- 4 -
10
Franz chỉ cho cô xem thoáng qua lá thư từ chối, nhưng cô điên tiết đến tận mấy ngày, những lý do khiến cô bỏ nhà ra đi quá rõ, chẳng cần phải nhắc lại, hai lần trong hai năm, lý do khiến cô không thứ lỗi và không viết thư cho bố. Nhận thấy Franz vô cùng ức chế, cô vắt óc tìm cách thuyết phục bố nghĩ lại, nếu bố biết được Franz đang ở trong tình trạng nào và không sống được lâu nữa, liệu có ý nghĩa gì việc Franz là người Do Thái thực sự, khi ông chết, lúc ấy còn ý nghĩa gì? Ý nghĩa gì nào? Chả là của nợ gì cả. Chỉ có nghĩa là bố không có lòng vị tha, bố có Chúa, nhưng không hề có chút vị tha, có lẽ cô sẽ không viết thư cho bố nữa. Franz nói rồi: mình phải chấp nhận, mình phải sống với lũ, mình phải sống với nhiều thứ khác nữa, kể cả những điều không tưởng. Hôm nhận được thư, cô gặp bà Hoffmann ngoài hành lang, cô òa khóc và kể hết cho bà. Sau đó cô nhận ra mình thật sai lầm, vì từ đó trở đi ông bà Hoffmann liên tục giục cô phải cưới Franz càng nhanh càng tốt, phải nghĩ đến tương lai, rất tiếc là không còn nhiều thời gian nữa đâu. Lần đầu họ lịch sự mời cô vào phòng họp, hai người ngồi đó với nét mặt nghiêm trang khiến cô hoảng hốt tự hỏi không biết có chuyện gì xảy ra. Bà Hoffmann trịnh trọng lên tiếng, họ chỉ muốn tỏ thiện chí, họ sẽ lo mọi thứ cần thiết, mời một giáo sĩ Do Thái và một nhân viên phòng giá thú. Dora vội từ chối, vì như thế không hợp ý Franz. Tùy hai người thôi, hai vợ chồng nói, và Dora cho rằng sự việc chấm dứt ở đây, nhưng cô lại sai lầm, bằng cách này hay cách khác, vợ chồng ông bà Hoffmann vẫn không ngừng nhắc lại chuyện này hết ngày này sang ngày khác. Hoặc ông chồng hoặc bà vợ kéo cô ra thì thầm, rồi cả ông y sĩ cũng vào cuộc, nhưng Dora khăng khăng lắc đầu, cô chỉ muốn trốn biệt vào một xó.
Cô không hé một lời với Franz về những cuộc trò chuyện ấy. Nhưng dường như ông có linh cảm, ông hỏi có chuyện gì mới không, có điều gì anh cần biết không, khiến cô phải trả lời lửng lơ rằng cô đã nói chuyện với bác sĩ Hoffmann, vài câu ngắn thôi, họ rất mừng vì ông ăn và uống được nhiều, mỗi bữa thêm cả bia và vang. Cô tin tưởng nhất bác sĩ trẻ Glas, mỗi tuần ba lần anh từ Vienna tới và khuyên cô lén cho Somatose vào bia, không cho Franz biết. Ông thấy bia không ngon nhưng vẫn uống, không phản đối. Cô cũng thử nhiều cách với đồ ăn, thường xuyên thêm trứng vào, không mong đợi gì nhiều hơn ngoài giúp Franz lại sức đôi chút. Từ khi bản thảo gửi về, có vẻ như ông bắt đầu tận hưởng cuộc sống leo lắt ở an dưỡng đường, ông ngồi trên giường chữa bài, không nhiều, chỉ lác đác vài chữ, đến khi không ngồi được nữa. Có lần ông viết: Thiếu R. làm sao chúng ta có thể tồn tại lâu như vậy? Vì trong khi Dora hầu như không ra khỏi nhà thì Robert cứ vài hôm lại đi Vienna, lần nào anh cũng đem về hoa tươi, đôi khi quá nhiều, hoa táo gai, hoa ngâu, bạch đinh hương.
Cô thích nhất những khi hai người ở trong phòng, ai làm việc người nấy, khung cảnh gợi nhớ đến Berlin, đến những buổi tối ông viết lách trong sự hiện diện của cô ở đó. Xung quanh yên lặng và kín bưng, hình ảnh ông ngồi viết, lưng cúi trên bàn, lờ mờ sắc thái thành kính nhưng đồng thời thanh thoát, vào những tuần đầu, khi cô còn gần như thấy kính nể công việc của ông. Praha gửi về một bản Dân chuột. Franz đã chỉ cho cô xem tờ báo, nhưng bây giờ cô mới bắt đầu đọc, vì Robert cũng đọc và muốn biết cô nhận xét truyện ấy ra sao. Franz đã kể về chuột rồi. Không rõ ở Berlin hay từ Praha? Nếu phải thú thực thì cô không thích đọc truyện ấy, không hẳn vì chuột, chủ yếu vì cô sợ thứ sự thật mà cô không được chuẩn bị để đón nhận, sự thật về cô và ông, như ngày ấy trong truyện chuột chũi, cho dù cô chỉ xuất hiện bên lề câu chuyện. Ở dạng thịt. Như một thứ gì đó mà người ta vớ lấy khi có dịp. Khi người ta đói. Hồi ấy cô thấy thích, hơi kinh hãi vì sự thật đơn giản đến vậy. Đó là sự thật ư? May mà truyện mới khác hẳn, nhẹ nhàng hơn hẳn, cô có ấn tượng như vậy, mang vẻ giễu cợt tế nhị đối với nhân vật Josefine mà không cố gắng lắm cô cũng nhận ra đó là Franz. Lần này cô không hề xuất hiện, không sao cả, nhưng rồi lại rất tệ vì về cuối truyện Franz cô đơn khủng khiếp, Franz viết về cái chết của mình và những gì của ông còn sót lại bên cạnh vài ký ức. Đó là điều khủng khiếp nhất cô từng đọc trong đời. Thật may vì lúc này không có ai bên cạnh, quá mười một giờ đã lâu, cô ngồi thẫn thờ và nhìn vào một tương lai xa xôi không màu sắc, khi Franz không còn, lạy Chúa, hoặc khi cô không còn nữa, hình dung ra viễn cảnh ấy, với cảm giác không đường thoát, tất cả thật vô vọng xiết bao.
Mấy hôm nay Franz ngủ nhiều, nằm ngoài bao lơn dưới trời nắng, tựa như ông đã phiêu diêu tới những miền mà người ngoài cuộc như cô không bao giờ tới được. Trong bữa sáng nay ông nhờ cô viết thư lần nữa cho bố mẹ, Robert hết sức cố gắng nhưng đối với bố mẹ thì dù sao anh vẫn là một người lạ, có thể không phải lúc nào cũng nói được đúng ý. Họ không có nhiều điều để kể. Chỉ có thể trấn an và ngẫm nghĩ, liệu mọi chuyện sẽ ra sao nếu bố mẹ đến thăm họ và nhìn thấy Franz được nâng niu chăm chút ở đây như thế nào. Cô có nên viết rằng ông ngày càng giống một đứa trẻ hơn? Buồn cười vì chính ông nói đến chuyện đó đầu tiên. Ông áy náy vì lâu quá chưa viết thư, lý do là ông tránh xa những gì khiến ông phải làm việc hay cố gắng, ăn uống lúc này đã đỡ vất vả hơn so với khi phải dùng ống hút trước đây. Đó cũng là lần đầu tiên ông viết cho cha. Ông liệt kê những thứ hay uống nhất, bia và vang, Doppelmalz-Schwechater, và Adriaperle mà dạo này ông đã thay thế bằng rượu Tokaj, dĩ nhiên uống ít thôi, và chắc cha không thích thế, chính ông cũng không. À, ngày xưa cha cũng đi lính ở vùng này, đúng không? Cha đã nếm loại vang non Heuriger bao giờ chưa? Ông ước gì được cùng cha uống một trận túy lúy, tuy tửu lượng của ông không khá lắm nhưng cũng chẳng chịu thua ai.
Vài hôm nay ông bị tiêu chảy rất khó chịu, không uống được gì nữa, nói gì đến ăn, khiến Robert và bác sĩ Glas phải tính đến khả năng dùng ống xông. Mỗi ngày ông được tiêm hai mũi dung dịch cồn nhưng kết quả cũng hạn chế, mãi không hết sốt và khát. Ông đã bắt đầu chia tay mọi người, viết thư dài cho Max để buổi chiều Dora đem ra bưu điện. Vĩnh biệt nhé, ông viết, cảm ơn mọi chuyện. Ý nghĩ về hồi kết không ngừng xuất hiện nhưng lẩn quất lạ lùng, không cách nào nắm bắt được. Bà Hoffmann không thôi giục giã, thời gian không còn nhiều, hãy nhanh lên. Cô bàn bạc với Ottla qua điện thoại, chẳng mấy ích lợi, Ottla phiền não nói không ra hơi, nhưng vẫn cố động viên một cách yếu ớt và bất lực. Robert cũng ngả theo chiều hướng ấy. Còn cô ngồi bên Franz, thấy ông tiếp tục hy vọng, cô lại không nỡ hỏi.
Gần như trên mảnh giấy nào ông cũng nói đến uống. Họ nhớ đến những lúc bị khát, nhưng không cảm nhận thấu sự hành hạ mà ông đang phải chịu. Ông đòi loại nước khoáng tốt, chỉ để cho biết, đôi lúc uống được một ngụm, một cốc thì quá nhiều. Dora đưa cốc nước, ông lắc đầu, ghen tị với nhánh tử đinh hương đã tàn trong chiếc bình lớn, nó đang chết mà vẫn uống được nước, người chết thì không thể uống được. Ông mỉm cười viết ra điều đó, tựa như luôn luôn buộc phải viết tiếp để duy trì sự sống. Mấy hôm nay cô nhận thấy Robert thu cất những mảnh giấy ấy; mỗi lần Franz không nhìn Robert liền lén nhét chúng vào túi. Anh không hỏi có được phép không, nhưng có lẽ cô thiên về chấp thuận hơn là phản đối. Cô hầu như đã hiểu, đây là những ngày cuối, nhưng đôi lúc cô rối trí quá đỗi và không thể chấp nhận điều này. Nhìn ông đau đớn, cô cố ép mình tin rằng họ đã có tất cả, hạnh phúc đã trọn vẹn trong những ngày dồn nén này. Nhưng một lát sau cô chỉ muốn thét lên, thời gian dồn lại chưa đầy một năm. Cô sẽ mất hết, mất tất cả, khi ông không còn, đôi tay ông, miệng ông, sự bao bọc đã từng mang tên Franz, như thể tình yêu của cô là một căn nhà mà có kẻ muốn tống khứ cô ra ngoài mãi mãi.
Ông bà Hoffmann mời cô đến nói chuyện lần nữa. Cô đã thuộc lòng những gì họ khuyên bảo và nài nỉ, do đó cô nghĩ mình không bất ngờ, khi ông bà Hoffmann thực hiện những gì họ đã nói. Họ mời một công chức của cộng đồng Do Thái để cô và Franz làm lễ thành hôn. Cô nhận ra sự hiện diện của một người đàn ông ngay khi bước vào, trời đã ngả sang chiều, không khí chộn rộn, bác sĩ Hoffmann và vợ sẽ làm nhân chứng, họ nói đến tương lai của cô, cô không được chu cấp, phải biết tình hình rồi sẽ thế nào chứ, như thể đang dỗ dành một đứa con nít cứng đầu. Cứ thế họ bổ đầu cô ra để nhét vào đó một sự thật mà cô không cách gì hiểu nổi. Cô phản đối. Sẽ là một cuộc đời gì, nếu Franz không còn thì cuộc đời cô có ý nghĩa gì nữa? Cô không hiểu được, và nói với họ rằng cô chỉ thấy Franz trước mắt. Vì sao các người tước đi hy vọng cuối cùng của anh ấy? Bà Hoffmann nói: Như thế chẳng tốt hay sao? Ông ấy đã xin cưới chị chưa? Cô thừa nhận, ông đã xin cưới cô, nhưng bố cô không chấp thuận, chuyện ấy thực ra không quan trọng, vả lại nó xảy ra cũng đã vài tuần. Nói xong cô đứng dậy và ra khỏi phòng. Cô nghĩ cô sẽ im lặng với họ, cả với Robert, cô tổn thương vì Robert đồng lõa với họ, cô cảm thấy mình bị bôi bẩn, rồi cô cũng trấn tĩnh, và trở về bên Franz.
11
Franz trải qua những ngày cuối cùng trong tâm thế mỗi lúc một khác, ông nửa mê nửa tỉnh vì những mũi tiêm, cả ngày quẫn trí với chuyện uống nước, cơn khát không hề nguôi đi, mà ngược lại, ngày càng dữ dội. Ông mơ uống thay vì uống thật, thỉnh thoảng ông uống nước, mỗi tuần một chai Tokaj. Ông không cảm thấy đang sống những ngày cuối. Một trạng thái dao động, có thể ông không tin, đôi khi ông cảm nhận rõ ông chỉ còn là một cái xác bạc nhược, rồi vùng ngay dậy. Nhưng đáng tiếc ông không có nhiều việc để làm, bản thảo đã chữa xong và gửi đi Berlin từ lâu, bản biên tập lần hai chưa đến. Ông can đảm, cố gắng khi đến bữa ăn, và để Dora và Robert tắm rửa cho. Ông ngồi ngoài bao lơn, lật vài trang sách, không thích đọc báo dù không thiếu báo, trên bàn ngủ là mấy lá thư Praha mà người khác sẽ trả lời hộ hoặc không trả lời. Nếu buộc phải nói về thể trạng, ông sẽ thú nhận là chưa bao giờ ốm yếu như hôm nay. Nhưng ông vẫn tỉnh táo, ngoan ngoãn viết lên những mẩu giấy, khâm phục sự kiên nhẫn của Dora và Robert dành cho mình, mà trong trường hợp ngược lại có lẽ ông không thể có.
Khi một mình, ông hay nghĩ đến cha. Cho đến mấy tuần trước, trong tất cả các thư ông chỉ nói chuyện với mẹ. Ông viết cho cả hai người, nhưng thực ra nói với mẹ, còn bây giờ đột nhiên ông hay hình dung mình đi cùng cha đến rất nhiều quán ăn. Chỉ cần cha hiện diện, để cốt sao ông có cha ở cạnh, không như một sự hăm dọa, mà như một người cố đi ngang qua quãng đời này của ông như mọi người khác, có thể đó là một dạng tha thứ, từ một khoảng cách nhiều cây số đang chia cắt hai người. Nếu cha ở đây, có lẽ ông sẽ im lặng, nhưng cho đến phút này Dora vẫn ngăn được họ đừng làm chuyến đi dài. Nói cho cùng thì ông không hề cô đơn, có nhiều người chăm sóc ông, ở Praha chắc chắn không tốt hơn. Nếu có mặt ở đây, cha có hài lòng với đứa con đang chết dần? Có lẽ ông sẽ khen con trai, Franz nghĩ vậy, có lẽ ông chỉ không hài lòng với sự chậm chạp, vì cha là người nóng nảy, nhất là với Franz thì ông đã mất kiên nhẫn từ lâu, đôi khi không phải vô cớ. Có lẽ cha sẽ vỗ vai ông và nói: Hồi bé, con không thuộc loại nhanh nhẹn, nhưng hôm nay cha đang vui, rồi ngay một giây sau có khi ông sẽ nói hoàn toàn ngược lại. Sao lâu thế? Con thật lề mề, ai cũng biết, nhưng thế này không được, mọi người đang đợi, trời đất ơi, con định bắt mọi người đợi bao lâu nữa đây?
Người ngoài không thể nhận ra Dora nghĩ gì. Cô không rời mắt khỏi Franz, cả khi ông ngủ, ông ngủ rất nhiều, trên ghế dựa ngoài bao lơn, trên giường, không hề áy náy. Khi thức, đôi lúc ông khao khát thân thể cô, ông nhớ Berlin, khi có cô nằm cạnh, nhớ nhà trọ ở Müritz, khi cô hỏi: Anh có muốn không? Ông nhìn thấy miệng cô, cổ cô, bờ vai cô, da thịt cô dưới lớp áo dài, những nơi mà ông đã chạm vào trước đây trăm năm và vẫn còn muốn chạm vào nữa. Tối nay là cao trào, và lạ chưa, có vẻ như cô hiểu ra, vẫn như hồi họ còn khám phá nhau. Nếu cưới nhau rồi, liệu sẽ vẫn còn như cũ? Họ mơn man da thịt nhau, những chỗ người ta vẫn mơn man nhau, lay da thịt thức dậy chốc lát, đúng thế, trong điều kiện hiện tại cho phép. Anh cưng, cô nói, dù không thật chắc là đã nói, cô đang ở cạnh ông, nằm nửa người trên giường, và ông xúc động trào nước mắt khi thấy cô mơn mởn dịu dàng đến thế. Đã lâu rồi, kể từ lần cuối ông khóc vì bản thân và vì hai người. Họ lặng câm, tất cả ngập tràn một niềm an ủi của họ và chân tâm của họ, ông nghĩ, nếu điều đó có thật, chưa bao giờ ông thấy mình gần chân tâm của họ đến thế.
Cha mẹ Franz gửi bưu thiếp hỏa tốc. Dora phàn nàn không nhận được tin tức, cũng không có gì lạ vì họ thường đi du lịch. Thời tiết Praha rực rỡ, mọi người dạo chơi và vui vẻ tụ tập triền miên, khiến Franz thoáng ghen tị. Cả thành phố như đổ xô ra đường. Người ta ngồi bên bờ sông hay trên đồi, mỗi khuôn mặt với ông đều quen thuộc, ông lần lượt điểm lại từng người, hồi tưởng những buổi chiều đi bơi ở sông hồ, hay đi chơi du thuyền. Giờ đây, khi đã vĩnh viễn xa thành phố, ông ngắm lại nó với niềm hân hoan mới, giống như từng ngắm Milan hay Paris trước đây mấy năm, với ánh mắt đầu tiên, như một người mù yên tâm ngụp xuống, lần đầu tiên. Với con người cũng vậy chăng? Khởi đầu giống như một phép mầu, người ta chỉ thấy vẻ lạ lẫm lôi cuốn, tất cả đều tráng lệ, vì vậy người ta sẵn sàng chấp nhận mọi lầm lạc nho nhỏ. Nhưng thế nào là lầm lạc? Phải chăng ở đâu cũng có đường đi? Và con đường nào cũng đưa đến đích? Ta còn muốn đi qua con ngõ nhỏ xinh đẹp này, nó hơi dốc lên, ta không biết đang ở đâu, nhưng rồi, lên nửa đường, ví dụ như dưới thành cổ Hradčany, tầm nhìn làm ta ngợp thở.
Suốt ngày ông đợi bảo thảo biên tập lần hai, khi nó đến thì ông giật mình. Ông lại vui lần nữa khi đọc kỹ từng câu đã từng viết, lần này với ít bất ngờ hơn, vì ấn tượng còn tươi mới, và ông tập trung vào từng chi tiết nhỏ. Thật ngạc nhiên vì mỗi lần ông đều quên một điều gì đó. Quả thật người ta đã phải vận lộn với từng câu, để rồi chỉ nhớ những nét đại cương, và rải rác đó đây một vài chi tiết còn đọng lại, không hiểu cớ sao đột nhiên lóe sáng.
Ông nói chuyện với Robert về cái chết, liệu có sự trợ giúp trong phút lâm chung để khỏi chịu hành hạ. Dora đi chợ, họ có thể thoải mái trò chuyện, viết ra giấy những lựa chọn quen thuộc. Thứ ông không sợ nhất là chết đói, vì đúng ra ông đã có chút làm quen, ông sợ chết ngạt, chết khát cũng không dễ chịu. Kết cục sẽ ra sao? Vì sao cơ thể chết? Tim đột ngột ngừng, hay phổi, hay não, vì kết thúc thực sự chỉ khi người ta không tư duy nữa. Robert không bất ngờ lắm, anh đã suy nghĩ về chuyện này từ lâu. Có thuốc, anh nói, như thuốc phiện hay morphin, và anh sẽ không bỏ mặc Franz. Thật kỳ quái, vì người ta có thể nói khơi khơi như thế về chuyện này. Không phải lần đầu tiên ông tiến sĩ tự hỏi, vì sao Robert nói chuyện ấy, vì sao anh ta đến đây từ mấy tuần nay và không sống cuộc sống riêng của mình. Ông viết câu đó lên giấy. Vì sao bạn không lo cho cuộc sống riêng? Robert đáp, cuộc sống riêng của tôi là ở đây, trong phòng này, tôi ở bên bạn, tôi tận hưởng từng phút. Bạn không hình dung ra được? Một vài hôm thì được, ông nghĩ, có lẽ được. Ông tự nhìn mình, sự sống vẫn diễn ra, đúng thế, ông yêu nó, có thể yêu nhất từ xưa đến nay, khi đôi lúc ông vui vì những điều ngớ ngẩn nhất.
Ông làm việc không nhanh lắm. Ông sẽ không bao giờ được cầm cuốn sách hoàn chỉnh trong tay, điều này ông tin chắc, khi vẫn tiếp tục sửa bản thảo dưới trong ánh nhìn của Dora, ông hy vọng sẽ để lại được một cái gì đó, một minh chứng rằng ông đã nỗ lực, rằng ông đã có một nhiệm vụ và sẵn sàng tiếp nhận nó, bất chấp mọi phán quyết cuối cùng. Ông ngộ ra rất nhiều điều một cách muộn màng, có những điều chỉ có thể linh cảm, không hẳn đã hiểu. Nhưng ít nhất thì ông đã cùng Dora đi Berlin, ông đã quyết định không do dự, và cô vẫn còn bên ông lúc này, như vậy là quá nhiều so với những mong đợi liều lĩnh của ông. Cô đem hoa tươi về, và như mọi khi, cô muốn biết ông cần gì, nhưng ông không cần gì cả. Hương thơm lùa vào qua cửa sổ để mở, tuy không ngào ngạt như vào đầu mùa hoa, đã cuối tháng Năm, sắp đến mùa hè, mùa hè một năm trước họ quen nhau. Khi có Robert, cô rất thích hồi tưởng chuyện cũ, cô nhớ từng chi tiết mà ông đã lãng quên, hôm ấy trên cầu bến, khi ông đột ngột ôm cô. Anh nhớ không? Thực ra ông không ôm cô. Chỉ thoáng lướt qua, lần đầu tiên thử áp vào cô, và đó là một nghệ thuật mà ông đã khá thạo. Ông nhớ những đêm bên cô. Thật khó tin vì người ta có thể chọn một ai đó để nằm cạnh ban đêm và ngủ, cứ như đó là chuyện vặt? Bên cô, ông trở nên bạo dạn hơn. Hay ông đã bạo dạn từ trước, rồi mới đến bên cô? Ông ước gì có con với cô. Ừ, quả là khó hiểu, khi mọi ước vọng và khúc mắc đến phút cuối cùng vẫn tuôn trào.
12
Mấy hôm nay sức khỏe của ông dường như khá lên. Cô không rõ lý do, có phải vì ông có công việc chữa bản thảo, vì những lời thì thầm trong đêm khi cô kể cho ông nghe những chuyện tầm phào, chuyện cô hồi nhỏ, chuyện cô từ khi mẹ chết không cắt tóc mà tết thành hai bím dài. Cô kể về ngôi trường đã học, cô ước mình có những chị em như Ottla và Elli, để cô hằng ngày gọi điện và nói về những thay đổi kể cả linh tinh nhất. Nếu có thể thì cô tránh mặt vợ chồng Hoffmann. Có vẻ như họ đã bỏ cuộc, nhưng gặp mặt họ cô vẫn lúng túng khó nói chuyện, nhất là với bà vợ luôn nhìn cô bằng ánh mắt thương hại, như ánh mắt con cú mà cô mơ thấy từ vài hôm nay. Một giấc mơ cứ lặp đi lặp lại, mơ hồ. Con vật đứng im nhìn cô. Nó không làm cô sợ, ít nhất là trong mơ, khi nó chỉ là một con chim ngu xuẩn, một người khách như cô tự nhủ, một sứ giả, như khi thức giấc cô chợt hiểu ra, từ vài tuần nay cô đã biết vị sứ giả ấy đưa tin gì.
Có thư của Judith. Trong thư trước cô kể là rất bận rộn, còn hôm nay đột nhiên thế giới của cô đã sụp đổ. Cô có mang với Fritz, Fritz quay về với vợ, cô không thể đi Palestine nữa. Giọng cô đầy kích động, thất vọng, có nét gì đó lạ lẫm, tựa như cô đang sống một cuộc đời nan giải ở Berlin. Franz sắp chết, và Judith sắp sinh ra một đứa con mà cô rõ ràng không muốn, dẫu ở trong tình cảnh này cô vẫn thích giữ nó. Cô đang quẫn trí, cả ngày cả đêm lồng lộn trong phòng như sư tử trong cũi, quyết định thế này rồi lại thế khác. Dora không biết phải trả lời bạn thế nào. Cô viết thư mong bạn can đảm, lúc này cô không thể ra đi, đang trong tâm trạng cực kỳ khủng khiếp, sáng nào cô cũng hy vọng Franz thở, vì chừng nào ông còn thở thì cô còn chịu được mọi gánh nặng. Franz không buồn phiền vì Judith, ông mừng, Judith không đi Palestine, không sao, nhưng tại sao lại không, có lẽ cô nên bồng con về Palestine thay cho Dora và ông.
Đêm đến trên giường, khi thấy con chim báo tử, cô cố cầu nguyện nhưng vô ích. Cô không biết cầu nguyện gì, xin một phép mầu trong phút cuối, xin vượt qua được mọi thứ khi ông không còn nữa, vì cô mường tượng ra sự thiếu vắng ông sắp tới, cô sẽ mất ông. Gần sáng có tiếng gõ cửa, cô nghĩ ngay: Đến lúc rồi! Song đó chỉ là Robert, anh cho cô biết đêm qua không yên, Franz thức giấc nhiều lần và hỏi cô. Ông đập tay lên chăn bên cạnh mình, vui ra mặt khi cô đến, có vậy thôi, vẫn cuộc trò chuyện bằng giấy như mọi khi, không một lời thú nhận, không thăm dò lần cuối, ông chỉ nằm đó ngắm cô, khoát tay ra phía cửa sổ có những tiếng chim hót đầu tiên. Ông không thể hoặc không muốn ngủ. Robert ngó vào rồi lại đi ngay vì không muốn quấy rầy, rồi anh quay lại với đồ ăn sáng và cà phê cho Dora, nhưng cô không đụng đến. Gần trưa ông thiếp đi. Cô quan sát hơi thở của ông, ngạc nhiên thấy mình bình tĩnh, ngạc nhiên vì họ không nói gì đặc biệt với nhau vào những phút cuối cùng, thỉnh thoảng ông tỉnh dậy, thì thầm toàn những chuyện tốt lành, lâu lắc mãi mới xong, chuyện cô là diễn viên và ông thấy cô trên sân khấu, trong mơ, trong một vai mà ông không biết.
Cô vẫn bên ông. Cô hôn ông và lưỡng lự hồi lâu, không biết nên ngồi ghế hay trên mép giường để nhìn ông rõ hơn, vì cô muốn thanh thản ngắm ông lần nữa, từng ngón tay, đầu ngón, móng tay, khớp ngón, rồi khuôn mặt, hàng mi, miệng ông, cánh mũi khẽ phập phồng, và cô cũng thiếp đi mấy lần. Cô đau lưng vì ngồi và nằm nghiêng, nhưng bù lại Franz làm cô vui khi đánh thức cô dậy. Cô đã nằm mơ, nhưng giờ thì ông đánh thức cô, ông vuốt tóc cô một lúc lâu rồi, như ông kể lại mà thực ra không lên tiếng. Trong mơ, họ đã cùng nhau uống bia, cha mẹ cũng có mặt và nâng cốc chúc mừng từ bàn bên. Franz vẫn không muốn họ đến thăm, bữa trước họ đã dọa nhất định sẽ đến, khiến ông phải nghĩ cách thoái thác, kể ra hàng loạt trở ngại trong một lá thư dài. Giữa chừng Robert bưng vào hai bát dâu đất và anh đào, khiến ông phải ngừng viết thư. Gần tối ông lại sửa bản thảo. Tuy không xong nhưng ông tỏ vẻ hài lòng, nắm tay cô rất lâu khi thiếp đi, không chặt lắm, khiến cô đôi lúc quên đi bàn tay hầu như không trọng lượng của ông, dường như nó sẽ bay đi trong chốc lát.
Hôm qua, trong giấc ngủ, môi ông nhiều lần mấp máy. Cô không hiểu, song nhất định ông đang cố nhắc đi nhắc lại điều gì đó, cô đoán không phải lời cầu nguyện, cho dù ông gợi cho cô nhớ đến một con chiên Do Thái trong nhà nguyện. Hôm nay ông thở nặng nề hơn? Ban ngày ông hay ho, nhưng cô không lo lắng quá mức, không lo hơn bình thường. Cô quan sát ông hồi lâu, cảm thấy mệt mỏi hơn hôm qua rất nhiều, cô kiệt quệ đến mức không nghĩ được nữa. Bốn giờ sáng cô tỉnh. Cô nằm đè lên chân ông trên giường, rồi đột nhiên nghe tiếng động lạ. Cô hiểu ngay là tiếng Franz, ông đang cố hớp không khí, tay vung lên một cách kỳ dị, nhưng ông không thấy cô, cô nhảy dựng dậy đi gọi Robert. Đến lúc rồi, cô nghĩ. Như con cá. Cá có hớp không khí không? Lạy Chúa, anh yêu, cô gọi. Cô đứng bên giường ông và không biết phải làm gì. Cô thử vỗ về ông trong khi Robert đi gọi y sĩ. Họ đẩy cô ra ngoài. Franz cần được tiêm long não, hoặc cả morphin, ít nhất là cô nghe thấy thế. Họ đem đá chườm đến, có vẻ hiệu nghiệm. Trông Franz thật khủng khiếp. Cơn đau cướp đi của ông nhiều sức lực, rồi cô được đến ngồi bên ông, nắm tay và vuốt má ông trong khi ông thiếp đi. Mấy tiếng liền, cô ngồi như hóa đá, như trong ruột thời gian trong vắt và trống trải. Anh đừng đi, cô nói. Đừng sợ. Em ở bên anh. Ông có nghe cô không? Đến lúc Robert không chịu nổi cảnh ấy nữa, anh bảo cô ra bưu điện. Đầu tiên cô phản đối. Cô miễn cưỡng ra đi trong tia nắng ban mai đầu tiên, từng bước, từng bước, như người máy. Cô gửi đi những lá thư cuối cùng. Mấy phút nghỉ ngơi làm cô thư thái, cô muốn đi lại một lát nữa, nhưng chợt thấy ông y sĩ chạy lại. Hình như ông vẫy tay ra hiệu cho cô, rồi cô nghe tiếng ông gọi, nhanh lên, ông tiến sĩ. Mặc dù cô chỉ đi khỏi đó nhiều nhất là nửa tiếng, Franz thay đổi không ngờ trong lúc cô vắng mặt, có vẻ như ông co rúm lại, chỉ còn một nửa. Nhưng ông tỉnh, mỉm cười, gật đầu trước khi nhắm mắt lại vì kiệt sức. Gần trưa thì ông ra đi trong vòng tay cô. Kỳ lạ, người ta nhận ra ngay, dù hơi thở của ông rất nông. Robert vào phòng cùng y sĩ. Cô nằm thêm một lát, ôm ông trong tay và tưởng như đó là một đứa trẻ, mặc dù đó là chồng cô. Cuối cùng cô nhỏm dậy đắp chăn cho ông, với cảm giác lờ mờ về sự chia ly, như ngày nào trên sân ga với Max, khi ông không chịu đi vào khoang ngồi. Sau đó cô muốn tắm cho ông. Robert đưa cô ra khỏi phòng và pha cà phê, nhưng cô muốn trở lại và tắm cho ông, chăm chú hơn bao giờ hết, đến thân hình và khuôn mặt, tất cả những chỗ thân thương. Suốt cả buổi chiều. Robert gọi điện về Praha. Anh hỏi cô có cần giúp đỡ. Cô nói với Franz: Anh có muốn thế không? Cô mặc đồ mới cho ông, bộ com lê màu sẫm mà đã lâu ông không dùng, mãi đến lúc đó cô mới tạm hài lòng. Cô không muốn ăn. Robert lấy thuốc cho cô rồi họ ngồi bàn những việc cần làm. Theo ý Robert thì nhất định phải đưa Franz về Praha. Lạy Chúa, ừ, cô nói, thế là bây giờ cô về Praha, Franz chết rồi, và cô cùng ông về Praha đáng nguyền rủa.
Đêm đầu tiên cô hầu như không ngủ, họ nói đi nói lại với nhau rằng họ đã biết trước. Họ đã chia tay, nhưng phải chăng vì thế mà nỗi đau vợi đi? Họ nói, họ không còn là mình như trước đó. Như những đứa trẻ bị bỏ rơi, ngoài trời lẫn trong nhà đều lạnh, dù mùa hè đã đến, ngày nọ qua ngày kia, sáng lòa và nóng bỏng. Robert dỗ cô ngủ, và cô chỉ nghe lời anh vì anh hứa sau đó họ sẽ tới chỗ Franz. Khi thức dậy, cô ngơ ngác hồi lâu, không biết mình ở đâu, thoạt tiên cô tưởng đang ở Berlin, trước khi nhớ lại mọi chuyện. Cô vừa mơ về Berlin, cô ngồi trong căn hộ phố Heide chờ Franz. Rất lâu sau cô mới tỉnh hẳn. Họ uống cà phê trước khi đến với Franz lần nữa. Vẫn là Franz đó sao? Chạm vào ông, cô bất giác lạnh run. Khuôn mặt ông nghiêm nghị khó gần, hồi lâu cô không dám hôn ông. Cô muốn giữ vài đồ làm kỷ niệm và chọn bộ đồ ngủ của ông, sổ ghi chép, lược. Bà Hoffmann nói người ta sẽ đưa ông vào phòng lớn ở nghĩa địa, do đó cô định nói với ông lần nữa, những gì cô cảm nhận từ đầu đến giờ. Nhưng thật khó trò chuyện với người chết, vì người chết không thật sự lắng nghe, cô đành bỏ cuộc. Lại có khách đến nữa. Karl và ông chú đã tới. Nhiều chuyện không đẹp diễn ra giữa nỗi bất hạnh của cô, vì ông chú muốn mai táng ở Kierling, trong khi Dora muốn đưa Franz về Praha, cuối cùng phải chờ quyết định bằng điện tín của bố Franz. Rốt cuộc, chỉ duy nhất ước nguyện của Dora là có giá trị tối hậu.
Những ngày tiếp đến cứ thế trôi qua. Trong phòng lớn, ông càng ngày càng xa lạ với cô. Cô khóc vì không nhận ra ông nữa, và lại khóc khi người ta đóng nắp quan tài và cướp ông đi mãi mãi. Để chuyển về Praha, cần hàng nghìn thủ tục, Robert phải chạy đi chạy lại làm giấy tờ, nhưng rồi cuối cùng cũng xong, và ngày chia tay cũng đến. Họ lên chuyến tàu hỏa mà Franz cũng có chỗ ở đâu đó. Hơn một tuần sau khi Franz mất, họ về đến Praha. Cô làm quen cha mẹ ông. Ba cô em có mặt, bà quản gia, tất cả như hóa đá. Cô nhìn qua loa mọi thứ, căn phòng ngày xưa của ông mà hôm nay cô sẽ ở, giường của ông, chiếc bàn giấy mà đối với cô chỉ là một cái bàn nào đó. Lúc nào không khóc, cô ra ngồi bên bàn lớn và cố nhớ lại. Franz đã tương đối tô hồng cuộc sống của hai người trong các lá thư, bây giờ cô có thể cải chính một vài chi tiết và kể lại sự thật, họ sống bên nhau ra sao, ngay từ ngày đầu. Lỗ huyệt mở thật kinh khủng. Hàng núi hoa. Bia mộ không có, mãi sau người ta mới đem tới, và thế là cô có một đích đến, đại khái là một điểm gặp gỡ để cô hằng ngày kể chuyện cho ông nghe. Bạn bè Franz tổ chức một buổi đọc sách nho nhỏ, trình bày nhiều tác phẩm của ông, nhưng đa phần quá lạ với cô, tựa như của một Franz nào đó mà cô không quen. Trong mắt người khác thì người ta lại là một người khác chăng? Cho đến cuối đời, Franz luôn sợ cha mẹ, song cô chỉ thấy họ là những cụ già cùng ưu tư bên cô, và họ không xua đuổi cô. Tháng Sáu trôi đi, rồi nửa tháng Bảy, cô vẫn ở lại thành phố của ông. Một cuộc đụng độ kém vui với Max. Ông phát hiện ra một số bản thảo của Franz, tiểu thuyết, truyện ngắn, bản nháp. Và ông muốn xuất bản dần dần. Ông hỏi đủ các hạng người, có ai còn gì và có thể cho ông. Khi Dora lắc đầu thì ông chấp nhận, nhưng gặp lần sau ông lại gặng hỏi, hai người vẫn viết thư cho nhau, vậy mấy cuốn sổ ghi chép cuối cùng đâu rồi. Dora đã suy nghĩ kỹ và quyết định rằng Max không có quyền đó. Cuối tháng Bảy, cô cho rằng có gì đó đã sáng tỏ trong đầu. Vào dịp sinh nhật Franz hồi đầu tháng, cô còn tưởng mình tan nát vì đau buồn, nhưng bây giờ cô thấy đã hồi sức. Ottla và bà mẹ kể nhiều chuyện về Franz, hồi còn bé, thời sinh viên, họ chỉ cho cô biết Praha, sông và cầu, những con đường ông đã đi qua, những con ngõ cổ, cửa hiệu của cha. Ông cũng nhớ con trai, ở dạng im lặng lắc đầu, cái lắc đầu gộp cả Dora vào, tựa như không muốn tin rằng Franz lại có được một người như cô. Cô lại quay về Berlin? Cô cũng không biết đến lựa chọn nào khác, kể cả khi mọi thứ ở đó nhắc nhở đến Franz. Nhưng, liệu có một nơi nào mà cô sống thiếu Franz được không? Judith cũng viết thư, cô sẽ giữ đứa con, và cô ngóng đợi Dora từng ngày. Dora lưỡng lự. Đầu tháng Tám cô mua vé tàu, va li đã đóng, cô có thể cứ thế ra đi, không phải chia tay nặng nề, và cô cũng làm đúng thế. Mình sẽ viết thư về cho họ, cô tự nhủ, nhưng trước tiên cô đi Berlin, nơi một mùa hạ nóng bỏng cùng những cuốn sách của Franz chờ cô. Cô có tất cả sách của ông, cả cuốn mới, nhưng còn quá sớm để đọc nó, do đó cô giở những cuốn cũ, đọc một đoạn đầu ở đâu đó, nhan đề Mười một người con trai vừa đọc đã thấy rất thích, nghe rất Franz.
Chú thích:
3. Geheime Staatspolizei: cảnh sát mật thời Đức Quốc xã (1933-1945).