← Quay lại trang sách

- 3 -

7

Chuyện viết lách có lẽ đã chấm dứt hoàn toàn. Bây giờ thư từ ông còn không viết nổi, nói gì đến sáng tác. Nhưng kinh ngạc nhất là ông không mấy bận tâm vì thế. Ông chỉ quan tâm đến đêm nay, đến những việc phải làm trong lúc này và lát nữa, giờ thăm bệnh sắp diễn ra, buổi điều trị, bữa ăn sắp tới. Ông suy nghĩ, liệu hôm nay có ra khỏi giường được không, ngó xem thời tiết sáng sớm để ra bao lơn, đợi Dora như sự cứu rỗi duy nhất của đời mình, chờ bác sĩ khám phổi ngày mai sẽ đến theo hẹn và khiến ông khá sợ. Ngoài ra ông thấy trong người khoan khoái lạ lùng. Ông không phải rời khỏi đây, ít nhất chừng nào còn đủ tiền, họ được cùng nhau ngồi ngoài bao lơn và hồi tưởng. Thường thì ông không nhớ gì xa hơn Berlin. Những niềm hy vọng trong ông không lớn lao gì, nhưng ông có quyền mơ đến một chuyến dạo chơi xa hơn hoặc vui sướng đón những tin tức nho nhỏ mà Dora đem lại. Lời chào từ Praha, hay từ Berlin, vì từ Berlin có thư của Judith, người đem lại cho ông niềm vui với những chiếc áo dài của Dora. Dora viết thư và gọi điện, đôi khi ông sửng sốt vì sức lực của cô, chỉ tiếc rằng ông không phải là người tiếp chuyện mặn mà, vì giọng ông ngày càng khản thêm, không nói được, ông còn mệt vào những lúc bất ngờ nhất và ăn quá ít so với lượng cần thiết, khiến cô thất vọng.

Người ta kể có một chuyên gia ở Vienna từng định điều trị cho một bệnh nhân, nhưng vì tiền công ba triệu nên vào phút cuối cùng đã không đến, đó là hồi mùa thu năm ngoái, đúng lúc giá cả ở đây tăng nhanh đến chóng mặt. Họ đợi ông ta cả buổi sáng, và rốt cuộc khi ông ta xuất hiện, mọi chuyện diễn ra chỉ trong chưa đầy nửa tiếng. Trong mắt vị chuyên gia, Franz chỉ mắc một bệnh lao nào đó, một trong hàng ngàn trường hợp tương tự, tuy nhiên vì đã đến đây rồi nên ông cũng soi qua loa thanh quản, sờ nắn chỗ này chỗ nọ và cuối cùng quay về Vienna sau khi để lại một vài dòng ghi chép. Nghe con số tiền thù lao Dora tái mặt, nhưng cô không nói gì, sau đó bỏ ra ngoài một lát. Cuộc thăm bệnh tác động đến cô rõ rệt. Ông giáo sư không nói toạc ra, song Franz đúng là một ca vô vọng, như mọi người trong trại này, ít nhất thì tất cả cũng có một điểm chung, trong khi Dora làm ra vẻ như đó chỉ là một câu đùa ngớ ngẩn. Nhưng cô cần trợ giúp. Chẳng lẽ Franz không nhận ra điều đó sớm hơn? Có lần cô hé lộ hình như đã trò chuyện với Robert về đề tài này, vì đột nhiên cô liên tục nhắc đến Robert, rằng ước gì Franz có người để nói chuyện trong lúc cô nấu ăn hoặc vào xóm đi chợ. Thêm nữa, Robert cũng bị lao như Franz, may mà mới ở giai đoạn đầu, nhưng Robert thông thạo tình hình và chắc chắn sẽ trợ giúp được họ trong chuyện này. Được thôi, ông tiến sĩ nói, mặc dù lâu nay ông không khoái Robert, ngay từ đầu đã có gì đó ở Robert khiến ông không thích, thái độ đòi hỏi, tinh thần sẵn sàng nín nhịn của anh ta.

Tạm thời Robert chỉ ghé qua thăm. Dora ra ga đón, trong khi ông tiến sĩ nằm trong bóng râm ngoài bao lơn, cởi trần, với tờ báo hôm qua gửi kèm trong bưu kiện từ Praha. Họ quen nhau trước đây ba năm ở trại điều dưỡng. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng họ luôn nhắc đến nó, vì Robert đã ở mặt trận phía Đông và sau đó qua Ý, trong những năm ấy anh bị nhiễm lao. Bất cứ khi nào họ gặp nhau, Robert luôn tươi trẻ, hơi có chút yếu mềm, nhất là trong nét mặt, phảng phất vẻ đắng cay, vì anh phải bỏ học y do mắc bệnh. Đúng như họ nghĩ, trông anh không khác mấy. Anh mặc áo vest và gi lê, tóc rẽ ngôi lệch như mọi khi, một người điển trai ở tuổi hai lăm. Anh và Dora đã nói chuyện với nhau từ trước, vì vậy anh không hỏi gì thêm. Nhưng anh sẵn sàng giúp đỡ, anh nói mình rất vui, như thể phải chờ đợi mãi mới có một dịp như hôm nay. Sự hiện diện của anh khiến Dora vui. Cô chỉ cho anh xem phong cảnh nhìn từ bao lơn, họ đứng nói chuyện hồi lâu trong phòng, thậm chí còn đi tham quan phòng ăn, nhà bếp, nơi cô nấu ăn, giang sơn nho nhỏ của cô. Anh sẽ ở lại vài hôm, trong nhà này, may mắn vẫn còn mấy phòng trống, và thế là mọi người đều hài lòng, dù có cuộc sống thường nhật vẫn tiếp tục khó khăn, kể cả việc đọc sách, trước đó vài hôm ông nhận được sách mới của Werfel(2), thỉnh thoảng ông đọc đều đặn vài trang, chậm không tả nổi.

Một dạng bình yên mới xuất hiện, chủ yếu trong tâm trí ông, ông nghĩ vậy, vì bên ngoài vẫn đủ chuyện diễn ra, ông phải quấn khăn và xông hơi, đó là cách điều trị duy nhất hiện thời vì ông đang sốt. Ông không chịu để tiêm thạch tín theo chỉ định của bác sĩ Hoffmann, và từ hôm qua có vẻ ông bắt đầu hạ sốt. Lúc này, sáng sớm, ông chỉ hơi sốt, cổ họng không tiến triển, giọng khản, đôi khi khó phát âm. Chủ yếu ông vui thay cho Dora. Cô như biến thành một người khác từ khi Robert đến. Họ thay nhau ở bên Franz, đôi lúc cả ba người ngồi cùng nhau, bàn tán về những chuyện đồn thổi mới nhất ở Praha sau khi nhận được thư từ đó. Cha mẹ ông nằng nặc đề nghị từ giờ trở đi Dora viết thư trả lời, khiến cô rất kiêu hãnh. Cô thận trọng hỏi về chăn lông vũ, nói cô đang suy tính có nên mua ở Vienna hay không, nhưng Franz dọa sẽ vứt đi. Ông tiến sĩ cười khi đọc những dòng ấy, ông ưa cách cô viết thư, yêu cách diễn đạt khác lạ của cô, cô nói rằng ông sẽ cằn nhằn khi cô không chừa đủ chỗ cho ông viết, trong khi thực ra ông không phàn nàn gì. Ông thích nét chữ mà cô vẫn quả quyết là ngày càng giống chữ ông hơn. Ông thích sự nghiêm túc của cô khi cảm ơn đã được phép đảm nhiệm việc viết thư. Đôi khi giống ở văn phòng ngày xưa, hầu như hôm nào cũng có thư để phúc đáp, trên bàn có hàng chồng phong bì. Cô cúi rạp trên tờ giấy khi viết, hơi còng lưng, như phải vác nặng nhưng cô hài lòng, tựa như viết thư là một hành vi thiêng liêng.

Buổi tối trên giường, ông tự hỏi, rồi cô sẽ ra sao. Khi ông không còn nữa. Đời cô sẽ đi tới phương nào. Thật buồn và lạ lẫm khi hình dung ra cô trong tình trạng cô đơn, không có ông, mặc dù mấy năm đầu tiên cô cũng đã sống ở Berlin không có ông bên cạnh. Ông nhắm mắt, cố tin rằng cô sẽ không suy sụp, cô mong manh nhưng đồng thời cũng cứng rắn, ít nhất là ông quen thấy cô như vậy. Lẽ ra ông có thể cưới cô, thật thế, ông vẫn còn có thể làm được điều này. Vì sao ông không cưới cô? Ý nghĩ ấy đến khá muộn, như ông buộc phải tự thú với một cảm giác thanh thản, ở giờ phút này, khi ông hầu như không hiểu nổi vì sao đã không hỏi cô ở Berlin. Ông không hề nghĩ đến câu trả lời của cô. Ông nhớ đến F., vì sao ngay từ đầu không thể lấy làm vợ, mơ màng nhớ đến M., không thấy nhói đau, tựa như M. là câu trả lời tất yếu cho sự lầm lạc khi đính hôn. Tâm trạng ông phơi phới đến tận tối. Trên bàn ngủ là tờ Báo Praha in truyện “Josefine” của ông. Đó cũng là một cớ để vui, thêm nữa Dora đang mặc một tấm váy dài mới, ông vui vẻ thậm chí cả vào giờ ăn. Ông không nhớ lần cuối cùng ăn ngon miệng như vậy là từ bao giờ.

Cả đêm ông nghĩ ngợi, không phải có nên làm hay không, mà là làm thế nào, vì ông không muốn phạm sai lầm; có những luật chơi mà ông muốn tuân thủ, ngoài ra còn những nghi ngại thường lệ về phía cha mẹ, dù ông không bận tâm đến họ. Ông không được hành động vì cắn rứt lương tâm, lương tâm ông đã nhiều lần cắn rứt bởi đã lôi cô vào cuộc đời này, từ ngày ở Müritz, khi lẽ ra ông phải hình dung được mọi hậu quả. Lại càng không được phép cưới cô vì hàm ơn. Không phải ông không biết ơn, nhưng chỉ biết ơn thôi thì chưa phải là lý do chính đáng. Đột nhiên ông thấy phải được bố cô đồng thuận, vì có thể đó sẽ là khởi đầu mới cho một người Do Thái. Sáng hôm sau ông xin được cưới cô. Ông không phải nói gì nhiều, vì cô đồng ý ngay. Đúng lúc cô vừa bưng đồ ăn sáng ra. Nhưng vì sao, cô hỏi, như thể không bao giờ tưởng tượng nổi. Người ta có nhất thiết cần phải có lý do để thành hôn? Để em đừng phí công trao cho anh tuổi trẻ, và những nụ hôn, những lời ấp úng, tất cả những đêm dài và những lời thú tội. Không đâu, cô nói, và nhắc lại: có, mặc dù cô không thể hình dung nổi sẽ được bố chấp thuận. Em có mơ không nhỉ, cô nói. Anh vừa hỏi em thật đấy ư? Nhưng còn bố? Tiếc rằng ông không biết bố cô. Trước đây mấy tuần đã có lần anh nghĩ đến chuyện viết cho bố về chúng mình, những gì xảy ra với chúng mình, và chúng mình đang sống ra sao. Nhưng sao lại phải phí công? Anh yêu, cô nói, đúng lúc Robert gõ cửa. Cô gắng trấn tĩnh, ông vò tóc cô cả trăm bận nên trông cô bây giờ hơi xộc xệch. Thật may vì Robert không nhận ra, tuy nhiên có vẻ như anh giật mình ngơ ngác, có chuyện gì mới phải không, và Dora tiết lộ chuyện mới đó là gì.

Ông viết đến tận sáng hôm sau mới xong thư. Thư không dài, ngót hai trang. Ông tự giới thiệu tên tuổi, kể về công việc, những năm ở công ty bảo hiểm, về hưu từ một năm nay, rồi kể đôi chút về gia đình, bố mẹ, anh chị em, quan hệ của ông với văn hóa Do Thái. Ông không tìm cách giấu giếm rằng mối ràng buộc đó chẳng sâu sắc lắm, tuy nhiên ông đã học hỏi được ít nhiều từ khi quen Dora. Ông nói đến những buổi học ở trường đại học và vì sao ông tin đã chọn hướng đi đúng, có vẻ hơi quỵ lụy quá mức. Chuyện bệnh tật ông chỉ nhắc sơ qua, đại khái ông hiện đang được điều trị tại một an dưỡng đường gần Vienna. Dora đang ở chỗ ông, cô biết mọi chuyện, và nay ông xin được cưới cô, tin tưởng sắt đá sẽ làm một người chồng tốt. Do chưa thấy hình bố Dora bao giờ nên ông khó tìm được cách giãi bày thích hợp, người ta không rõ đang nói chuyện với ai, nhưng Dora bằng lòng với những gì ông viết ra, cô chỉ chú tâm một chuyện duy nhất là ông muốn cưới cô. Cô chưa dự một đám cưới nào trong đời, cô kể, đám cưới đầu tiên mà cô sắp đi dự lại là đám cưới của chính mình, trong tháng Năm, cô hy vọng, khi họ được ra ngoài trời, xuống vườn. Tất nhiên phải có mặt Ottla. Elli, lũ trẻ, bố mẹ - nếu đường đi không quá xa, rồi Judith và Max nữa, hoặc có thể chỉ Max và Ottla. Đại khái thế. Được không ạ? Thư chưa đem ra bưu điện, lát nữa cô sẽ đi gửi, bì thư đề xong rồi, phải đợi thôi.

8

Từ khi được ông ngỏ lời, Dora cảm thấy mình như biến thành một người khác. Như nhận ra trong mình những nguồn lực hoàn toàn mới mẻ. Cô không được phép ngơi tay để giành được ông và lo cho ông được săn sóc tử tế. Họ cần một thầy thuốc giỏi, một người không xếp ông vào những ca vô vọng mà động não tìm cách điều trị mới. Max đã gọi điện cho cô biết phải tìm đến ai, và thế là đầu tháng Năm cô kiếm cớ đi Vienna, đến bệnh viện và đặt một bác sĩ nữa, hẹn chiều đến gặp. Trên tàu về nhà, cô viết cho Elli. Cô thú thực hết những gì mình đã làm, Franz hoàn toàn không được biết, nhất là vào lúc này, vì cô rất cần tiền, chỉ lần này thôi, sau khi bác sĩ đến khám cho Franz thì nhất định sẽ chỉ thị những gì cần thiết. Giáo sư Neumann. Tiếc rằng ông không tự đến khám được, mà cử một bác sĩ khác. Bác sĩ Beck đến đúng giờ, dáng vạm vỡ, cử chỉ thong thả. Ông tiêm một dung dịch cồn phức tạp để giảm đau. Nhưng không thể làm gì hơn. Thanh quản và một phần vòm họng đã bị hủy hoại nặng, và tiếc thay, nỗ lực cắt dây thần kinh thất bại. Nghe thật đáng ngại, nhưng cụ thể nghĩa là gì? Dora đưa bác sĩ Beck sang phòng đọc đúng lúc có mặt ai đó, và ông cho cô biết sự thật. Ba tháng nữa, bác sĩ Beck nói. Ông khuyên nên họ về Praha nhưng cô từ chối ngay, vì nếu cô đưa Franz về Praha thì ông sẽ biết ngay mọi hy vọng đã tiêu tan. Dĩ nhiên ông để cô tự quyết định một mình, bác sĩ Beck nói. Ông nghĩ cô là vợ Franz. Ba tháng là tối thiểu hay tối đa? Cô tiễn bác sĩ Beck ra cửa, chúc ông trở lại Vienna bình yên, dõi theo ông một hồi lâu, như tê dại, lả người vào khung cửa, cho đến khi chầm chậm hiểu ra.

Có vẻ như đó là kết cục mà Robert đã dự tính từ lâu. Robert cố an ủi cô qua điện thoại, khuyên cô nên ra ngoài đi dạo, vì Franz không được thấy cô trong trạng thái này. Đi lại làm cô thoải mái, cô lên tận đồi nho, ngồi một lát bên rìa đồng cỏ và ngẫm nghĩ về cuộc đời, về thời gian còn lại bên Franz, uất ức và tuyệt vọng, nhưng rồi lại thanh thản đến khó tin, sẵn sàng bướng bỉnh chấp nhận số phận. Mọi thứ thật kinh hoàng, nhưng trong cô lờ mờ lan tỏa một cảm giác bình an. Cô khóc và cầu nguyện suốt dọc đường về, suýt ngã mấy lần, rồi tiếp tục đến tận sớm mai, khi cô làm bữa sáng cho Franz như thường lệ. Từ miệng cô, Franz sẽ không biết gì về thể trạng của mình. Họ sẽ thành hôn và chung sống ở đây. Chẳng phải cô đã biết ngay từ đầu rằng nên cảm ơn mỗi ngày? Mũi tiêm hôm qua có tác dụng đôi chút, tuy vậy Franz có vẻ bức bối, tựa như linh cảm được điều gì, và đã có vài phút không vui, vào buổi tối, trong phòng cô, lúc cô lại nhen nhóm hy vọng và nghĩ đến nam tước phu nhân, lúc cô cố không muốn tin rằng tấm gương của nam tước phu nhân không có giá trị với Franz. Cô gọi điện cho Robert và không cần cầu khẩn gì nhiều, vài hôm nữa Robert sẽ quay về và giúp cô chăm người bệnh. Cô gọi điện cả cho Max, nói thẳng cho ông biết không còn phương cứu chữa nữa, điều mà cho đến lúc đó cô không lộ ra cho Elli và bà mẹ biết, cũng bởi họ chưa bao giờ gặng hỏi, theo thói quen xưa nay, tựa như bệnh tật là một chuyện chìm nổi bất tận. Franz không ngờ vực gì khi có bác sĩ đến khám, không hỏi ông ta từ đâu đến và tại sao, thậm chí nỗi lo tiền bạc cũng không khiến ông bận tâm. Ông rất yếu, nhưng ông mỉm cười khi cô đến, ông đau, có thể nhận ra trong mỗi miếng ăn, cho dù ông gắng giấu không cho cô nhận thấy. Buổi tối ông uống vang, hỏi có thư không, bao giờ Robert quay về, muốn biết Max gọi điện nói gì. Mấy hôm nữa Max sẽ đến thăm họ. Thôi được, nếu là Max thì không sao, vì ngoài ra ông không muốn thấy ai bên cạnh.

Cô ngồi đợi Robert. Biết đâu anh chàng Robert này làm được gì đó, hay chính Franz, vì nói cho cùng thì cứu tinh luôn tiềm ẩn trong chính mình. Không có gì thay đổi từ sau lần bác sĩ Beck đến khám. Nhờ mũi tiêm ông ngủ tốt, song cô sợ, có thể thuốc này có hại và cướp đi khả năng đánh thức sức đề kháng cuối cùng. Cô không chắc. Khi thì cô chỉ có ước vọng duy nhất là ông không bị đau, lúc khác cô tự an ủi bằng cách cầu nguyện, Franz phải sống, và phép mầu đâu phải đã mất hẳn. Ban nãy cô hứa với Elli trong điện thoại sẽ viết thư hằng ngày, thật ra vì cô hầu như không có sức gọi điện, cô cảm thấy trống trải và trì trệ, mong được cảm thông. Cho tôi xin, tôi sẽ không viết thư hằng ngày đâu, cô tự bào chữa, tôi không chịu nổi nữa, hãy thương tôi. Hôm qua cô được mấy giờ hạnh phúc. Franz lại muốn uống vang cùng cô, trong niềm vui chỉ riêng mình ông biết, ông không thấy đau. Cô chỉ viết thư tiết lộ riêng cho Elli. Hồi ở Müritz, ngỡ Elli là vợ Franz nên cô không mặn mà lắm, song giờ đây cô coi Elli gần như là bạn tâm giao, từ khi cô kêu cứu ở Vienna và được đáp lại tức thì, bằng những lời nồng nàn trìu mến.

Cô thích nhất được ngồi viết trong phòng ông, vài dòng gửi đến cha mẹ ông, trong khi có Franz nằm trên giường. Đây là lá thư đầu tiên từ ngày bác sĩ đến khám, song cô chỉ kể về thời tiết lạnh lẽo kéo dài, không khí trong trẻo, những đồ ăn thức uống đôi khi cô tự tay làm. Cô đã nhận được tấm chăn lông vũ có vỏ bọc và nệm lông ngựa, tiếc là cái gối không đến, có lẽ nó mắc ở bưu điện Vienna, sắp tới về đó cô sẽ hỏi. Cô cẩn thận hỏi thăm cha, không phải vì Franz muốn thế, chủ yếu vì cô nghĩ đến bố mình cho đến nay chưa viết thư trả lời. Có thể thư đang trên đường đến, nhưng câu trả lời rốt cuộc sẽ thế nào, khi mà bố cô chỉ nghe lời giáo sĩ của ông. Trước đây mấy năm Franz cũng làm quen với một giáo sĩ Do Thái mà theo ông kể lại thì thật buồn cười, một ông râu ria xồm xoàm dữ tợn vận áo choàng lụa, nhìn thấu cả quần lót bên trong. Riêng hình ảnh đó khiến cả hai phì cười. Có vẻ như Franz lại lạc quan hơn, ông muốn cô mặc tấm váy dài màu xanh lá trong dịp sắp tới, và đến lượt chính cô cũng nghĩ dịp đó sẽ diễn ra, cưỡng lại thực tế, giống như hầu hết mọi giấc mơ đều phản lại thực tế.

Sự hiện diện của Robert đã tiếp sức mạnh mới cho cô, hơi thở như thông suốt hơn, vài tuần nay lúc nào cô cũng hộc tốc. Cô lo việc thư từ và điện thoại qua lại, mà không được phép nói dối, cũng chẳng thể nói sự thật, đi chợ, nấu ăn, mất vài giờ đồng hồ cho một bữa ăn đưa từ nhà bếp lên cho ông rồi lại đem trả. Mấy hôm nay hiếm khi Franz ra khỏi giường, cô thêm việc lau người cho ông, một công việc vừa thích thú vừa kinh hãi, vì người ông chỉ còn da bọc xương, cô hôn lên khắp làn da sốt nóng hầm hực, áy náy bởi cảm giác đang làm một điều cấm kỵ, cứ như cô không được phép thấy ông trong trạng thái ấy. Ông lại bắt đầu thều thào, đôi khi không hiểu nổi ông muốn trở mình hay uống nước. Đừng bực mình, ông nói, và cô đáp: Em bực mình với anh? Làm sao em có thể bực với anh được? Ottla viết thư sau một thời gian cách quãng, cô trả lời ngay. Ottla xinh đẹp yêu quý, cô viết, dù trong khi viết cô không nghĩ nổi điều gì nên hồn, cô cảm thấy mình như câm điếc, và mừng vì còn có Robert thay cô làm việc này việc nọ.

Tối qua tại phòng đọc sách họ kể cho nhau nghe đã làm quen Franz ra sao. Họ trò chuyện lâu về gia đình ông, về khoản tiền cô xin Ottla và hy vọng sắp được chuyển. Robert chỉ vắng mặt vài bữa, nhưng rõ ràng anh không tin có thể kéo dài ba tháng, vì Franz mỗi ngày một xuống dốc. Anh đề nghị được thay cô viết thư cho gia đình, để cô có nhiều thời gian hơn cho Franz, và cho chính cô nghỉ ngơi đôi chút. Người ngoài hầu như không biết chính Robert cũng ốm đau, anh nhợt nhạt, khẳng khiu, tuy còn đầy đặn hơn Franz hồi ở Müritz. Mỗi lần nhắc đến Müritz Dora lại thấy dạt dào trong tim, nhưng đôi lúc cô nhận thấy những hình ảnh xưa cũ có chiều biến đổi, nó không làm cô xúc động, và ngày càng xa xăm, không còn quan hệ mật thiết với những gì diễn ra hằng ngày ở đây và hôm nay. Dường như những tuần đầu với Franz đã đông cứng lại thành một vật thể mà người ta nắm được trong tay, vì nó từng có ý nghĩa vô cùng sâu xa, một bình hoa, một viên sỏi ngũ sắc, một vỏ sò, một vật không mảy may làm sống lại ý nghĩa của chính nó ngày nào. Buổi chiều cô ngồi bên Franz hồi lâu ngoài bao lơn. Bình thường ông vẫn thức dậy khi cô ở cạnh, lần này thì không, ông ngủ li bì, ngậm miệng, buộc cô so sánh ông với một vị vua, với một người không cho ta dễ đoán ra họ đang nghĩ gì, tựa như ông đã vô cùng xa cách với tất cả, ông bận bịu với đủ mọi ý nghĩ, giống hệt ngày xưa, lúc ông ngồi bên bàn viết.

Mấy hôm nay Franz hầu như không nói. Bác sĩ Hoffmann chỉ định một chu kỳ cấm khẩu và Franz tuân thủ khá tốt. Ông nói bằng những mẩu giấy nhỏ, viết lên đó những ý nghĩ hay câu hỏi, ban đầu hơi có vẻ miễn cưỡng, dường như ông không mấy coi trọng việc này, chỉ nghĩ đó là một trò đùa thoáng qua, và ông, một cựu công chức, hoàn toàn thông cảm được. Những lần đầu ông viết như đang ký nhận hồ sơ hoặc tài liệu quan trọng nào đó. Còn Dora phải cố làm quen với tình trạng mới, ít lâu sau cô thấy thú vị, cô có trong tay nét chữ của ông, cuộc trò chuyện không hẳn vì thế mà quan trọng hơn, nhưng có thể chính xác hơn, cô cũng đồng thời nhận ra rằng lời nói không hề cần thiết; người ta có thể nắm tay nhau, nhìn mắt nhau, người ta có thể gật đầu, nhíu mày, và cảm nhận về sự tồn tại của một sợi dây liên hệ trong lúc ấy. Tiếc rằng ông chẳng chịu ăn gì nữa. Ông đã cố gắng hết sức, nhưng không thể, không phải vì cổ họng, bởi nó hầu như không đau, mà vì ông không ngon miệng. Dora cố dỗ dành ông, cô nài nỉ, nhưng ông luôn lắc đầu, cảm thấy được khen rồi lại bị chê một cách bất công, gọi đó là trò nhọc công vô tích sự, mất hết niềm tin. Anh làm khổ mọi người, thật là điên rồ, ông viết. Và một lần khác: Em chịu đựng được chuyện này mấy năm nữa? Anh sẽ chịu đựng được mấy năm nữa tình cảnh em phải chịu đựng này? Khi ấy cô ngộ ra rằng ông tính thời gian bằng đơn vị năm, và sẽ không tin vào thời hạn ba tháng theo lời ông bác sĩ, cái tay Beck ấy có lẽ không nhận ra những sức mạnh vĩ đại. Cô hình dung ra một ngọn lửa nội tâm, một cái gì đó tự tái tạo, có thể không hẳn chỉ là nó, nhưng nó là mạch nguồn chính yếu nhất, vì ông biết yêu và được yêu đáp lại, từ trái tim lớn của mình, dành cho từng người và cho tất cả.

9

Từ ngày Robert đến nhà điều dưỡng, Dora có vẻ bình tâm hơn. Cô không phải hớt hải liên tục, thỉnh thoảng có thể đọc sách, may vá hoặc ngồi bên bàn kể những chuyện kỳ khôi về đám bệnh nhân suốt ngày tụ tập ở các phòng sinh hoạt chung, về nam tước phu nhân tiếng tăm mà Franz vẫn ưa lấy làm ví dụ. Song tình trạng kém ăn ngày càng tệ của Franz không cách nào xoay chuyển. Mỗi khi Dora bước vào với mùi đồ ăn thoang thoảng, ông đều biết phải cố ép mình để chiều lòng cô. Ông đã tương đối quen việc trò chuyện bằng giấy. Họ hơi bị áp lực vì phải tiết kiệm, ông không lạ, có một số điều không được phép nói ra, những đêm dài sợ hãi, nỗi thất vọng khi chưa nhận được thư của bố Dora. Ông nghĩ, có thể vị giáo sĩ bất ngờ đồng ý cho cưới, nhưng ông bố không nghe lời, hoặc ngược lại, giáo sĩ phản đối nhưng ông bố vì quá gắn bó với con gái mà tìm lối thoát khác. Nhà xuất bản đáng lẽ đã phải gửi bản thảo đã biên tập của cuốn truyện ngắn mới, nhưng vẫn chưa thấy đâu, riêng một chuyện này đã làm ông khá sốt ruột. Nhưng, ông nghĩ, chừng nào người ta vẫn còn có thể đợi, thì hy vọng chưa hẳn đã tắt lụi. Ước gì ông khỏe lên chút ít, và chuyện ăn uống đừng quá nặng nhọc như thế, ông sẽ nghĩ vài ý tưởng, sẽ về sống ở nông thôn, gần nhà Ottla, nếu được phép gọi đó là ý tưởng, vì từ nhiều tuần nay tư duy của ông chỉ quẩn quanh không có gì mới. Những buổi khám của bác sĩ lặp đi lặp lại. Giáo sư Hajek từ Vienna đã tới và thất bại khi thử tiêm thứ dung dịch cồn chữa viêm thanh quản. Một bác sĩ khác, ông Glas, cũng báo sẽ đến. Có mấy loại thuốc và phương pháp mới. Bệnh nhân cần tắm ngâm hai ngày một lần, yêu cầu này thoạt tiên có vẻ bất khả thi, nhưng nhờ có Dora mà rồi cũng ổn thỏa.

Hôm sau Ottla tới thăm. Cô đã giục từ lâu, họ gọi điện nhiều lần, cả cậu em rể Karl cũng nhất định đòi đi cùng. Họ đến nơi lúc gần trưa. Tình cảnh hơi buồn, nhưng mọi người đều cố gắng, có trời biết bao giờ lại gặp nhau lần nữa, hơn nữa trời nắng rực rỡ, nên mọi người đều có chút hưng phấn. Ông vẫn chưa được nói, nên rất vất vả với các mảnh giấy. Mọi người trò chuyện về hồi ở Praha, những căn phòng kỳ quái mà Franz từng có, chuyện ông bố trước đây mấy năm trị lũ bọ ra sao, một loại côn trùng kinh khủng, vài giai thoại ở Zürau. Hai giờ chiều, Dora và Karl đi ăn. Riêng Ottla không biết làm gì cho phải, cô đứng trong khung cửa, xúc động ngẫm nghĩ, rồi cô ở lại. Cô rất nhớ anh trai, cô nói, và rất mừng vì có Dora ở đây. Dễ nhận thấy cô định nói gì khác nữa mà khó quá, cô dợm giọng mấy lần, nhưng cô không nói ông cũng biết. Chẳng phải Ottla vẫn luôn như một mảnh gương soi của ông hay sao? Cô muốn biết sức khỏe của ông thật sự ra sao. Anh không việc gì phải tỏ ra vui vẻ chỉ vì em, cô nói, và ông dài dòng cảm ơn vì những tháng ở Zürau, vì tất cả những gì cô đã làm cho ông. Mọi người đều sợ, ông thì thào. Cũng dễ hiểu, vì chính ông là người sợ nhất. Cô gật và thì thào, cô cũng sợ như mọi người, và giờ thì ông thấy không thoải mái với sự có mặt của cô. Cô theo dõi cách ông vất vả ăn uống, nhìn ông vụng về ăn món xúp do Dora nấu. Chuyện đã gần hết. Họ đến vội vàng ra sao thì cũng đi vội vàng như vậy. Karl chỉ khẽ gật đầu khi chia tay, trong khi Ottla dùng dằng mãi không đi nổi. Cô đứng đó, tay trong tay với Dora, và ông nghĩ, có lẽ đó là hình ảnh đẹp nhất, khi họ đứng bên nhau như hai chị em.

Quan hệ giữa ông và Robert nhanh chóng dịu đi. Ngày trước, mỗi khi nhận được thư Robert ông thường có cảm giác bị thúc ép. Những dòng thư của Robert có gì đó như đòi hỏi, tựa như những gì ông đem lại cho Robert chẳng bao giờ đủ, thậm chí cứ như Robert có toàn quyền về ông, như một người tình, và đó là một ý nghĩ khó chấp nhận. Nhưng cảm giác ấy nay đã tan biến. Robert không hề tạo ra bất cứ cớ gì để người ta mếch lòng, mà ngược lại, anh lo toan một cách tận tụy, luôn có mặt khi người ta cần anh, đôi khi đêm đến, khi Dora ngủ, anh đứng ở cửa hoặc cạnh giường, sẵn sàng khăn chườm, lọ thuốc hay một lời an ủi. Thậm chí Franz còn để cho Robert lau người, dù Dora không thích thế, nhưng công việc ấy đã vất vả lên nhiều, vì phải nâng hoặc xoay người Franz mà Dora thì không đủ sức. Cô thường lau mặt ông bằng khăn ướt để ông thỉnh thoảng bén mùi cô, trong khi Robert thản nhiên đảm nhận những phần việc khó nói hơn. Ông chú hẹn tới thăm vào hôm nay. Như thường khi, ông ầm ĩ bỗ bã, nói dai nói dài về chuyện du lịch, về thành phố Venice tuyệt đẹp mà ông khuyên mọi người đều phải đến xem, và ông không ngồi yên lấy một phút. Ông nói với Robert: Cậu đại khái là đồng nghiệp, phải không? Là một bác sĩ tầm tầm ở nhà quê, tất nhiên ông không thể đánh giá rành rẽ mọi chuyện ở an dưỡng đường, nhưng thoáng nhìn qua có vẻ mọi thứ đều lý tưởng, từ phòng ốc đến quang cảnh bên ngoài, thêm vào đó là Dora tuyệt vời mà ông đã quen trước ở Berlin, từ ngày ông phán phải chấm dứt ở Berlin ngay. Ông hỏi dò về các bác sĩ, bắt giải thích cặn kẽ, ai chẩn đoán gì và khi nào, và ông không thèm biết đó là bác sĩ hay giáo sư. Hai tiếng sau, ông nhấp nhổm muốn về, chỉ vì Robert bóng gió nói đã đến lúc. Ông bắt tay Franz, ôm Dora, khuyên cô nên lo cho chính mình. Cố lên nhé, ông nói, các con nhé, xong ông biến mất.

Phút cuối cùng, Dora cho Ottla biết họ định cưới nhau. Cô kể, không chỉ một lần, Ottla mừng rỡ ra sao, cô ấy rất phấn khích, anh không thể tưởng tượng được đâu. Cô cũng nhắc đến lá thư, họ đã mỏi mắt đợi thư trả lời, và thật ngẫu nhiên, họ đang nhắc thì nó đến. Dora dự cảm nó không đem đến tin tốt, quả nhiên, đó là một bức thư từ chối. Phải, ông tiến sĩ đã tự nêu lý do, ông xuất thân từ một gia đình ít có ràng buộc về tôn giáo, tự kể ông mới bắt đầu quan tâm đến tôn giáo của tổ tiên, do đó không thể tạo dựng mối gắn bó khăng khít. Giọng điệu thư không gay gắt, nhưng người viết không để ai nghi ngờ về chủ ý của mình, cuối thư không quên chúc ông tiến sĩ chóng bình phục, gửi lời chào Dora đã lâu lắm không có liên lạc, vậy là bản án đã tuyên. Franz có tin nổi không? Dora dường như còn thất vọng hơn ông, rõ ràng cô cưỡng lại lý trí để hy vọng, và bây giờ hai người ngồi sững, không biết phải làm gì. Franz đã gửi gắm mình vào tay bố Dora, có nghĩa là ông không thể đơn giản gạt lời từ chối ấy qua một bên, ông sợ đó sẽ là một điềm gở, gở như chính lá thư ấy vậy. Dora cố trấn an ông. Chúng mình có nhau mà. Chẳng phải vậy sao? Mặc dù vậy, đó là một đòn choáng váng. Ông cảm thấy sức lực chuội dần đi, hay vì cuộc thăm viếng kép đã cướp của ông sức lực, như mọi cuộc thăm viếng khác, và trong tâm trạng sầu thảm đó họ gặp Max. Ông có công việc ở Vienna vài hôm và cố gắng động viên họ mấy lời. Ông hỏi thăm bản thảo đã biên tập đang được gửi đi, ông đọc lá thư, cho rằng nó vụng về hơn là tệ hại, tuy tác động của nó đúng là tệ hại, mặc dù sai lầm lớn nhất là nó đã được viết ra trên giấy. Ông nói bóng gió đại loại thế. Hoặc do ông tiến sĩ tưởng tượng ra, vì ông khó tập trung đầu óc, thêm nữa hai người họ chẳng có gì để nói. Mọi chuyện đều lùi xa, chuyện Emmy, Max đang làm gì, có việc gì ở Vienna, như thể tất cả đều không liên quan đến ông. Mấy tuần rồi ông không viết được chữ nào, nhưng Max không hỏi chuyện ấy. Họ chia tay, chưa nói được gì nhiều với nhau. Về sức khỏe sẽ không bao giờ hồi phục của ông. Và có lẽ họ không còn gặp nhau nữa.

Mấy ngày liền, ông sợ. Đêm đến, khi ông thức trắng, khi xung quanh chỉ là im lặng, khi ông cố lắng nghe như tìm kiếm điều gì, nghe tiếng an ủi của nước chảy róc rách trong khối im lặng đặc sệt, nghe tiếng vài bước chân, tiếng thủ thỉ bên hàng xóm, thế là ông đã có chút gì đó trong tay, một minh chứng nhỏ xíu rằng cuộc sống chưa ngừng lại, chỉ đang là đêm mà thôi, rồi ban mai sẽ bừng tỉnh tinh khôi.

Robert đem một túi anh đào từ Vienna đến, những sứ giả đầu tiên của mùa hạ. Đã giữa tháng Năm, và lâu quá rồi ông chưa ra ngoài trời, chỉ năm thì mười họa ra tới bao lơn, mà cũng ngày một thưa. Ông đã nuốt được, ăn được một chút, khi Dora nghiêm khắc canh chừng, cô bắt ông đi ngủ sớm, chậm nhất chín giờ hay chín rưỡi đã phải lên giường. Khoảng nửa đêm cô thường ngó vào lần nữa, nếu ông còn thức thì cô ngồi xuống bên ông, có những điều chỉ nói ra được trong bóng đêm, về nỗi sợ của ông, những điều ông hối hận, lá thư, và ông không thể làm gì khác, rồi lại về nỗi sợ. Khi cô hôn ông, mọi chuyện thoáng nhẹ nhõm hơn chốc lát, ông dường như quên được ông đang ở đâu, ông là ai, cảm giác thoáng giống như dạo mùa hè cũ. Sự hiện diện của cô chẳng phải là một phép mầu hay sao? Cô đang sống, độc lập với ông, ngay trong giây phút này, ở nơi đây, điều ấy chẳng phải là một phép mầu hay sao? Lồng ngực cô thở, trái tim cô đập, và có những trái tim biết đập khác nữa, tất cả chẳng phải là một phép mầu hay sao?

Ông đã chấp nhận tình cảnh chẳng viết được chữ nào. Vì vậy ông càng mừng hơn, khi Dora đưa bì thư với những trang bản thảo đầu tiên và ông tận mắt nhìn thấy đã có một thời khác hẳn. Chưa bao giờ ông thực sự chăm chỉ, nhưng ông đã có chút thành công, trước mắt ông những truyện ngắn, và trên trang bìa tên ông, chưa có gì thực sự ra tấm ra món, nhưng đây thực sự là một chồng giấy in chữ đẹp. Ông đọc Nghệ sĩ nhịn đói, chỉ đọc, hầu như không sửa chữa, mắt rưng lệ. Liệu bây giờ ông còn viết được như thế không? Ông ngồi gần như thẳng lưng trên giường và hy vọng không bị ai quấy quả, đôi khi ông y sĩ ngó vào và không dễ xua đi. Hơn một tiếng liền không có ai bước vào. Ông có thì giờ để hồi tưởng, đôi khi ông gạt những trang giấy qua bên, tận hưởng trạng thái gần như được làm việc chút ít đó, ông có công việc cho cả mấy hôm tới nữa, quả thật không tin nổi.