← Quay lại trang sách

- 7 - VOLGOGRAD – BỨC ẢNH ĐÁNG NGỜ

Một chú chim ó đang bay liệng trên sông Volga. Nó lượn quanh tạo thành những vòng tròn đồng tâm, và khi nhìn thấy cái gì đó, nó bay từ từ, len lén rồi lao ập xuống. Còn ở phía dưới, trên bờ cát, một người đang đứng câu cá. Hai lần anh ta giật được cá cắn câu lên, và rõ ràng là chúng cố khoe những cái vẩy bạc láp lánh của mình, để trêu ngươi con diều hâu đang bay liệng bên trên.

Người câu cá đội mũ lưỡi trai màu đen, xe đạp anh ta để nằm trên bờ, áo khoác vải bò vắt trên xe. Anh ta thò một tay vào túi móc ra bao thuốc lá “Prima” và đưa lên miệng rút ra một điếu, rồi lại nhét bao thuốc vào trong túi, sau đó lại rút trong túi ra một cái bật lửa.

Ở phía bên phải là những cánh buồm hiện lên trong màn sương, và thân những cái xuồng thúng đậu không nhúc nhích, kể cả những vòng khoanh trang nhã của những chiếc ca nô trên sông. Bên trái, thác nước của nhà máy AEX Volgograd nổi rõ lấp lánh dưới ánh mặt trời. Tiếng thác đổ vang xa khắp bốn phía. thỉnh thoảng nghe như tiếng biển động.

Người câu cá câu được một con cá rô nhỏ, nhưng khi tháo con cá ra khỏi móc câu anh ta lại quẳng nó xuống nước. Việc câu cá thật ra không quan trọng. Con cá nhỏ trong lúc hoảng hốt không biết bơi đi đâu, nó quanh quẩn gần chỗ bãi nông và cố bơi ra vực sâu đầy nguy hiểm, nhưng cứ chúi mũi vào bãi cát gần bờ. Rõ ràng con cá đang quá hoảng loạn, nên tim nó không chịu nổi nữa, đột nhiên nó bơi ngược trở lại và nằm ngửa bụng lên. Cái bụng trắng hếu phơi ra của nó khẳng định rằng nó dã hoàn toàn bất lực.

Người câu cá đặt cần câu xuống đất, còn mình thì đi về phía để xe đạp, cầm áo khoác lên và lấy ra bao thuốc lá trong áo. Lén lút nhìn quanh và để không mạo hiểm, anh ta mở tờ báo, cầm theo bao thuốc đi xuống men theo bờ sông. Cái cửa chắn “Thiên đỉnh” cũ sáng loá lên dưới ánh mặt trời, người đó tháo nắp ống kính dài, hướng ống kính về phía ống khói nhà máy ở bên bờ đối diện. Nhưng đấy chỉ là ngắm thử, sau đó anh ta đi ngay đến một góc bờ, và trong ống kính hiện ra một cái đập nước với những luồng nước khổng lổ đổ xuống, nước chảy đến đập nước, sau đó lại theo các qui luật lực hút chảy ào ào vào các tuốc bin nước cực mạnh.

Anh ta một chọn địa điểm thích hợp và đột ngột hướng ống kính lên bắt đầu chụp. Để cho chuẩn xác, anh ta thay đổi hướng ngắm và vỗ vỗ vào máy ảnh hai lần nữa, rồi đóng nắp kính lại. Sau đó anh ta quay lên trên và đứng đó chụp thêm vài pô nữa. Anh ta chụp toàn cảnh cửa biển với những chiếc ca nô thuyền buồm và có một cái xuồng ca nô được anh ta chụp riêng. Đó là một con tầu hai động cơ, toàn bộ hình dáng bên ngoài của nó tạo ra khả năng chạy trên mặt nước còn nhanh hơn gió. Biển số và tên của con tầu sườn trắng xinh đẹp “Xerari” hiện lên rất rõ trước mắt anh ta.

Hành động của người lạ mặt có thể khiến người khác nghi ngờ, vì hiếm có người nào lại đi chụp ảnh quang cảnh sản xuất công nghiệp trên sông Volga. Tuy nhiên có một người canh gác đứng tuổi đang ngồi trên cầu tầu trên tầng thượng, nơi có một khoảng trống có thế bao quát xung quanh, không hiểu sao ông ta nghĩ: “Quỉ ma nào khiến kẻ đó lại đi chụp ảnh bờ bên kia, chỗ những mái vòm của nhà thờ đang được vàng hoá, và chụp ảnh cái thác nước và trạm thuyền của tôi chứ?”. Và vì người quan sát là một người trước đây đã qua một lớp huấn luyện và ghi nhớ một nguyên tắc bắt buộc: nếu thấy bất cứ ai quay phim, chụp ảnh trong khu vực hệ thống công trình thuỷ lợi, ông ta liền tụt xuống khỏi ghế và đến bên máy điện thoại. “Mình đã nói gì nhỉ? Có một kẻ lạ mặt đang câu cá và chụp ảnh thác nước của chúng ta không biết để làm gì. Nhưng rồi họ lại bảo mình là lão già ngớ ngẩn...”. Bỏ ý định gọi điện đến phòng bảo vệ thường trực, ông già canh gác đi xuống và tiến về phía “người chụp ảnh”. Anh ta đã lại cầm cần câu lội nước đến đầu gối và không ngừng quan sát cái phao câu. Nhưng khi liếc xéo sang bên cạnh anh ta vẫn nhìn thấy có ai đó từ nhà thuyền ra đang đi về phía mình. Và lúc đó ông ta kêu lên:

- Này chàng trai, cá cắn câu chứ?

Anh ta không quay đầu lại và trả lời:

- Cá ở đây toàn loại tép riu.

Mặc một bộ áo liền quần rách lỗ chỗ, giọng nói nhừa nhựa của kẻ say rượu, ông già khiến kẻ lạ mặt nghĩ rằng ông ta không phải là bảo vệ của một công trình quan trọng.

- Dù là cá gì thì cũng là của chúng tôi. - ông già canh gác nói. Ông ta đưa mắt nhìn chiếc xe đạp và cái áo khoác vắt trên khung xe.

- Này, chàng trai, tôi hỏi thật, cậu không phải là gián điệp của Mỹ chứ? Cậu chụp ảnh các công trình chiến lược của chúng tôi để làm gì? Nếu là trước đây họ đã tóm cổ cậu vì điều này rồi.

“Người câu cá” cuộn dây cước, rút phao lên và lại quăng nó xuống nước. Cái phao vừa được tung xuống tạo ra các vòng tròn lăn tăn lấp lánh, chứng tỏ nó đã làm cho mặt nước bị nhiễm bẩn.

- Anh kia, anh không biết tiếng Nga hay không nghe thấy tôi nói đấy? - Người canh gác không chịu thôi. - Có thể tôi sẽ phải gọi cảnh sát đến để họ tra hỏi anh mới đúng đấy!

- Ông muốn kiếm chuyện thì tuỳ ông, ông già ạ! - Cuối cùng người lạ mặt lên tiếng. - Tất cả khoảng đất trống trước đây giờ cỏ đã mọc phủ đầy lên rồi. Mà không ai cấm tôi chụp ảnh quang cảnh thân quen cả...

- Hừm, quang cảnh... Cậu muốn chụp bao nhiêu ảnh quanh đây cũng được, nhưng cấm không được động đến cái thác nước, vì đó là một công trình trọng điểm. - Xem ra đây là cách nói đặc biệt thích hợp với người canh gác.

- Tốt hơn là chúng ta đi uống bia. - “Người câu cá” hơi cố tình đề nghị bằng một giọng có vẻ thân thiện và thả cần câu xuống nước. Anh ta đi lên chỗ để xe đạp, rút trong túi áo khoác ra 100 rúp rồi chìa ra cho người canh gác.

- Uống bia nhé... Nâng cốc vì tất cả...

- Lượng bia này không làm chúng ta đến nỗi viết sai đấy chứ? Nói chung tôi không uống bia, chỉ dùng rượu trắng. - Người canh gác nói, tuy nhiên vẫn cầm lấy tiền.

- Ông cứ mua Vodka cho mình, tôi không phản đối.

- Cho tôi mượn chiếc “Mercedes” của anh nhé, tôi đi loáng cái rồi về.

- Ông cứ tự nhiên, chỉ có điều phải cẩn thận, tôi để máy ảnh trong đó.

- Nó sẽ còn nguyên. Tôi sẽ mang nó đến đây, tôi để lên bãi cỏ...

... Nửa tiếng sau họ ngồi trong nhà thuyền của người canh gác và cùng uống bia ông mua về, được đựng trong một cái cốc nhiều cạnh không được sạch sẽ lắm. Bia nóng như rượu Vodka, và có lẽ vì uống nhiều quá nên chẳng mấy chốc người canh gác đã trở thành người canh gác hiếu khách nhất khắp khu vực sông Volga, vui miệng kể cho bạn nhậu nghe câu chuyện về những người chủ các con thuyền buồm và ca nô đậu trên bến. Thí dụ như ông chủ của “Xezari” Anton Brostein hiện đang nắm giữ một sòng bạc và buôn bán hộp đạn lazer mà không có giấy phép. Còn Vovka Krupnic kinh doanh với đầy rẫy những thủ đoạn làm tiền, tâm hồn không trong sạch...

- Bab thay đổi thường xuyên. - Cúi người xuống tránh khói thuốc xì gà, ông già canh gác nói. - Mà tiện đây cho tôi hỏi, chàng trai, anh tên là gì. Còn tôi tên là Xenka, Xemen Loxkutov, sao anh không nói gì thế?

- Điều đó không quan trọng... Ông cứ gọi tắt là Xerưi, Xergei - con trai của “cha mẹ-rượu chè”, lớn lên trong các nhà giáo dưỡng và các trại trẻ mổ côi. Cạn chén đi, ông bạn Xenka, hay là ông đã say bí tỉ rồi?

Ông già canh gác đã say mềm nhổm dậy khỏi cái ghế dài, làm sóng sánh cốc Vodka trong tay, bò đến ôm vị khách trẻ tuổi. Nhưng anh ta khinh bỉ đẩy ông ta ra, và Xemen ngã ngửa người xuống cái ghế dài, đầu đập vào tường đau điếng.

- Anh đúng là đồ quỉ, Xerưi ạ! - ông ta lại nhổm dậy, nhưng đôi chân không chịu phục tùng. Líu cả lưỡi lại ông ta bắt đầu khoe khoang về những người quen giầu có và có lần “những người Nga mới” đã đến đây tổ chức một cuộc đua ca nô, họ đặt cửa 300 nghìn đô la. Tham gia cuộc đua có sáu ca nô tất cả, còn ông chủ “Xezari”, để về đích đầu tiên đã tháo bớt ra những vật dụng thừa thãi - từ cái ghế cho đến cái bếp ga, toàn bộ số đồ đạc nặng hơn 200 cân ở trên boong tầu. Còn thuê thợ lặn cưa chân vịt của các ca nô đối thủ... - Đấy là tôi nghĩ thế. Hồi đó tôi là người thu nhận hạt giống trong nông trang và tôi biết rằng cái trọng lượng đó vừa có ích vừa có hại. Mà này, khi đó tôi đã có thể trở thành cảnh sát đấy...

- Tại sao việc đó không thành? - Xergei hỏi. Anh ta cầm ca chai bia lên uống và châm thuốc lá liên tục.

- Tại sao không trở thành cảnh sát à? Anh là một thằng ngốc mới tin điều này. Giá như hồi đó tôi có được trí tuệ như bây giờ. - Loxkutov đưa ngón tay day day quanh thái dương.

- Thì ông sẽ làm gì?

- Tôi sẽ từ bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải chịu mất 30 năm thổi kèn trong hạm độ tầu thuỷ... Anh nhìn tay tôi xem! - ông ta xoè lòng bàn tay cho Xergei xem, để anh ta nhìn thấy đôi bàn tay nứt nẻ, chai sần và sạm đen vì dầu ma rút.

Mấy lần Xergei tranh thủ đi ra chỗ cầu tầu và bám tay vào sợi dây cáp làm thành rào chắn, anh ta quan sát các đường đai trắng bao quanh công trình thuỷ điện rất lâu.

Khi người canh gác đã say mềm, ngã sấp mặt vào cái lọ đựng cá mòi sốt cà chua, Xergei liền lục lọi khắp người ông ta, nhưng không tìm được gì ngoài mấy chiếc vé xe buýt điện nhàu nhĩ và vài mẩu thuốc lá. Anh ta tìm chìa khoá mở chòi canh gác, vì trong chòi cất các chìa khoá mở các ổ khoá giữ các con tàu được xích thành chuỗi trên bờ.

Anh ta tìm thấy chìa khoá ở cái bậu trên cửa, nhưng không thể đem nó theo mình. Chiếc chìa khoá, dù là dùng để mở cái ổ khoá của Pháp, nhưng vẫn oặt ẹo đến nỗi, hoàn toàn có thể dùng móng tay mở ổ khoá ra. Vị khách tiến gần đến cửa và chăm chú nhìn các then cài. Và quả thật, nếu cửa đã được khoá lại, thì anh ta không khó khăn gì khi dùng một mũi dao nhỏ để mở cửa ra.

Người canh gác ngủ say như chết. Xergei đi xuống phía dưới và dắt xe đạp đi khỏi cầu tầu. Một lúc sau anh ta đạp xe cật lực, và khoảng được 30 phút thì dừng lại gần một ngôi nhà tranh tồi tàn, được bao quanh bởi một hàng rào “say rượu”, thò ra từ các bụi cây rậm rạp. Quăng dây thép gai ra khỏi cái cột nhỏ, anh ta bước vào trong sân và nghe ngóng. Không, hoàn toàn yên lặng, có chăng chỉ là tiếng những con ve sầu kêu ra rả như điên trong các bụi cây nhài và cây sơn tra, và quanh đó toả ra mùi thơm của những bông tầm xuân đang nở.

Đưa mắt nhìn quanh một vòng, anh ta thoăn thoắt bước lên bậc thềm và thận trọng vặn tay nắm cửa, nhưng cánh cửa không nhúc nhích. Anh ta gõ cửa. Không một tiếng trả lời. Nhưng ở trong cửa sổ gần đó, qua các chậu cây thiên trúc quì đặt trên bậu cửa sổ có cái gì đó sáng lên. Anh ta gõ cửa một lần nữa: ba lần liên tiếp và hai lần nghỉ. Đột nhiên cánh cửa mở ra, hoá ra sau cánh cửa có một người tay cầm súng đứng đó.

- Sao mày không báo hiệu ngay? - Người cầm súng hỏi Xergei. - Chẳng khó khăn gì để bị ăn một viên đạn cả. Được rồi, vào nhà đi và kể xem mày đã đánh hơi được những gì... còn tao đang hoàn tất công việc của mình.

Trên bàn có một cái cân, còn bên cạnh, đựng trong túi bóng kính là một hợp chất bằng bạc gì đó và một chất giống như muối đỏ. Ngoài rìa bàn để vài đồ kim loại lặt vặt gì đó mà Xergei chưa bao giờ nghe nói đến. Bên cạnh bàn trên cái ghế đẩu là các viên kì lạ màu da cam xếp cao lên theo hình Kim tự tháp. Trên các viên này viết cái gì đó không phải bằng tiếng Nga. Nhưng anh ta có thể tự hiểu mà không cần phiên dịch, rằng đó là thuốc nổ Trotyl.

- Tôi đã làm tất cả theo lệnh của anh. Câu cá, rồi chụp ảnh, và đến trạm thuyền.

- Thế mày uống rượu làm gì? Đứng xa ba dặm vẫn ngửi thấy mùi bốc ra từ người đấy.

- Phải làm quen với lão trưởng quản lí cầu tầu... một lão già ngu ngốc. Mọi việc hoá ra lại dễ hơn tôi tưởng. Khi tôi đang câu cá, lão già canh gác trạm thuyền đi đến chỗ tôi... một kẻ nghiện rượu, không chén chú chén anh thì không nói chuyện được. Tôi buộc phải uống chút ít... Tiện thể, anh Mikhailo, tôi cần một ít tiền, tôi đã chi để làm quen rồi.

- Tao có thể đập vào mặt mày, nếu không vướng cái bàn này. Tao đã bảo mày không được uống rượu mà mày lại chui hẳn vào trong chai.

- Lão ta uống như hút nước. Trong khoảnh khắc đã đốn nhẵn.

- Đừng có ép tao để đánh đòn tâm lí, dây thần kinh này, khi các cơ quan ép chặt nó lại, tất cả khiến ta nhớ lại thậm chí cả những điều đã không xẩy ra. Mày cũng vậy, sẽ không kiềm chế nổi, chắc là mày đã để lại dấu vân tay trên cốc rượu?

Mikhailo ngồi xuống ghế và dùng một cái thìa nhỏ đổ đầy bột bạc vào đĩa cân.

- Được rồi, hãy hoà tan thuốc hiện hình và mang nước từ ngoài giếng vào đây. Chỉ cần thận trọng một chút...

- Chúng ta sợ gì chứ, chúng ta là những người ở biệt thự, đến đây thuê nhà, không làm phiền ai cả?

- Và phải lấy gáo nước thay cho cái đầu của mày. Tao cũng là người sống ở biệt thự, còn mày là một kẻ nát rượu đang đi nghỉ...

Khi rửa ảnh xong, Mikhailo châm thuốc hút và nhìn chúng rất lâu. - Mikhail chính là kẻ đã bắn vào người lái xe taxi và bắn thủng bụng viên công an khu vực Usach. Sau đó hắn đi từ góc này sang góc kia trong căn phòng khá rộng và khe khẽ hát gì đó. Xergei lúc đó đang ngồi trên thềm nhà gần cửa ra vào và chờ đợi.

- Chúng ta sẽ phải chở một vật nặng lớn. - Cuối cùng Mikhailo nói.

- Thế xe đạp để làm gì?

Mikhailo không trả lời.

- Hôm nay chúng ta sẽ xuống dưới bờ sông, chỗ cần chọn phương hướng. Những bức ảnh này mờ quá, mày đã đợi hình quá lâu...

- Xin lỗi, tôi đã cố chụp...

- Thôi mày im đi cho tao nhờ. Ngoài rượu ra, mày chả biết cái cóc khô gì cả...

- Anh cứ ngồi đấy mà nói mồm. Anh đã đưa tôi được bao nhiêu tiền? Và hứa trả tôi bao nhiêu?

- Chúng ta đang làm việc, chúng ta hiến dâng tất cả, kể cả giải thưởng.

- Còn anh đã không nói với tôi như thế, nói về công việc chúng ta đang làm. Anh hãy làm công việc về hoá học như Mendeleev, mà anh đang làm cái gì thì chỉ có Chúa mới biết được.

- Mày càng biết ít, thì càng uống rượu được lâu hơn.

- Anh phải kéo vật nặng bao nhiêu? Một hay hai trăm tấn? - Xergei hỏi.

- Hơn ba tạ, vì thế hãy bỏ xe đạp của mày vào thùng xe.

- Chúng ta sẽ thuê một chiếc xe Kamax. Năm mươi cô pếch là đủ để thuê bất kì tay lái xe nào, nếu cần anh ta có thể đặt cả quỉ lên đùi mình để chở đến bất cứ đâu người ta ra lệnh...

Nói ra những lời nói thông minh đó, trán Xergei nhíu lại làm nổi rõ các nếp nhăn.

- Tao chỉ rất muốn yêu cầu mày một điều là mày đừng đi quá sâu vào công việc này. - Mikhailo châm tiếp điếu thuốc khác vì điếu đang hút dở đã bị tắt. Và cách nói của hắn có vẻ trầm ngâm và so sánh: - Những thắng cảnh ở đây cũng giống ở chỗ chúng ta. Ở Karpat cũng có những làn gió nhẹ và lũ ve sầu suốt ngày kêu ra rả...

Chuyên sang nói bằng tiếng Ucraina, rõ ràng lòng

Mikhailo đang thầm nghĩ đến điều gì đấy, mà chắc là về những bờ sông quê hương.

*

Công việc điều tra hình sự của Volgograd có thể nói là ngập đầu ngập cổ. Hàng ngày Moroz tổ chức các cuộc họp và nghe điệp viên báo cáo. Giữa trưa ông gọi Akimov và Poxpelov đến chỗ mình và giao cho họ nhiệm vụ:

- Các cậu thử tính xem, nếu chúng ta không tìm thấy hai tên nữa... Có lẽ tôi cho rằng nói một cách có căn cứ, có thể là hiện chúng có đến một hoặc hai trăm tên... Nhưng tạm thời chúng ta chỉ biết hai tên đó, nghĩa là chúng ta chỉ tạm đoán thế. Chúng ta còn biết được gì nữa không?

- Hiện chúng ta đang theo dõi ngoài chợ. Bắt được hai tên có vũ khí, nhưng bọn chúng không nằm trong nhóm thanh niên nổi loạn. Đã mang theo đến hai cân thuốc phiện, thực hiện một vụ giết người kiểu cũ. - Poxpelov vừa nói vừa gập cong các ngón tay lại. - Tôi tin rằng, sớm hay muộn thì lượng sẽ chuyển thành chất.

Moroz đánh dấu vào quyển lịch bàn.

- Đúng thế - muộn, khi ở đâu đó bộc phá sẽ lại không nổ. Hôm nay là ngày bao nhiêu? Nào, đây rồi, chỉ còn vài giây nữa là đến ngày Quốc khánh của Trkeria. Mà các cậu đã biết, theo số liệu tác chiến, thì chính vào ngày này một cuộc đột kích đã được ấn định. - Moroz hút thuốc. - Hãy tuyển người đi, trả tiền cho họ... Hôm nay bộ trưởng của chúng ta đã kí sắc lệnh về khuyến khích hoạt động tình báo... Hãy lưu tâm đến nhũng người hiểu rõ hơn chúng ta rằng trên các đường phố đang xảy ra điều gì. Cần đến nói chuyện với những người canh gác, bán hàng tại các ki ốt... Nói tóm lại, phải tạo được một mạng lưới các cơ sở nhỏ. Các cậu hiểu ý tôi chứ?

- Vâng, tất nhiên, thưa đồng chí thiếu tá, tôi hiểu tất cả điều đó - Akimov bắt đầu nói, và không nhìn người đối thoại. - Nhưng tôi cho rằng, tôi có ý nói đến chủ ý của bọn khủng bố, bọn chúng sẽ tấn công theo cách khác. Bây giờ điều quan trọng nhất là phải quan sát nhà máy lọc dầu, những cái đập bảo vệ và tất nhiên là cả các lối vào đập chắn nước nữa. Bây giờ chính tôi sẽ đến đó, để thị sát tình hình tại chỗ.

Thiếu tá đi đến gần tấm bản đồ treo đối diện với bàn của ông.

- Tôi đồng ý với những gì cậu nói, Xlava ạ, nhưng cần phải thêm vào cả nhà máy chế tạo xe tăng - máy kéo, các đơn vị cảnh sát, đơn vị quân đội, các khu chợ và một nghìn rưỡi các đối tượng khác nữa. Còn hiện nay chúng ta còn không có thậm chí cả một chỗ dựa nhỏ... thực ra thì cũng có rồi, nhưng lại chỉ là giả thiết. - Moroz có ý nói đến từ “GEX” mà được viết trên tấm bản đồ của bọn khủng bố đã bị giết chết. - Nhưng tôi ủng hộ giả thuyết về cái đập chắn nước, vì thế đừng chậm chễ nữa, Xlava ạ, cậu đến ngay chỗ đó đi.

Nửa tiếng sau Akimov đã chỉ đạo đội ngũ những người nghiệp dư, những người quét sân và cảnh sát khu vực mà anh tập hợp được. Tóm lại, hướng dẫn cho những người trực tiếp sống và làm việc gần nhà máy thuỷ điện. Sau đó họ đi vòng quanh toàn bộ khu dân cư, không bỏ qua một hầm ngầm và một tầng thượng nào. Sau đó bắt đầu đi vòng quanh các căn hộ: ai nhìn thấy gì, cái gì có vẻ khả nghi, những người nào xuất hiện gần đập chắn nước?

Akimov không đi đến nhà máy, vì biết rằng cả nhà máy thuỷ điện đã được những người của RUBOP kiểm soát.

Khi anh ngồi vào chiếc “Yazik” và lái xe đến bờ sông Volga, trời bắt đầu đổ mưa, còn từ phía Astrakhan những đám mây âm u, tối đen đang vần vũ.

Akimov bước ra khỏi xe và tiến về phía những cột buồm trên nhà thuyền đang hiện lên mỗi lúc một rõ. Bờ sông vắng lặng, anh đi dọc theo dải cát ẩm ướt và hồi tưởng lại thời thơ ấu của mình. Những lần đi lặn đầu tiên ở con sông này, những con cá mè đầu tiên anh câu được cũng ở đây... Có vẻ như ngày xưa nước sông trong hơn và lòng sông Volga hồi đó rộng hơn. Nhưng tất nhiên đây chỉ là ảo giác, bao năm qua con sông này vẫn thế... Anh nhìn thấy một con cá nhỏ đã chết đang nằm trên cát và suýt nữa thì dẫm lên nó. Hơi cúi người xuống một chút anh nhận ra một mẩu thuốc lá. Anh nhặt lên - hiệu “Prima”. Anh thận trọng gói nó lại trong chiếc khăn mùi xoa và bỏ vào trong túi áo trước ngực.

Tiếng động cơ từ đâu đó vẳng đến tai anh - một chiếc “Rưguli” nhỏ màu xanh nước biển lao như điên trên đường đi đến bờ sông, bỏ lại đằng sau nó một vệt đuôi bụi. Akimov nhận ra ngay người đang lái chiếc xe đó là một người làm việc nghiệp dư có năng lực nhất, Sura Egorov. Anh ta là thợ nguội chuyên nghiệp tại “ga Bolgograd”, còn thời gian rỗi anh ta đến các cơ sở xã hội cùng với các cảnh sát khu vực.

Akimov quay lại và đi đến chỗ chiếc xe “YAZIK”. Egorov không chỉ có một mình trong xe, mà còn có một người phụ nữ không còn trẻ, mái tóc bạc được vấn cầu kì trên đầu. Bà ta chậm rãi bước ra khỏi ô tô, chỉnh lại cái váy trông thật sặc sỡ và chăm chú nhìn Akimov đang tiến đến gần. Sura giới thiệu với anh người bạn đường của mình:

- Đây là chị Ekaterina Vaxilieva, sống ở phố Pokrovxki. - Egorov quay lại và chỉ tay về phía ngôi nhà hai tầng mầu trắng ở đằng xa. - Đúng lúc chị ấy mở cửa sổ nhà mình thì nhìn thấy, tuy nhiên Ekaterina Vaxilieva, chị hãy tự mình kể lại hôm qua chị đã nhìn thấy những gì ở đây.

Người phụ nữ bắt đầu tỏ ra luống cuống. Đôi gò má ửng đỏ lên khiến chị ta trông đẹp hơn.

- Chị đừng sợ, Ekaterina Vaxilieva! - Akimov trấn an chị ta. Có lẽ chị đoán rằng có vài chi tiết khiến cảnh sát quan tâm... Mà đúng hơn là bất cứ sự kiện nào liên quan đến cái đập chắn nước và nói chung là liên quan đến phần bờ bên này.

- Vâng, bản thân tôi ít khi để ý lắm. Chỉ có chồng tôi thường hay đánh cá ở sau cầu tầu và thỉnh thoảng ông ấy đánh đến tận tối mịt. Còn tôi đôi khi cầm theo cái ống nhòm đi biển của ông ấy... chính ông ấy trước đây đã từng là thuỷ thủ, và tôi theo dõi nhà tôi... Tôi lo lắng vì ông ấy không được khoẻ lắm, lại trải qua chiến tranh, hai lần bị nhồi máu cơ tim...

Akimov đã quen nghe cái kiểu vào đề như thế này, và chúng không làm anh phải bực mình, vì đôi khi trong cái mớ hỗn độn những lời bộc lộ chân thành đó lại thể hiện một điều có căn nguyên.

- Thật tội! - Akimov hùa theo bà ta có vẻ chân tình. - Thế chuyện gì xảy ra sau đó?

- Không có gì đặc biệt cả, nhưng anh Xasa Egorov lại cho rằng có điều gì đó khả nghi. Lúc khoảng gần ba giờ chiều tôi nhìn thấy một người đạp xe qua nhà tôi về phía bờ sông...

- Chị hãy vui lòng miêu tả lại. - Akimov cảm thấy có chuyện quan trọng.

- Đó là một cái xe đạp cũ, chắn bùn được mạ kền. Người đi xe đội mũ lưỡi trai dài màu đen, và có một cái cần câu buộc vào khung xe. Mà có thể, mang cần câu theo chỉ là cho có. Vì người câu cá ấy, khi đi đến bờ sông, đầu tiên chỉ câu cá một lúc, còn sau đó bắt đầu chụp ảnh, tôi cho rằng, chủ yếu anh ta chụp đập chắn nước và cầu tầu.

- Anh ta chụp có lâu không?

- Chúng tôi cũng có máy ảnh, và tôi nghĩ, nếu chụp bình thường, thì trong khoảng thời gian ấy có thể chụp hết một cuộn phim.

- Chị có tình cờ nhận ra nhãn hiệu máy ảnh không?

- Anh ta đứng hơi xa, nhưng điều chính xác là cái ống kính rất dài. Sau đó có một người bước ra khỏi cái chòi ở trên cầu tầu và đi về phía anh ta, sau khi họ thoả thuận với nhau điều gì đó, thì người đó liền lấy xe đạp của người câu cá đi đến cửa hàng. Tại sao tôi biết... Vì ông ta đi đến cửa hàng rượu ở dưới tầng một nhà tôi... Và quay trở lại bờ sông với một cái túi lưới đựng đầy chai rượu. Rồi họ ngồi uống với nhau rất lâu trong chòi canh gác trên cầu tầu, và đến cuối ngày, lúc trời tối, nhưng chưa tối hẳn, khi mặt trời vừa lặn sau nhà tôi thì người đi xe đạp đã rời khỏi đó...

- Điều gì đập vào mắt chị nữa?

- Khi anh ta chụp ảnh, suốt thời gian đó anh ta cứ đảo mắt nhìn ngó xung quanh, mà điều quan trọng là anh ta đi về nhà mà không có cần câu nữa. Chồng tôi cũng là một ngư dân. Nhưng ông ấy chưa bao giờ quẳng cần câu của mình đi cả. Biết đâu có thể quên mất tôi, chứ chắc không đời nào đi câu lại quên dụng cụ câu cá của mình.

- Thế chồng chị không nhận thấy điều gì à, vì ông ấy cũng đang câu cá cách cầu tầu không xa?

Người phụ nữ nhún vai.

- Đi câu cá về là ông ấy mệt mỏi, ăn kém, cả đến việc nhìn cũng phải cộng thêm bốn con mắt nữa...

- Chị Etakeria, - Sura nhắc, - chị đã không nói cho anh hạ sĩ đây rằng đến tận ngày hôm qua thì chị chưa từng gặp gã thanh niên đó trước đây.

- Nhưng, theo tôi, điều này không quan trọng. Vùng này rộng lớn lắm, làm sao mà nhớ mặt tất cả mọi người được.

Akimov lại tham gia vào câu chuyện.

- Chị Ekaterina Vaxilieva, chúng ta đi xuống phía đó thêm một chút nữa rồi chị hãy miêu tả thật cụ thể cho tôi người câu cá đó: hình dáng, quần áo, màu quần áo và những dấu hiệu khác...

Nửa tiếng sau Akimov để Sura ở lại quan sát cầu tầu, sau khi hứa sẽ gửi những người chuyên nghiệp ngoài cuộc đến, còn anh thì lái xe như bay về UVD của thành phố Volgograd, đến phòng điều tra.

Thiếu tá Moroz ngồi nguyên tại chỗ. Sau khi nghe Akimov báo cáo lại những thông tin anh vừa thu lượm được, ông bắt đầu suy nghĩ. Ông hút thuốc, để mặc tàn thuốc tạo thành một quệt đuôi dài, rồi mới vẩy nó vào trong gạt tàn và lại tích tàn thuốc lại... Trò chơi “ai thắng ai” này của ông dường như giúp ông trấn tĩnh và tập trung hơn.

- Những gì cậu vừa kể, tất nhiên có nói lên điều gì đó, nhưng tôi không nghĩ rằng những kẻ đang chuẩn bị tấn công thực sự, lại trang bị kĩ thuật nghèo nàn đến thế. Xe đạp, máy ảnh... Dù có thể đấy là đáng nghi và một máy quay phim lưu động với chi chít chờ trên ống kính... Sau đó kẻ say rượu này... tuy nhiên, cứ chờ xem sao.

Moroz đứng dậy khỏi chỗ và lôi trong ngăn kéo bàn ra một cuộn băng video, ông lại gần chỗ màn hình vô tuyến đặt trên cái bàn con trong góc... Cho băng vào ổ đĩa và đợi. Đây là cuộn phim quay được một cách linh hoạt ở sân bay sau một cú điện thoại vô danh.

Hai cảnh quay đầu tiên hiện ra: sơ đồ chung của toà nhà sân bay, chỗ cửa ra vào có hai người mặc đồng phục hàng không dân dụng xuất hiện - một đàn ông và một phụ nữ. Sau đó camera quay đến chỗ đỗ xe và thảm cỏ trải dài đến tận phòng chờ của hành khách và nhân viên sân bay. Ngay lập tức người điều khiển camera quay được những thước phim cần thiết: một cách có phương pháp, từng mét một, từng người một anh ta quay được toàn bộ quanh cảnh lúc đó trên trường bay.

- Dừng lại! - Akimov kêu lên. - Anh có thể tua lại một chút được không?

- Tôi cũng nhìn thấy anh ta. - Thiếu tá ấn nút điều khiển, và cuộn băng được tua lại. - Anh bạn thân mến, anh ta đây rồi... - đoạn phim tạm ngừng lại...

Trên thảm cỏ, cạnh chiếc xe đạp là một người đàn ông nửa nằm nửa ngồi, đầu đội mũ lưỡi trai mầu đen, dưới vành mũ là một đôi mắt đang nhìn rất chăm chú. Ngay bên cạnh anh ta là bao thuốc lá hiệu “Prima” bị cái bật lửa ga đè lên.

- Cậu nghĩ sao, Xlava, anh ta ở đây làm gì? Rõ ràng không phải là hành khách, vì xe đạp không được mang lên máy bay, và không phải là một nhân vật nào đó, vì đi xe đạp...

- Nhưng xét từng dấu hiệu một, ngay cả mầu quần và cái gác đờ bu mạ kền... Anh xem, chúng có sáng lên dưới ánh nắng không? Kể cả mẩu thuốc tôi nhặt được ở trên bờ sông cũng là hiệu “Prima”...

Moroz không rời mắt khỏi màn hình. Tàn thuốc dài đến sát đầu lọc, nhưng ông thậm chí còn không nhận ra điều đó và nói:

- Anh ta đấy, một kẻ bí ẩn lưu động, đi đò la khắp thành phố. Đợi một phút...

Thiếu tá quay lại bên bàn và qua máy dò gọi người theo dõi làm công việc này.

Một người trẻ tuổi mặc quần áo dân dụng bước vào phòng. Đại uý Vladimir Wonxki. Ở trong Cục mọi người gọi đùa anh là “bá tước”, có thể vì họ của anh.

- Volodia - Moroz hỏi anh ta, - đoạn phim này không nói lên với anh điều gì sao?

Vronxki nghiên cứu rất kĩ người đi xe đạp, và càng nhìn lâu, anh càng tiến sát lại màn hình.

- Người quét sân ở ga trung tâm đã giải thích rõ cho người của chúng ta rằng không có ai đáng nghi ngoài chiếc xe đạp vô hại, ở gần trạm điện thoại tự động... Có thể chỉ là sự trùng hợp.

- Vô hại thế đấy, - Moroz nói khẽ, - vô hại với tất cả... Nhưng chúng ta không biết anh ta đã làm gì ở sân bay: hoặc là đang đợi người, hoặc là ngắm nhìn công việc của đôi bàn tay...

- Chính xác, công việc ngôn ngữ của mình, - Vronxki nói. - Tôi sẽ giao nhiệm vụ cho những người nhanh nhẹn dù thế nào cũng phải tìm thấy ở gã thanh niên này điều gì đó...

Chính Moroz phải ngạc nhiên nhìn người theo dõi - anh ta đang kể lại những điều Akimov vừa báo cáo.

- Đi theo tôi, Xlava, tôi sẽ tháo gỡ được những gì anh đưa ra. - Vronxki quay sang nói với Akimov và họ cùng bước ra khỏi phòng.

Moroz gọi điện đến UFCB cho đại tá Gordeev. Họ đã thoả thuận thông báo cho nhau về tất cả những điều gì đó đã lại được gỡ nút về công việc điều tra hoạt động khủng bố.