gì đây, cô viết, vì đó không hẳn là cớ để vui mừng. Những điều làm cô vui đã diễn ra ở ba căn hộ cũ của họ rồi, và cô lại kể cho ông nghe, đêm giao thừa trên giường, cô bé với con búp bê, lạy Chúa, những lần chuyển nhà, vâng, đồ đạc, những chiếc bàn làm việc của ông. Trong kẽ tràng kỷ cô tìm được cây bút mà hẳn ông đã phải mất công tìm. Cô dùng nó để viết thư cho ông. Nét chữ cô đổi khác, cô nghĩ vậy, ngày càng giống chữ ông hơn, những nét uốn lượn, nghịch ngợm, nghĩ thế cô thấy trong lòng nhẹ nhõm, tựa như đó là minh chứng cho sự gắn kết giữa hai người, cho tinh thần sẵn sàng vô điều kiện của họ.
Cô nửa như còn đợi, nửa như đã sẵn sàng. Cô xin nhập cảnh Áo, chuẩn bị gói ghém, đồ mùa hè, hầu hết chỗ sách, tất cả những gì mà cô cho là không cần nữa. Có lẽ cô phải đến chỗ Judith ở vài hôm, tháng Ba đã sắp hết, nhưng cũng có thể mọi chuyện diễn ra nhanh hơn cô tưởng. Cô bắt đầu chia tay, đi gặp Paul, nói với mọi người ở Volksheim rằng cô không biết bao giờ hoặc liệu có quay lại hay không. Paul gợi ý cô để đồ ở tầng hầm nhà anh, nhưng cô lịch sự từ chối. Ngay cả khi Franz hồi phục phần nào thì cũng không chắc họ có quay về Berlin không. Kể cả khi ông khỏe như hồi mùa thu thì cũng phải cân nhắc, liệu Praha có tiện hơn, ở gần gia đình, hay về nông thôn, đi Schelesen hay những chốn nào đó mà ông từng đặt chân.
3
Ông chú đem về các tài liệu quảng cáo của an dưỡng đường mới. Nó nằm phía trên làng Ortmann, giữa vùng đồi núi, trải dài trên sườn dốc, nhìn bên ngoài là một khách sạn chỉn chu, bên trong rất hiện đại, có một phòng ăn lớn, phòng khách, phòng hòa nhạc. Mới cách đây vài năm, công trình này bị cháy trụi tận móng, nên không rõ các bức ảnh có phản ánh đúng tình trạng hiện tại như ông chú quả quyết hay không. Vì những lý do nào đó không rõ, ông chú khen trại này không tiếc lời và có vẻ giận khi ông tiến sĩ không phấn khởi về triển vọng mới ấy. Sáng nay ông đã viết ủy quyền cho mẹ đi lấy hộ chiếu, nhưng chắc chưa có tin trước cuối tuần, và điều đó khiến bà mẹ khá lo. Bà vui khi con trai ở nhà, nhưng ở đây quá chật chội, mọi thứ lộn xộn. Đã thế, đúng những lúc bất tiện nhất thì có khách, hầu như ngày nào Max cũng đến, lần khác thì Ottla với lũ con, buồn tẻ không có việc gì nên chúng làm náo loạn cả nhà; Robert cũng ghé qua, Elli đến cùng Valli, và Ottla lại đến lần nữa.
Như mọi khi, với Ottla mọi chuyện dễ xử nhất. Họ tìm được ngay tiếng nói chung, cùng mơ về nông thôn, hồi Ottla thử làm nông nghiệp ở Zürau và ông đến chỗ cô ở vài tháng. Anh còn nhớ chuyện chuột? Em đã đuổi chuột bằng mèo, nhưng biết đuổi mèo bằng gì? Thực tế, hồi đó Ottla và những người làm của cô bị đói, năm thứ tư sau chiến tranh, nhưng họ thường xuyên và thích nhớ lại thời ấy, ước gì được về chốn xưa khi ông khỏe lên, vào tháng Năm, khi ông rời an dưỡng đường, cùng với Dora, lúc ấy trời đã ấm lắm rồi. Anh đừng lo nghĩ gì cả, cô nói. Mặc dù chính cô lại có vẻ lo nghĩ, cuộc hôn nhân với Josef gặp rắc rối, anh hay đi xa, sống thu mình, thậm chí đối với Vera và Helene, khiến hai đứa nhỏ kêu ca. Đến thăm Franz, cô nằm cả vào giường ông và nhắm mắt, cho rằng như vậy dễ tư duy hơn, rồi cô chợt đứng bật dậy và đi, không quên hôn chia tay anh trai.
Mỗi lần Max đến, ông sẽ lập tức nghe thấy tiếng bạn mình nói chuyện với cha mẹ từ tiền sảnh. Từ nhiều năm nay, Max được coi như người nhà, ông được kính trọng vì nổi tiếng, có gia đình và sống một cuộc sống như cha Franz ưa thích. Ít nhất ông là người thành đạt, ông chu du, xuất hiện tại các buổi họp mặt, có thứ để khoe, hiệu sách lớn nào cũng có dăm bảy tác phẩm của ông, trong khi ông tiến sĩ liên tục ốm đau thì không đọ được. Max ngượng ngùng khi nghe so sánh kiểu ấy, ông thường có lời khuyên với cha mẹ Franz khi có chuyện này chuyện nọ, chẳng hạn sau vụ hủy đính hôn hoặc trong mùa thu vừa qua, khi Franz vờ viện cớ này nọ để đi Berlin, lại còn để đến với một phụ nữ Do Thái miền Đông. Họ sẽ quen dần thôi, Max nói. Một khi đã làm quen Dora, các định kiến của họ sẽ nhanh chóng bị xóa bỏ.
Họ chỉ nhắc qua chuyện bệnh tật, hoặc theo cung cách quen thuộc xưa nay, cứ coi như nó là khách, chỉ thỉnh thoảng ghé qua rồi lịch sự biến thẳng, nhưng bây giờ họ cùng nghi ngờ điều đó. Ông tiến sĩ đọc truyện Dân chuột, giọng khác hẳn, và luôn nghỉ giữa chừng, nhưng phản ứng đầu tiên của Max khiến ông sung sướng, Max khen nhiều, Dân chuột là một trong những thứ hay nhất Franz từng viết.
Trong thư gửi Dora ông nói chẳng có gì để kể về cuộc sống của mình trên giường, thỉnh thoảng có ai đó ghé thăm, hôm trước ông đã nhỏm dậy rồi lập tức phải từ bỏ ý định, dạo này ông viết ít, ông nhớ cô, ông đi lại trong những căn phòng ngày xưa, qua những lối quen ở Steglitz. Dora đang chuẩn bị rời căn hộ, cô đến chỗ Judith và thư nào cũng giục, vì cô muốn đi Praha, mỗi giờ trôi qua là một giờ phí hoài. Cô đã quay lại thăm phố Miquel và phố Grunewald, ngơ ngẩn đứng quẩn quanh ở đó một hồi lâu, cứ như chưa bao giờ từng sống ở Berlin. Cô đồ rằng bà Hermann nhìn thấy cô, sau rèm cửa lay động, và cô vội bỏ đi. Em xin anh, hãy để em đến với anh. Chẳng lẽ mọi chuyện ngày xưa chỉ là giấc mơ của em? Khi nào anh có đủ giấy tờ em sẽ lên tàu. Cha mẹ anh không nhất thiết phải thấy mặt em. Mình gặp nhau ở ga, anh đi xe đến đó, và em lao vào vòng tay anh. Ông hy vọng cuối tuần này sẽ nhận được giấy phép. Trông anh không ra gì đâu, ông viết. Nhưng ông muốn tin, rất lâu, vào khung cảnh đó trên sân ga, tin vào khoảnh khắc khi cô trên tàu leo xuống, mệt mỏi vì chuyến đi, hơi nhỏ nhắn hơn so với ký ức của ông, với nụ cười nhếch mép mê hồn.
Sau một đêm thức trắng, ông hủy kế hoạch. Với thể trạng này ông không thể một mình ra ga, nên Dora phải đến đón ông tại nhà cha mẹ, và điều đó bất khả thi vì lý do ai cũng biết, vậy thì chỉ còn khả năng ông đi cùng ông chú đến trại điều dưỡng và ở đó mới gặp được Dora. Ông thoáng nhắc tới nỗi kinh hãi, dù dĩ nhiên phải đến tận nơi mới biết cụ thể. Ở một số an dưỡng đường kiểu này, không lúc nào người ta quên được mình bị bệnh, các trại khác thì lại giống khách sạn, nhưng dù thế nào thì cuối cùng cũng có một dạng mệnh lệnh, người ta bị ép ăn, vốn là điều làm ông sợ nhất xưa nay, ở đó có bác sĩ, có những buổi thẩm vấn rầy rà khi mới đến, bệnh nặng nữa thì phải uống thuốc, thụt, tiêm bạc hà và những biện pháp tương tự. Đa số những trò ấy ông đã làm quen ở dạng này hay dạng khác, song không vì thế mà đỡ ngán hơn, thêm nữa những lần đi điều dưỡng trước ông khỏe hơn so với bây giờ, lần này sự việc đã có vẻ trầm trọng. Đứng trước gương người ta dễ ảo tưởng, vì nói cho cùng thì mọi đổi thay diễn ra từ từ và người ta quen dần, tiếc rằng điều đó cũng đồng nghĩa với việc mất đi cái nhìn khách quan. Mặt mình đây sao? Thôi được, vậy đó là mặt mình, nhưng cái giọng khản đặc không giấu đi đâu được, ngay cả khi Elli không nhận ra mà chỉ chú ý đến cân nặng, tính lười ăn của ông, thể trạng đáng thương của ông, và cô khăng khăng cho rằng nguyên nhân chính là Berlin.
Mọi người mong chờ lúc ông đi. Bản thân ông mong nhất. Mẹ ông, mỗi ngày vài lần đi lấy thư cho ông, bà giúp việc muốn trở lại phòng mình, ngay cả Max, không lúc nào bỏ lỡ dịp để ta thán về thói lề mề của nhà chức trách, mà không nhận ra như thế chỉ tổ làm ông tiến sĩ phát ớn. Đã đến lúc ông không muốn là gánh nặng của họ nữa, bệnh nhân nào cũng phiền toái cả, điều đó thì chẳng phải bàn. Ông khó chịu khi phải tắm rửa và mặc quần áo, ghét tiếng ồn liên miên, không dứt cả khi ông buồn ngủ, và thường thì ông cũng ngủ được, đôi khi ông ghi chép vài dòng, về cảnh hấp hối ở nông thôn mà ông từng mơ thấy, về lý do vì sao không cần sợ hãi cái chết. Lúc này đang là chiều muộn, một ngoại lệ hiếm hoi khi ông một mình trong phòng. Ông nằm trên giường, xung quanh yên tĩnh dễ chịu, cha mẹ ông đã đi ra ngoài hoặc đang đọc báo ở đâu đó. Ông biết đây là những ngày hoặc giờ cuối cùng, nhưng không cảm nhận được gì ngoài một cảm giác nhẹ lòng mù mờ được báo trước, và quả thật, sáng hôm sau ông nhận được thị thực nhập cảnh, hôm sau nữa ông rời thành phố.
Người chú không thể đưa ông đi vì đã có kế hoạch đến Venice từ lâu, Ottla đi thay, đó cũng là phương án ông cho là hay nhất. Mọi người bàn tính về những đồ đạc ông sẽ cần ở trại điều dưỡng, họ lấy va li ra, Ottla và mẹ ông gói ghém, khiến ông không được yên chút nào suốt mấy tiếng sau đó. Buổi tối ông gọi điện cho Dora, cô đang ở chỗ Judith và làm đồ ăn. Nhất định ông làm cô giật mình, cô phải cố nghe ra giọng ông, nhưng rồi cô sung sướng, rốt cuộc không phải chờ đợi nữa rồi. Lạy Chúa, không sao tin nổi. Có thật anh đó không? Một cảm giác rất lạ khi nói chuyện điện thoại với cô, tựa như cô không ở đâu xa, mà ngay bên cạnh, khiến ông tạm quên ác cảm ngày xưa của mình đối với điện thoại. Dora định ngay sáng mai mua vé đi Vienna, cô cũng cần phòng ở, tốt nhất là gần ga, vài hôm nữa thôi, anh yêu nhất đời của em, anh nghĩ mà xem, vài hôm nữa thôi. Thoạt đầu cô còn hơi rụt rè, nhưng bây giờ giọng cô rất phấn khích, cô cười, đôi lúc cô quay ra nói với Judith. Judith gửi lời chào ông. Cô nhắc lại cô đã ngạc nhiên chừng nào, giọng anh trong điện thoại, ai có thể ngờ được. Em ước gì không bao giờ gác máy nữa, mà cứ thế tán chuyện với anh mãi, trên giường, dưới chăn, với giọng anh.