← Quay lại trang sách

- 2 -

4

Những ngày trước khi xuất hành cô như sống trong màn sương mù. Mọi thứ nhanh chóng trở nên lạ lẫm với cô, những khuôn mặt ngoài phố, xe cộ, tâm trạng bức xúc. Franz khăng khăng muốn cô chỉ đến với ông vài ngày thôi, nhưng linh cảm nhắc nhủ rằng cô sẽ ở lại mãi mãi. Nặng nề nhất là cuộc chia tay với Volksheim, với Paul, người luôn miệng năn nỉ: Ông tiến sĩ sẽ khỏe lại, chắc chắn thế, và khi ông khỏe rồi thì hai người hãy lại về Berlin sống. Anh muốn cô hứa, nhưng cô không hứa được, cô còn phải ra với lũ trẻ, chúng đã chép đầy một vở bài hát Hebrew cho cô; mọi người cầu nguyện và hát, rồi cô phải lần lượt ôm từng đứa một, quá sáu giờ cô mới vùng ra được.

Cũng chẳng còn nhiều việc để làm nữa. Judith tự hỏi, sao Dora có thể cần ít hành lý như vậy, để đi Palestine Judith cần tối thiểu gấp đôi, có lẽ cô không cần đồ mùa đông, thay vào đó là cả núi sách cho những buổi tối nóng bức mà cô hy vọng sẽ có dịp để đọc. Hiện tại Judith thấy mình như một y tá thì đúng hơn, bên cạnh Fritz, hai người rõ ràng có tình ý với nhau, vì lúc nào cô cũng nói “bọn mình” đã suy tính ra sao, anh và cô. Judith đã nấu nướng xong, lần này cô bỏ rất nhiều công sức, cô ôm Dora, cố động viên bạn. Cậu là người mạnh mẽ, cô nói, cậu yêu Franz, hai người sẽ thành công. Thức dậy lúc sáng sớm, Dora đã mường tượng ông đang ngồi trên tàu với Ottla, và ước đoán họ còn đi bao lâu nữa. Bây giờ trời đã sẩm tối, chắc chắn ông đã đến an dưỡng đường rồi. Cô tưởng tượng ông mệt mỏi lăn ra giường, thật may vì có Ottla bên cạnh. Cô kể vài chuyện về Ottla và lại nhắc đến Franz, còn Judith thú thực cô không biết liệu Fritz có phải là lựa chọn đúng đắn không, song chuyện đó chẳng có gì mới, làm sao người ta nhận ra được ai là lựa chọn đúng? Hồi ở Döberitz họ đã bàn luận về chuyện này, khi cả hai đều đang hết sức mù mờ về tương lai. Judith nói: Tớ ước gì được đem cậu đi theo. Họ lặng đi một thoáng, trong một thoáng đó, cô cũng ước ao điều ấy thành hiện thực.

Mãi đến khi đã trên đường ra ga cô mới bình tâm và tỉnh táo trở lại. Judith muốn tiễn bạn, họ ra khỏi nhà muộn, nên có nhiều thì giờ cho cuộc chia tay. Dora phải hứa sẽ viết thư ngay khi có dịp, và vội yên vị để lên đường đến với Franz. Cô đem theo các thư của ông, tất cả những thứ mà cô giữ lại được hồi tháng Giêng, một chồng vở không phải của cô nhưng được cô cứu thoát mà ông không biết. Cô mơ mơ màng màng, liên tục lật giở những trang báo, đợi thời gian trôi đi. Người soát vé đến. Một lúc nào đó tàu qua biên giới, cô trình hộ chiếu, chỉ vào hành lý trên giá. Franz đã qua ngày thứ hai ở trại điều dưỡng. Một bà người Hungary mà cô bắt chuyện đã giới thiệu khách sạn Bellevue, ngay cạnh ga. Cô đã đến Vienna thật sao? Cảnh trí ở đây dường như không khác gì Berlin, nhân viên đổi tiền ở ga cũng không thân thiện, nhưng người ta tìm được cho cô một phòng bé xíu áp mái, từ đó cô phóng tầm mắt nhìn ra các con ngõ nhỏ, nghe tiếng động từ nhà ga, nơi Franz đặt chân trước đó mấy hôm.

Sáng hôm sau cô gọi điện về Praha. May thay, Elli nhấc máy, vì cô đã có lần nói chuyện với Elli trước lễ Giáng sinh, và chắc hồi đó giọng cô cũng hớt hải tương tự. Cô không biết thêm được nhiều tin tức. Franz đã đến nơi yên ổn và muốn có địa chỉ của cô ở Vienna, cô không nên đi khỏi đây trước khi nhận được điện trả lời của ông. Cô ghi lại địa chỉ an dưỡng đường, gửi đi một bức điện đắt chóng mặt chỉ để báo đã sẵn sàng, kèm theo tên khách sạn, địa chỉ và số điện thoại, và cô đang khao khát đợi. Ngay chiều nay cô có thể đến bên ông rồi. Rồi cô chờ, với chút xíu bất bình mà cô không chịu tự thú với mình, vì cô không hiểu tại sao Franz lại phức tạp hóa mọi chuyện đến nhường ấy. Những giờ đầu tiên trôi qua, trả lời thì cần thời gian, phải kiên nhẫn, cô tự nhủ, nhưng từ chiều trở đi việc chờ đợi trở thành một cực hình. Ông hoàn toàn có thể gọi điện hoặc nhờ gọi điện cho cô được chứ? Em xin anh, hãy gọi em đi. Hay ông mệt đến mức ấy? Đồng hồ chỉ chín giờ đã lâu mà cô vẫn ngồi ở sảnh khách sạn, giữa chừng cô vào nhà hàng ăn, tuyệt vọng đến câm lặng. Đến mai, cô tự trấn an, một đêm nữa thôi. Giọng ông trong bức thư gần nhất dịu dàng và đầy nhớ nhung, vì vậy cô đọc bức thư ấy như một sự an ủi, chốc chốc lại ngóng về phía quầy lễ tân, nơi đặt điện thoại, nhìn những ô nhỏ đựng thư, hầu hết trống trơn, nhìn lên hàng trên cùng có ô thư của mình.

Hôm sau cô như chỉ biết chạy. Ông viết rằng đang mong cô đến, và từ đó trở đi dường như cô mọc cánh bay, cô lao ra ga, leo lên chuyến tàu đầu tiên đi Pernitz. Cả khi đã trên tàu cô vẫn đứng ngồi không yên, cô chạy đi chạy lại dọc toa, ngắm nhìn phong cảnh mới lạ ngoài cửa sổ và đọc lại bức điện cả trăm lần. Khi đến Pernitz, thoạt tiên cô không biết đường nên phải hỏi một bác nông dân già, nghe nói có xe buýt nhưng rất ít chuyến, do đó cô đi bộ, đường quanh co, nắng vàng rực rỡ. Thung lũng ban đầu rất hẹp, nhưng cứ trải rộng dần ra, thỉnh thoảng cô thấy vài nông trại, và rất lâu sau, hiện ra một tòa nhà cao, bề thế, với hai ngọn tháp, to hơn khách sạn ở Vienna nhiều, gần như một tòa lâu đài. Trời không ấm lắm, lại gần có thể thấy những bệnh nhân mặc áo choàng trong nhà ở khắp mọi chỗ, các y tá mặc áo trắng đẩy xe lăn hoặc dìu người bệnh tập đi trong công viên. Cô đã hình dung nơi này buồn thảm hơn nhiều. Tuy nhiên cô vẫn hơi ngần ngại, ở quầy lễ tân, khi người ta hỏi tên cô và không cho cô đến chỗ ông, nhưng rồi lại cho, lên lầu một rồi rẽ trái là đến phòng ông. Mấy bước cuối cùng, cô như muốn đứng tim vì hồi hộp. Cô gõ cửa, và cứ thế bước vào khi không nghe trả lời, đứng bên giường và hầu như không nhận ra ông. Cô không dám hôn ông, chỉ đứng ngây ra ở chốn khỉ ho cò gáy này và nói: Em đây. Thế là em đã đến với anh, cô nói. Ông mỉm cười, hất đầu về hướng chiếc ghế, hơi ngái ngủ, chắc cô vừa đánh thức ông. Ông thì thào, nhưng không như cô vẫn quen, cô hỏi, lạy Chúa, giọng anh bị sao vậy, và lúc này cô mới ngồi xuống mép giường, cầm tay ông, khẽ nắm chặt, và ông phản ứng ngay. Nhìn thoáng thì không thấy ông thay đổi. Ông yếu, gầy hơn hồi ở Berlin, nhưng đúng là Franz. Trong đầu cô chỉ có duy nhất một ý nghĩ: Em đã đến đây với anh, không còn thứ gì khác đáng bận tâm nữa. Cô không chăm chú lắng nghe lời ông, tên các loại thuốc hay ông đau ở đâu. Cả tiếng thì thào của ông cũng không có gì đáng chú ý. Nhưng bệnh đã lan đến thanh quản, bác sĩ nói ông bị phù nề, nhưng may mắn vì hình như không phải ác tính. Ông hỏi thăm chuyện đi lại, nơi cô trọ, vì cô không được phép ở lại trong nhà này. Một tiếng sau cô phải rời phòng, và đến lúc này, ngoài hành lang, cô mới nhận ra mình đang ở đâu. Sau cửa phòng bên có tiếng người ho, dằng dặc hàng phút liền, ở mấy phòng tiếp theo cũng vậy, có tiếng ai đó than thở, một người khác cười, mặc dù nghe giống tiếng khóc hơn. Cô được phép quay lại chỗ Franz sau khi kiếm được nơi trọ, và ngồi cạnh giường ông, lúc này tinh thần đã được chuẩn bị tốt hơn, cô tin vậy. Tối qua ở Vienna cô đã tưởng tượng ra hàng trăm thứ, cô muốn chết vì thương nhớ, rồi giờ đây, ông nằm trong phòng này, xa xôi một cách khó hiểu, tựa như cô không với tay tới được, làm sao có thể tin nổi cô đang có ông như những ngày ở Berlin.

Cô kể với gia đình nông dân cho ở trọ là cô đến thăm chồng, ông ốm, dĩ nhiên họ biết điều đó. Họ nói một thứ phương ngữ rất khó hiểu, họ đem cho cô sữa và bánh mì, gật đầu động viên mỗi khi cô ăn được một miếng, như vẫn quen làm với mỗi khách trọ giống Dora. Phòng ở đơn giản và sạch sẽ, mọi thứ đều bằng gỗ, kể cả tường và trần. Một chậu và bình để rửa ráy, bữa sáng có sữa và bánh mì. Cô dậy sớm và lên an dưỡng đường trước tám giờ, tuy nhiên người ta chiểu theo nội quy giờ thăm không cho cô vào. Cô phản đối nhưng vẫn bị xua đi, cô không tưởng tượng ra sẽ làm gì trong mấy tiếng tới, vẩn vơ ra công viên một lát, trở về phòng mình rồi lại leo lên an dưỡng đường. Ven đường có một tòa nhà chạy dài, ở đó người ta chơi bowling, bệnh nhân mặc đồ ngủ và một, hai hộ lý hò hét vui nhộn. Một giờ kém mười lăm cô đến với Franz, ông vui trông thấy, vui hơn cả hôm qua. Cô đã quen giọng thều thào của ông, dĩ nhiên cô thấy nhớ tiếng ông nhưng vẫn vui vì được trò chuyện với nhau. Như mọi khi, ông lo lắng chuyện tiền nong. Một ngày ở trại điều dưỡng tốn cả núi tiền, chưa kể các loại thuốc men mà cô dần dần thuộc tên: thuốc nước Pyramidon chống sốt, ngày ba lần, Atropin là thuốc ho, thêm mấy loại kẹo gì đó. Chẳng loại thuốc nào công hiệu. Vì phù thanh quản nên mấy hôm nay Franz không ăn được. Bác sĩ đến và nói phải tiêm vào dây thần kinh, cũng phải cân nhắc có nên phẫu thuật cắt bỏ, nhưng việc đó phải do các chuyên gia ở một bệnh viện Vienna làm. Thoạt tiên cô chẳng hiểu gì. Bác sĩ đã bắt đầu sốt ruột. Franz lắc đầu, nhưng thực ra có gì là khó hiểu đâu, ở an dưỡng đường này người ta không thể làm gì hơn cho ông được nữa, họ phải đi khỏi đây, đến bệnh viện của giáo sư Hajek ở Vienna, càng nhanh càng tốt.

Gia đình nông dân chủ nhà trọ đang ăn sáng khi cô đến chia tay. Franz cũng đã dậy từ lâu, ông không đến nỗi yếu quá như cô lo ngại. Giấy xuất viện đã ký, không còn nhiều thì giờ để ngẫm nghĩ, nhưng có thể như thế lại hay, mọi việc cứ thế tuần tự nhi tiến. Họ đặt xe và cô gói đồ đạc trong khi Franz viết thư cho cha mẹ. Chuyến đi trong mưa gió thật khủng khiếp. Vì lý do kỳ quái nào đó mà không thể kiếm được xe có mui, và thế là họ đi một đoạn dài dằng dặc mà không hề được che chắn, Dora phanh măng tô đứng chắn cho ông, người tê dại, như trong mộng. Ở bệnh viện người ta chở ông đi ngay, mãi một lúc lâu sau cô mới được vào phòng ông. Không khác gì bước vào một xà lim, ông nằm sát giường hai bệnh nhân khác, ở yết hầu gắn những máy móc gì đó trông phát sợ. Franz vội xua cô đi, thế là cô lại quay về khách sạn Bellevue và viết tiếp tấm thiếp dở dang của Franz gửi Robert trong tâm trạng bức xúc từ bệnh viện về. Chẳng còn gì để mất nữa, cô viết, Franz đã mất hẳn tiếng. Và quả thực đến giờ phút này cô mới ý thức được là Franz không nói được câu nào, từ sáng sớm rồi, thậm chí cả nói thầm cũng không, dù vậy cô vẫn luôn có cảm giác như ông nói với cô, ngay cả khi ông không hiện diện, như dạo nào ở Müritz, trong máu thịt cô, tựa như họ vẫn luôn ở bên nhau và luôn trò chuyện với nhau.

5

Hôm đầu tiên họ không đả động đến ông tiến sĩ. Khi làm giấy vào viện, các bác sĩ còn hỏi vài câu sơ sơ về diễn biến của bệnh, ho lúc nào và có thường xuyên không, đờm, máu, đêm đầu tiên bị sốt ở Berlin, lần mất giọng ở Praha. Họ cho biết sẽ xử lý ra sao, nói về tác dụng của bạc hà, phương pháp tốt nhất hiện nay là phun bạc hà vào thanh quản bị phù nề, và cuối cùng là ông phải ăn, thể trọng đã xuống dưới năm mươi cân, không thể để xuống tiếp được nữa. Họ nói với ông như thế, không hẳn cởi mở, cứ như họ đã thống nhất chỉ tiết lộ những gì cần thiết nhất, nhưng có lẽ ông cũng chẳng muốn biết rõ hơn. Ông đã làm quen những người ở giường bên. Họ gật đầu chào nhau hoặc vẫy tay, vì muốn làm gì đó hơn cũng chẳng đủ sức. So với họ, ông cảm thấy mình còn khỏe. Họng đau như xé, nhưng ít nhất ông còn nói được, còn dè dặt uống từng ngụm nhỏ, nửa tiếng một lần, chia đều trong buổi sáng. Thể trạng của ông không có gì đáng lạc quan, nhưng ông cắn răng chịu đựng, nhất là trước mặt Dora. Cô đến nhà thờ xứ Stephansdom với nét mặt buồn bã. Ông viết mấy dòng cho cha mẹ, vẫn mấy câu nói dối thường khi, chẳng hạn chỗ ở tử tế, bác sĩ chăm sóc lý tưởng, nhưng không rõ sẽ kéo dài bao lâu. Dora luôn quấy ông bằng những câu hỏi, cô thấm khăn ướt lên trán và môi ông, cô hôn ông khi đến và lại hôn lần nữa, khi giờ vào thăm đã qua từ lâu và bà hộ lý bắt đầu lườm nguýt.

Bác sĩ phun dịch cho ông đợt đầu mới về đây làm việc, lúc đầu lúng túng đến khó chịu, khiến mọi việc kéo dài mãi không xong. Ống phun dịch có cây kim dài uốn cong, mới trông đã thấy khiếp, nhưng kinh hãi nhất là các thủ tục chuẩn bị, lật giở giấy tờ, hút dịch vào ống phun, trong khi bệnh nhân run rẩy nằm trên một thứ phản gỗ, không ra cái giường cũng chẳng phải ghế. Tôi chưa tự giới thiệu, bác sĩ nói, xưng một cái tên không ai thèm nhớ, rồi thọc thứ dụng cụ kim loại đó sâu vào họng, ngó ngoáy hồi lâu mới đặt đúng chỗ, rồi phun một chất lỏng sánh như dầu. Đã vào chưa hay lại chảy ra? Lúc đầu không dễ nhận ra, ông chỉ thấy hơi xót, dễ chịu vì mọi việc chấm dứt, buổi trưa ông tin trong người hơi khá lên, mặc dù vẫn không nuốt nổi. Ông thấy mình khỏe hơn. Dora đến sau một giờ chiều, ông tỉnh táo và thoải mái, thậm chí còn vui mừng lúc ông em rể Karl bất ngờ xuất hiện. Không rõ Karl tình cờ đến hay do Elli bảo. Karl nhắn lại muôn vàn lời chúc và đem đến một bức tranh của Gerti, có thể nhận ra bãi biển Müritz, một bức tường thành, chiếc ghế hộp với một hình người màu đen và mũi tên có chữ bác Franz.

Ngày hôm sau ông em rể cũng tới thăm, nhưng lần này không khí nặng trĩu vì ban đêm có một người chết, Dora không chịu tin, trong khi Karl ít nhiều trấn tĩnh được ngay. Một ông già, ông tiến sĩ đoán là nông dân ở địa phương. Khoảng ba rưỡi, bốn giờ ông ta đột nhiên ngạt thở. Bác sĩ và hộ lý xuất hiện, nhưng họ không làm gì được nữa. Franz nhìn thấy họ lúi húi bên giường trong bóng tối nhập nhoạng, rồi lắc đầu và cuối cùng đẩy giường khỏi phòng. Chẳng có gì để kể thêm. Mọi người bàn luận về tác dụng của mũi tiêm thứ hai, bây giờ nuốt sẽ không đau lắm nữa, thậm chí tối nay ông có thể ăn được, vài thìa khoai tây nghiền thôi, nhưng còn hơn không. Lúc chia tay Karl hứa sẽ không thuật lại tình hình một cách quá đen tối, kẻo mọi người ở Vienna lại phát điên lên và cử ông chú đến, mà giờ này thì ông đang mắc kẹt trong mưa dầm Venice. Một bức điện đã được đánh đi đến địa chỉ ông, hy vọng nó không đến nơi. Karl là sứ giả của gia đình mà không đủ sao? Thay vì đón thêm khách, ông cần một chiếc chăn lông vũ và nệm, vì khác với trại điều dưỡng, hình như ở đây chỉ có những gì tối cần thiết, cảm giác cứ như ở trong một xưởng máy, các bác sĩ lại không tận tình lắm, họ lười đến mức không đem theo gương soi thanh quản khi đến thăm bệnh, hoặc chỉ khuyên nhai kẹo cao su, nhưng kẹo có làm giảm đau được đâu.

Chỉ khi Dora đến ông mới quên được mình đang ở đâu, ông nhắm mắt lắng nghe cô kể về mọi thứ xung quanh đang nở rộ, cây cối và hoa đầu xuân trong công viên, hoa hồng trong vườn hồng. Thường thì thời gian trôi vùn vụt, nhưng đôi lúc nó bị gián đoạn bởi những cơn ho, hoặc ông mất giọng. Ông vẫn hầu như không nuốt nổi thức ăn, hết sức cố gắng cũng chỉ được vài miếng. Y tá lại vừa dọn đi khay thức ăn gần như còn nguyên, khiến Dora đành phải liều hỏi có được phép tự nấu lấy, cô quen khẩu vị của ông tiến sĩ hơn, biết ông có thể ăn gì hoặc không ăn gì. Lúc đầu cô y tá dường như muốn phản đối, cần phải xin ý kiến, một lát sau cô quay lại và dắt Dora ra xem bếp của khoa. Bình thường họ chỉ nấu trà ở đó, nhưng vật dụng thì đầy đủ: nồi, dao, nĩa, bếp lò. Cô hỏi ông muốn gì, đề nghị nấu xúp với gà hầm, bánh ngọt tráng miệng. Anh thích không? Thế thì mười một giờ ngày mai em đã đến với anh. Có thể thấy rõ cô vui đến chừng nào. Cô mới phát hiện ra một cửa hàng thực phẩm trên đường từ khách sạn về, cô sẽ mua thức ăn ở đó.

Hôm sau thì mọi chuyện được thu xếp xong. Đi tàu đến Kierling chỉ chốc lát, Dora được đón tiếp thịnh tình, ngôi nhà không lớn lắm, như một quán trọ thì đúng hơn, chỉ có mười hai buồng, tận cuối làng. Do ông bà Hoffmann cai quản. Giá cả phải chăng, ưu điểm lớn nhất là có phòng cho người nhà. Dora nhợt nhạt khi quay về, có vẻ như ở Kierling có gì đó khiến cô sợ, dường như cô hiểu rằng sau Kierling sẽ không còn trại điều dưỡng nào nữa. Lại một lần nữa cô đến trước giờ vào thăm hai tiếng để nấu ăn, mặc dù hôm nay không bơm thuốc và thời tiết tốt nhưng ông rất mệt và khát nước, tuần trước ông uống quá ít và bác sĩ không cho phép uống bù. Dora đã thông báo cho bác sĩ biết kế hoạch của mình, cha mẹ Franz cũng sẽ được biết, việc đó ông để Dora làm. Ngày thứ Bảy sẽ bắt đầu ở nơi mới, cô viết, họ chuyển đến một vùng rừng tuyệt đẹp. Không hẳn lại là chia tay. Ông cảm thấy có chút nặng nề, cũng có thể chỉ uể oải vì lần nữa phải chuyển chỗ, tiếc thay điều này cũng có nghĩa rằng ở đây người ta đã bó tay với trường hợp ông, nếu không phải thế thì tại sao mấy hôm nay không thấy bóng dáng bác sĩ nào xuất hiện?

Ngoài khát nước, thể trạng ông tạm ổn, mặc dù sức lực sa sút. Hễ động chân động tay là ông nhận ra, khi tắm rửa lúc sáng sớm, ông cảm thấy như mình có một lỗ rò, và chất lỏng cứ chậm rãi và liên tục chảy khỏi cơ thể ông. Trong khi Dora kiếm đủ mọi thứ tăng lực, bữa sáng có sữa béo và ca cao, sau đó có trứng, trưa ăn gà và sườn bê, cà chua rán nghiền nhỏ, trộn với bơ và trứng, súp lơ hoặc đậu non, tráng miệng bằng bánh kem với váng sữa, đôi khi có chuối và táo, bữa trà lại có thêm ca cao hoặc sữa béo, đến bữa tối lại ăn trứng. Hay vì ăn nhiều quá mà ông mệt? Ngay mấy tiếng đồng hồ bên cạnh Dora ông cũng khó giữ được tình trạng tỉnh táo, thậm chí cả khi Felix bất ngờ xuất hiện, nhưng nhìn chung chỉ một giờ thôi thì ông vẫn chịu nổi. Felix không để lộ ấn tượng của mình về tình trạng của ông tiến sĩ, vui mừng được làm quen Dora, thân thiện kể về Josef trước khi chuyển lời chào của Max và Oskar nhớ đến ông từ Praha xa xôi. Với Dora, khách đến thăm là một dịp đổi gió, họ rất ổn, nếu thời tiết cho phép thì sắp được dạo chơi bên ngoài. Thậm chí cô còn dám nói đến chữ “bình phục”, và sẽ vui xiết bao khi sắp rời khỏi chốn này. Trước đây hai tuần, ông nhớ lại, họ còn gửi gắm mọi hy vọng vào an dưỡng đường, một tuần sau là Vienna, và giờ đây là Kierling. Như mọi khi, Felix bận rộn với tờ Selbstwehr(1) mà ông tiến sĩ vẫn đọc thường xuyên. Cha mẹ ông vừa gửi đến số mới nhất, nhưng ông thích tự mua để ra bao lơn đọc, vì Dora kể ngôi nhà ở Kierling có bao lơn trông về hướng Nam, mùa này đã có thể có vài giờ nắng, thoáng nghe gần như một lời hứa hẹn.

6

Chưa đầy hai tuần sau, hy vọng của Dora đã gần như tiêu tan. Chưa bao giờ cô nghĩ sẽ có ngày cuộc đời mình ra thế này, tuy nhiên cô vẫn sống như thế, bằng cách nào đó, như kẻ đắm tàu bị ném lên hoang đảo cằn cỗi, được chăng hay chớ, và không phải lúc nào cũng được. Tối đến, ở khách sạn, cô thường bị vắt cạn sức, kiệt quệ nhưng đồng thời đầy kích động, vì luôn có những bức xúc vặt vãnh, như bức điện của Robert đến sáng nay, không thống nhất trước mà cứ khăng khăng đòi đến thăm, phải hết lời từ chối. Franz đếm từng giờ, ông chỉ muốn đi khỏi nơi này, vì đây là ngày cuối cùng của họ ở Vienna. Cô ăn một chút trong nhà hàng, ở đó chẳng ai chú ý đến cô, khách cũng thưa nên mấy người bồi bàn chẳng có gì làm, lúc nào cũng có người đứng cạnh bàn và hỏi cô cần gì. Cô hỏi xin giấy bút, vì cô muốn viết thư cho cha mẹ Franz. Một mình cô viết, hơi ngượng ngùng, và không vì thế mà dễ nói dối hơn. Cô thông báo sắp chuyển chỗ, mọi việc đều được bác sĩ chấp thuận, sự thật thì ngược lại vì các bác sĩ ngăn cản cho đến phút cuối, và đành chấp nhận tùy hai người, Franz tỉnh táo và hoạt bát, và cô sẽ gửi kèm cả tờ quảng cáo của trại điều dưỡng mới.

Hôm ra đi, không khí cực kỳ ảm đạm, vì Josef chết lúc đêm, mặc dù tối hôm trước còn vui vẻ chạy đi chạy lại. Lần đầu tiên cô thấy Franz khóc, đầy căm giận, tựa như không hiểu nổi một người như Josef tại sao phải chết. Hay các bác sĩ không tận tình chăm sóc Josef? Trong mắt Dora thì trước tiên đó là lời cảnh báo: một người đi lại được và ăn uống tốt, không có nghĩa là sống sót. Lại gửi đi những tin tức cuối cùng. Max đã bán được truyện Dân chuột và muốn biết gửi tiền đến địa chỉ nào. May sao, thời tiết quá đẹp. Buổi trưa họ lên đường, gọi xe ra ga và đến vừa kịp chuyến tàu đi thẳng tới Klosterneuburg không đỗ giữa chặng. Felix theo tiễn. Mọi người đều thở phào vì đã bỏ lại bệnh viện đằng sau và bàn kế hoạch cho mấy ngày tới, vì vùng này rất đẹp, bao lơn trang trí hoa, phòng ngập nắng. Tất cả trắng tinh, tường, giường, tủ và bồn rửa, có cả một bàn viết không rõ tại sao tìm được chỗ giữa căn phòng khá chật chội, thôi được, không đến nỗi vô duyên. Bà Hoffmann cùng chồng đến chào đón, bà nói, bà rất hân hạnh và muốn mọi người đi xem một vòng, trong khi Franz chỉ quan tâm đến căn phòng. Họ ở trên lầu hai, nhìn ra mảnh vườn đang nở những đóa hồng đầu tiên. Ba, bốn bệnh nhân ngồi ngoài hiên, cuối vườn hình như có một dòng suối, xung quanh bạt ngàn rừng và những đồi nho.

Những ngày đầu tựa như một kỳ nghỉ mát ở thôn quê. Họ ngồi ngoài bao lơn tận hưởng nắng ấm, Franz đã lâu mới vận com lê, hăng say vận động, do đó ăn sáng xong họ ra vườn, giờ này chỉ có một phụ nữ khá trẻ đang nằm, một nam tước phu nhân mà sau này họ được biết là ăn rất khỏe. Cuối khu đất có một cửa sắt rèn, dẫn ra một thung lũng nhỏ đầy ắp tiếng suối reo, tiếng chim hót trong bầu không khí đẫm sức xuân. Họ rẽ sang trái, đi dọc suối, vài phút sau vào đến làng. Mặc dù quãng đường không dài, họ vẫn ngồi nghỉ trên một chiếc ghế băng, lòng vui phơi phới. Đông người đi dạo, nhiều gia đình dẫn con cái mặc đồ Chủ nhật, đến một trong hai quán hàng để ăn trưa. Franz muốn đi một vòng xe ngựa. Ông xà ích béo quay khoe chiếc xe độc mã và chở họ đến Klosterneuburg gần đó với giá rẻ, ở đó đường phố còn tấp nập hơn. Franz cười, ông vui vẻ và phấn khích giống như dạo nào ở bãi biển, ông liên tục ôm và hôn cô, hôn lên tay, trán và mũi, tựa như vẫn chưa tin nổi là cô đang hiện diện và sẽ ở lại bên ông. Ngoài truyện Dân chuột Max còn bán được cả truyện ngắn về bà chủ nhà đầu tiên của họ ở Berlin, và truyện mới được đăng hôm nay trên một tờ báo Praha. Tất nhiên họ không có tờ báo ấy trong tay, nhưng dù sao cũng là một dịp để vui và nhớ lại. Berlin đã lùi xa trong dĩ vãng, có trời biết, liệu họ có ngày trở lại không, nhưng, lúc này họ trò chuyện về Berlin. Tận tối hôm qua cô mới có thì giờ viết cho Judith, cũng không dễ dàng gì, vì cô không tìm ra lời để tả cuộc sống hiện nay của mình, một cuộc sống đang trôi qua như không phải của cô, trong những giờ phút cô không ở bên ông, trong căn phòng mới của cô, thực ra chỉ là một căn phòng nào đó, một cái vỏ bọc tạm thời mà người ta sẽ rời bỏ vào dịp gần nhất.

Ngày thứ Hai Phục sinh họ cũng đi qua thung lũng có suối, song lần này rẽ phải rồi đi tiếp về phía rừng, trèo một đoạn dốc ngược lên một đỉnh cao, từ đó có thể nhìn xuống các đồi nho và rừng mênh mông. Franz mệt hụt hơi, nhưng vẫn hăng hái đi. Ông định đến quán rượu, ngồi sưởi nắng và uống vang, tại sao không; thậm chí nếu có dịp họ có thể đến tận Vienna, nếu cuộc sống làng quê quá tẻ nhạt. Họ chỉ đi dạo một đoạn, nhưng vừa về đến nhà thì buộc phải thừa nhận rằng đáng lẽ họ không nên đi. Franz kiệt sức và lạnh run, ông muốn lên giường ngay, chỉ kịp nhận ra Felix từ biệt. Dora cũng không quen Felix lắm. Anh làm thủ thư ở trường đại học. Cô mến thái độ điềm đạm của anh, mến sự an ủi thầm lặng và cách anh kể chuyện về con gái Ruth. Họ vào phòng đọc sách ngồi. Cả buổi họ nói về Franz, về ước vọng được đi Palestine của ông, cũng là ước vọng của Felix. Cô tiễn anh ra cửa, bất ngờ khi anh vụng về ôm cô và nói, anh chẳng muốn rời họ đi chút nào. Đơn độc ở đây cũng buồn. Không đâu, cô nói, hai chúng tôi hợp nhau, cần nhau, ở Berlin chúng tôi đã đủ thì giờ chiêm nghiệm.

May mà mấy ngày lễ rồi cũng qua đi. Franz muốn ăn hoa quả tươi, họ lại được đi chợ và nấu ăn, ít nhất Dora đã có việc để làm, cô bàn bạc với bà đầu bếp vui tính người Silesia về giờ giấc để họ không vướng cẳng nhau, việc này khá dễ dàng. Trong ngôi nhà đậm đặc bầu không khí gia đình, mọi người luôn chào hỏi nhau ở cầu thang và hành lang, Dora đã quen mặt đa số khách - bốn đàn ông và hai phụ nữ. Có lần cô bắt chuyện khá lâu với nam tước phu nhân, một ca được coi là hết cách điều trị, nhưng bác sĩ Hoffmann không bó tay, ông động viên bà cứ ăn nhiều như có thể. Bà nhồi thức ăn vào bụng như người ta nhồi vịt. Hôm nào có nộm dưa chuột, bà không lấy một mà lấy bốn suất, và hy vọng nhờ vậy mà chữa được tật ăn nhiều. Bà vừa kể vừa cười. Bà cho biết đã đính hôn với một luật gia và chuẩn bị cưới. Franz vẫn tiếp tục sốt, đặc biệt vào buổi tối. Ông sinh trầm cảm vì không được ra ngoài. Nhưng ông ăn ngon miệng, hàm ơn mỗi khi cô đến và thấy cô vất vả vì ông. Em còn nhớ nhà hàng ăn chay ở phố Friedrich không?

Cho đến nay cô chưa có ấn tượng rõ rệt về bác sĩ Hoffmann. Ông đã cứng tuổi, dễ gần, nhưng có những quan điểm cứng nhắc, ví dụ như từ chối mọi trị liệu pháp không chính thống. Đối thủ của ông chính là Dora, từ khi cô gọi được một bác sĩ người Vienna chuyên dùng dược chất thiên nhiên, nhưng ông này không được phép. Bác sĩ Hoffmann hiểu tình cảnh có bệnh thì vái tứ phương. Nhưng người chịu trách nhiệm về các bệnh nhân của ông lại là chính ông. Dường như Franz khá hài lòng, vì mỗi bác sĩ là cả đống tiền, từ phí điều dưỡng, phòng của Dora cho đến mỗi lần đi chợ. Cả ngày ông cau có và than phiền không có gì đọc, vì cha mẹ ông không gửi báo. Buổi tối cô gọi điện cho bà mẹ, tất nhiên mọi thứ đã gửi đi từ lâu, kể cả chăn lông vũ. Ngay cả khi đã xem tờ quảng cáo, bà mẹ không thể hình dung ra cuộc sống ở trại điều dưỡng ra sao. Mẹ hy vọng các con có thì giờ cho nhau, sau nhiều chìm nổi vừa qua, nhất định các con cần khung cảnh đó. Dora rất xúc động, cô ưa chữ “các con”, vì như vậy là gia đình ở Praha hiểu rằng cô thuộc về Franz, thậm chí ở trại điều dưỡng này, dù sao chăng nữa cũng là một dạng cuộc sống.

Judith gửi hai bưu kiện lớn từ Berlin, toàn quần áo mà Dora nhờ gửi, vì bây giờ không ai tính đến khả năng cô quay về Berlin nữa. Dora đã gói những đồ ấy trước đây mấy tuần. Hôm nay cô ngạc nhiên vì tìm được lắm thứ trong đó, hai áo dài cho lúc giao mùa, bộ áo váy, một ít sách, đồ trang sức. Cô thay đồ ngay, mặc chiếc áo dài sặc sỡ vì Franz, dù có thể ông không nhận ra, song ông nhận ra ngay, còn nhớ cô đã mặc nó khi nào, trong mấy hôm đầu ở Berlin, ông nói: Ở Vườn Bách Thảo. Cô mua nó ngay trước khi đi Müritz. Cô ưa cổ áo gấp li, họa tiết hoa, dù hơi có vẻ thiếu nữ quá, nhưng chính ông lại thích thế. Cô phải đi đi lại lại mấy lần trước giường, như đang khiêu vũ. Cô chưa bao giờ khiêu vũ cùng ông, cũng không hề biết là ông có khiêu vũ không, ngày xưa, hồi còn là sinh viên, cô tin là ông biết, nhưng ông vừa cười vừa nói, không, không bao giờ, song nếu cô muốn thì ông sẽ học. Cả buổi tối gần giống hệt hồi xưa. Họ cùng ăn trứng đúc, cùng mơ mộng lần nữa về một mùa hè ở Müritz, và nếu được thì họ sẽ làm gì khác trước. Không nhiều, như họ nhận ra, vì nói cho cùng thì cái gì họ cũng thấy đúng. Dĩ nhiên Dora không muốn đi làm, và họ sẽ ở chung phòng, sát bờ cát hơn, vì đường ra biển hồi đó khá xa, tuy nhiên Franz lại ưa nhà nghỉ. Em còn nhớ căn phòng ấy không? Cô vẫn nhớ trận mưa khủng khiếp, nhớ bị ướt ra sao, nhớ từng động thái nhỏ nhất. Ông đến chỗ cô ra sao. Cô nhớ hết. Những nụ hôn. Cô hồi hộp đến mức nào. Lâu quá rồi. Nhưng cảm xúc vẫn còn đó, âm vang của nó, nỗi sợ hãi ngay từ phút đầu, có gì đó rình rập mà cô cố hết sức lờ đi.