- 8 - VORONEZH - TRẠM Ô TÔ QUÂN ĐỘI BỊ BỎ HOANG
Trạm ô tô cũ này nằm cách ngoại ô Voronezh vài cây số, và Voropaev đành phải đi bộ đến bến đỗ xe buýt. Để không gây sự chú ý, anh ta mặc một chiếc áo măng tô san, đi ủng cao su, còn đầu thì đội một cái mũ kếp bằng lông. Tay cầm một cái túi lưới đựng đầy chai lọ cứ cố thò cổ ra để tỏ thái độ. Tuy nhiên anh ta cứ dí mắt vào những nơi, đặc biệt là những không gian mở mặc dù không thấy ở đâu đó xuất hiện một hình thù hay khói kéo tỏa lên... Nhưng những cánh đồng trông hoang vắng như sa mạc, dường như những hạt giống đã chín bị bỏ lại đây hàng thế kỉ và không một con người nào tỏ ra quan tâm đến chúng.
Khi anh ta đến bến đỗ xe buýt, trời bắt đầu lất phất mưa, và Voropaev đứng trú dưới cái mái dột của bến đỗ đã lâu rồi không được sửa chữa.
Có hai người phụ nữ đi đến gần, cũng mặc áo măng tô san, quàng khăn, tay xách hai cái xô mạ kẽm. Từ câu chuyện họ nói, anh ta biết là hai người này đang đi đến công ty chăn nuôi. Khi xe buýt đến, Voropaev đi qua trước mặt hai người đồng hành nhưng chính anh ta, vì mải nhìn xung quanh nên không nhận thấy một ánh mắt nhìn theo khi anh ta bước vào trong xe buýt chạy qua làng. Và anh ta hết sức ngạc nhiên, khi nhìn qua của sổ thấy giữa bến đỗ thứ năm và thứ sáu có một hàng rào cao với một tấm chắn to bằng gỗ treo trên nó với dòng chữ: “Công trường đang thi công, đội xây dựng - 126, điện thoại: 765430, đội trưởng công trình Akhtưrsev P.Đ”.
Voropaev xuống khỏi xe buýt quay lại chỗ công trường đang thi công. Tất nhiên không thấy người bảo vệ nào trong công trường, anh ta thoải mái bước vào công trường và ở bên trái, dưới những khoảng đất bị đào xới sâu, anh ta nhìn thấy một căn phòng nhỏ, chỗ người ta thường chỉ thị cho thợ xây. Bên phải, anh ta nhìn thấy trong bóng tối một cái máy kéo của “Belarus” và hai chiếc xe Maz chở đầy gạch.
Bây giờ thì cái túi lưới lại gây phiền phức cho anh ta, nó có thể gây nghi ngờ, và anh ta đút nó vào giữa hai tấm bảng tựa vào hàng rào.
Anh ta gõ cửa và không có tiếng trả lời, nên Voropaev bước vào trong cái chòi nhỏ. Trong đó rất ngột ngạt - mùi thuốc lá nồng nặc quyện với mùi mồ hôi của người đã lâu rồi không tắm. Một người đang ngồi bên bàn và viết gì đó vào cuốn sổ dày.
- Anh có thể cho tôi biết tôi có thể tìm anh Akhtưrsev ở đâu không? - Anh ta hỏi người đang viết. Và ngay lập tức anh ta nhận thấy rằng người lạ mặt có mái tóc hơi xoăn và trắng bạc trông thật hấp dẫn.
Không ngẩng đầu lên, người đó trả lời:
- Anh ta chính là tôi... Cuối cùng đã chở đến xi măng rồi à?
Voropaev rất muốn trả lời xác nhận câu hỏi này, khi đó câu chuyện giữa họ sẽ được xác định hoàn toàn...
- Không, tôi muốn thuê máy kéo chỗ anh hai tiếng. Xe chở sữa của nông trang chúng tôi bị sa lầy trong rãnh nước... Trời mưa, không thể kéo lên được.
- Chẳng lẽ trong nông trang các anh không có nổi một cái máy kéo? - Akhtưrsev ngẩng mặt lên nhìn và khuôn mặt anh ta nếu không nói là tỏ ý dò hỏi, thì cũng là tỏ vẻ coi thường.
- Tất nhiên là có nhưng họ đã làm hỏng động cơ. Việc chuyên chở phải ngừng lại.
- Anh không nghĩ là họ sẽ làm cháy máy kéo của chúng tôi chứ? Và cán bộ như thế thì nên mổ bụng mình tự sát thì hơn... Hôm qua người lái máy kéo của chúng tôi đã uống say khướt, còn hôm nay vợ anh ta gọi điện đến đây nói là Pechia của chị ta bị ngộ độc nấm.
- Không có người lái cũng được, tôi chính là người lái xe.
Voropaev, giả bộ ngây ngô, rút trong túi ra những đồng rúp nhàu nhĩ và đặt nó lên mép bàn: - Ở đây có hai trăm, chúng tôi không thể có nhiều hơn...
- Chàng trai, cậu cất những tờ giấy đó đi cho! - Akhtưrsev khoát tay từ chối. - Nếu tính toán với nhau từng xu một, thì nhanh thôi, đuôi của chúng ta lại mọc dài thêm một chút. Anh hãy đặt lại một khoản đủ để mua 10 lít xoliarka, còn số còn lại thì cất đi. Anh hãy đi ra bằng cổng phụ. Nếu cần dây chão, thì hỏi công nhân xem.
Nhưng vì Voropaev không biết là xoliarka giá bao nhiêu tiền, nên chỉ cầm lại một tờ mười rúp, sau khi cám ơn vì đã được giúp đỡ, anh ta đi ra cổng.
Akhtưrsev, khi nhìn chiếc đồng hồ quả lắc kêu tích tắc trên tường, liền kêu với theo Voropaev:
- Bây giờ là mười rưỡi, hãy mang trả máy lúc mười hai giờ.
- Không sao, tôi sẽ đến sớm hơn...
Thực ra, một người công nhân đã giúp anh ta cuộn dây thừng lại và mở cổng để Voropaev dễ dàng lái qua đến một con đường nhỏ trải xỉ dẫn ra đường cái. Khoảng 40 phút sau anh ta về đến chỗ trạm ô tô. Và đúng lúc đó anh ta sực nhớ ra mình đã bỏ quên cái túi chai lọ ở công trường, thêm vào đó, dấu vân tay của anh ta còn để lại trên vỏ chai. Nhưng sau khi nghĩ rằng, chắc là có ai đó sẽ nghĩ là một gã bán đồ thuỷ tinh nào đấy đã đến chỗ Akhtưrsev, và anh ta quên ngay chuyện những cái chai, vả lại Akhmadov đã đến đây đợi anh ta.
- Mang dây thừng về à? - Akhmadov hỏi cứ như hắn không có chuyện gì đáng phải quan tâm. - Alex, mày có thể, không cần Nikolesku, kéo tấm bảng này ra không? Hãy mang nó về trại lính, nó sẽ là một tấm chắn đạn không tồi đâu...
- Ý anh là gì vậy, Xaid?
- Ý tao muốn nói tới những viên đạn sẽ dội xuống đầu chúng ta, nếu chúng ta bị phát hiện...
- Còn anh phải lập lại trật tự ở đây làm cái quái gì vậy?
- Mày sẽ tự biết ngay thôi, tao không thể cái gì cũng nói với mày được.
Voropaev tháo dây thừng khỏi chiếc máy kéo và bắt đầu thấy thất vọng. Tên người Mondavil và Izotov gầy nhom đã đứng đợi anh ta gần tảng bê tông cốt thép.
Chỉ mấy phút để làm xong việc, nhưng Voropaev không vội quay trở lại công trường. Anh ta leo xuống khỏi máy kéo và đi vào nhà vệ sinh - ở trong cái doanh trại điêu tàn này, nó được Nikolesku giữ gìn và cải tạo để có thể sử dụng được. Sau đó anh ta đi uống rượu, còn trước lúc lên đường anh ta hút hết hai điếu xì gà.
Khi quay trở lại công trường, anh nghĩ về PotMoskva thân yêu, vì đó là nơi anh ta sống, nơi có những rặng liễu xanh cũng như con đường bị tàn phá. Anh ta thèm đến cháy lòng lại được dạo qua con đường ấy và ngả mình xuống những sườn dốc thân yêu. Từ suy nghĩ rằng tất cả đã rời xa vĩnh viễn và anh ta không còn có lấy một tia hi vọng nào, dù là nhỏ nhất để quay trở về cuộc sống trước đây, anh thấy người như phát sốt. Anh ta nhấn cần gas, và cái máy kéo già nua kêu lên ầm ầm và nhẩy chồm vào các ổ gà, dường như nó đang cầu xin lòng thương khi trưng ra hết sự tổn thương và già yếu của động cơ...
Lúc 11 giờ 35 phút anh ta đi vào cổng công trường của Akhtưrsev. Anh ta tắt máy, tiến đến chỗ chòi canh, nhưng không có ai ở đó. Anh ta dừng lại ở lối ra cạnh tấm bảng gỗ và thò tay lục tìm trong chỗ kín mà đêm qua anh đã giấu cái túi lưới đựng chai ở đấy, nhưng cái túi có vẻ đã không còn ở đó nữa. Thậm chí anh còn quì gối, cúi xuống để có thể thọc tay sâu hơn, nhưng, ôi thôi...Và sự cố nhỏ này làm anh ta lo lắng. Anh ta cảm thấy như mình đang bị theo dõi từ bốn phía và đảo mắt nhìn quanh, nhưng không thấy có gì khả nghi. Hai người công nhân đang dỡ gạch trên xe Maz xuống, cái máy đào đang húc mõm xuống hố móng kêu cút kít. Voropaev quay ra và đi đến chỗ phần sang đường. Thế nhưng anh ta không đến chỗ bến đỗ xe buýt mà hoà vào đám đông và từ từ đi về hướng ngoại ô thành phố.
Khi định hướng đi theo những tiếng động từ đường cái vọng lại, anh ta đi theo khu vực công viên rừng. Vừa đi vừa nghĩ lại chuyện chúng đã tròng dây thừng vào cổ anh một năm trước đây trong làng Xamaski. Anh ta, giống như mọi khi ngồi vào cabin chiếc “Zazgarik”, và sau khi chở ba người lính tinh nhuệ đến chốt canh để đổi gác, anh ta liền đi ra uống nước ở vòi nước tự chảy.
Họ đi sang bên phải, còn từ bên trái trải dài một bờ rào với một băng chữ cảnh báo giăng bên trên: “Cẩn thận! Có mìn!”. Anh thậm chí còn không nhận thấy hai tấm ván bị dịch sang hai bên như thế nào và từ sau chúng, một nhóm người đeo mặt nạ nhẩy lách ra như những con chồn. Đột nhiên anh cảm thấy lạnh gáy vì nòng súng tiểu liên, một giây sau đó chúng kéo anh ra khỏi ô tô và lôi anh qua lỗ thủng ở hàng rào. Anh nghe thấy ngay sát bên mình là tiếng kêu gào và tiếng gọi của đồng đội, nghe thấy một loạt súng tiểu liên và nhìn thấy những dây xích được quăng ra từ cái cột điện báo. Nhưng chúng cứ lôi anh đi như con sói cái nhe răng ra đang kéo lê lũ con của mình - không thương xót và không thèm để ý. Trong hầm ngầm của một ngôi nhà điêu tàn, chúng bịt mắt Alex lại, anh bị nhét giẻ vào mồm và hai tay bị còng và bị bỏ lại đó qua đêm. Anh nghe thấy những tiếng lào xào, tiếng súng và một tiếng nổ lớn, nhưng không một ai đụng đến anh và cũng không một ai hỏi chuyện anh cả Anh không biết mình ở trong tình trạng này được bao lâu rồi.
Rõ ràng bị bụi và mùi mốc meo xộc vào mũi, anh tự đoán được là mình không thể thở bằng mồm. Và có lẽ, anh sẽ chết vì mùi ẩm mốc nếu trời sáng chúng không đưa anh ra khỏi hầm ngầm. Chúng đã chở anh đi đâu đó, anh đã đoán ra qua tiếng rung và tiếng động của ô tô đang chạy. Nhưng sau đó chúng lôi anh ra khỏi ô tô và đặt lên lưng ngựa: anh cảm nhận được cái mùi đặc trưng của mồ hôi ngựa và nghe thấy tiếng gõ của móng ngựa rất rõ. Những cành cây thù du quệt khắp lưng và đầu anh, anh hiểu là chúng đang đưa anh vào trong núi.
Một người có râu, nói giọng lơ lớ, có thể gã là người Chesnia, mà cũng có thể là người Dagestan tiến hành hỏi cung anh:
- Mày đã giết bao nhiêu người của chúng tao?
Voropaev im lặng, lưỡi anh khô lại, còn một lớp màng mặn tiết ra trong lợi. Anh không thể nói rằng mình chấp nhận bị hỏi cung, cũng như muốn được giao tiếp. Tên có râu đấm vào trán anh khiến anh ngất xỉu. Khi tỉnh lại, giống như trong mơ, anh lại nghe thấy đúng giọng nói ấy: “Mày đã giết bao nhiêu người của chúng tao?”. Vì hiểu rằng câu hỏi này có thể là câu hỏi cuối cùng anh được nghe trong đời, anh cố nói: “Khô...” và đầu gục xuống. Một thằng lính trẻ đeo cả một dải đạn quanh người đứng cạnh đó cười khì khì: “Nó nói dối đấy, đồ chó!”
- Không! - Voropaev đột ngột thét to lên với mình. - Không, tôi chỉ là người lái xe... Tôi thậm chí còn không có vũ khí trong người...
- Mày đã đi đâu? Ai ở trong ô tô?
Và anh nghe thấy hết câu hỏi này đến câu hỏi khác. Anh đòi uống nước và tên lính trẻ đưa cho anh một cái bình nước hẹp miệng. Alex uống nước như con chó đang sắp chết vì tham ăn, và anh linh cảm rằng anh sẽ không bao giờ còn được uống nước nữa. Nước chảy vào họng, làm mát dịu lồng ngực, còn đầu anh đang căng thẳng tìm kiếm phương án trả lời cho câu hỏi cuối cùng: “Tên đại uý tên là gì và đơn vị ở đâu?”. Nhưng anh luôn tâm niệm một điều rằng thà chết chứ không chỉ cho kẻ thù biết nơi đóng quân của đơn vị. Ai đó lấy bình nước đánh anh, và thiếu chút nữa thì răng anh bay ra khỏi hàm. Máu chảy ra từ đôi môi bị rách.
- Tôi không biết, tôi là người lái xe... Tôi không cần phải biết... - Nhưng anh không thuyết phục nổi chúng, thêm một cú đánh vào trán lại làm anh ngất đi.
Anh tỉnh lại trong hầm ngầm - ở một mức độ nào đó anh cảm thấy thế vì nó hoàn toàn tối đen và có mùi ẩm mốc. Anh khoa tay và sờ phải một bức tường đất sét lồi lõm. Anh nằm lên một vật cứng, nhưng không phải là một hòn đá nhẵn trơn, mà nó giống như anh đang nằm trên một tấm đệm. Chân co lên sát tay. Và dù cả cơ thể đang buồn rã rượi, nhưng anh vẫn nghĩ đến lúc thì đơn vị trung đoàn của mình, lúc thì đến những ngôi nhà, đến PotMoskva. Khoảng vài tiếng sau chúng mang đến cho anh một cốc sữa dê, một mẩu bánh mì và một bình sứ đựng nước đã vẩn đục. Anh đã kịp nhìn thấy khi nóc hầm ngầm được nhấc ra.
Vài ngày sau một người khác đã đứng tuổi, có râu, mặc đồ kiểu Hồi giáo đến hỏi cung anh. Đây là cái “cái bánh quế” của chúng. Hắn nói ngọt xớt, luôn mồm nhắc đến Đức Alla và đồng thời đặt ra những câu hỏi tu từ như: để làm gì, hả chàng trai, một quốc gia to lớn và thật hùng mạnh như nước Nga còn cần đến một đất nước nhỏ bé và yếu ớt như Chesnia? Chesnia chỉ yêu hoà bình và coi trọng sự tự do, còn mỗi dân tộc, kể cả một dân tộc chỉ có hai người, lại không có quyền đấu tranh giành quyền độc lập cho mình hay sao? Vài ngày sau chúng thuyết phục anh và làm cho anh tin rằng dân tộc Chesnia là một nạn nhân không được bảo vệ và rằng dân tộc Nga tuyệt vời, hoàn toàn vô hình trung bị số ít những nhà lãnh đạo ngu ngốc dẫn dắt đã trở thành kẻ áp bức chính của những người phụ nữ khốn cùng, trẻ em và người già của Chesnia nhỏ bé yêu hoà bình. Và luôn mồm nhắc đến thánh Alla.
Thêm một ngày tác động tư tưởng nữa thì chúng tháo còng tay cho anh và mở nắp hầm ngầm. Ánh sáng dội thẳng vào khiến mắt anh nhức nhối và mờ hẳn đi. Cái gã đã thuyết phục anh trở thành một tín đồ Hồi giáo mang đến cho anh một quyển kinh Coran. Cùng với quyển kinh là một ngọn nến và một chiếc bật lửa gas. Nhưng anh không đụng gì đến quyển sách, đơn giản chỉ đặt nó ở đầu giường.
Hai tuần sau chúng lôi anh ra khỏi hầm nhà và chúng bịt mắt anh lại dẫn đến một cái hang, trong hang thoảng mùi bạch lạp và mùi dầu tây. Có nhiều cây nến to đang cháy và vài ngọn đèn “con dơi”. Nhân vật chúng đưa anh đến gặp đang ngồi trên thảm và ăn mặc nguỵ trang. Trên đầu đội một chiếc mũ pa-pa-kha bằng lông cừu màu xám nói lên rằng người này có cấp bậc cao. Voropaev cảm thấy rằng anh đã nhìn thấy khuôn mặt này ở đâu đó. Nhưng anh chịu không thể nhớ nổi.
- Anh tên là gì, chàng trai? - Người đội mũ pa-pa-kha hỏi.
- Alex! - Anh xưng tên.
- Anh đã đọc kinh Coran chưa? - Người này cầm cuốn sách to đặt ngay bên cạnh lên và mở ra. - Alex, nói cho tôi biết dòng thứ hai từ trên xuống, trang thứ tư trong cuốn sách nói đến điều gì?
Voropaev nhìn, rồi im lặng. Có thể những tín đồ của Chúa cũng đã im lặng như anh khi bọn đa thần giáo tra hỏi họ. Lịch sử lặp lại. Loài người vẫn chưa thông thái hơn.
Alex im lặng. Và khi đó người đội mũ pa-pa-kha nói: “Nhân danh toà án tôn giáo Sariat, tôi tuyên án anh tội... chết. Anh không thể cải giáo được...”. Chúng dẫn anh ra khỏi hang, kéo anh đến bên một tảng đá trắng, trên tảng đá in thân hình anh, được chiếu rọi dưới ánh trăng sao toả sáng, có vẻ như đã bị yếu đi và hoàn toàn không được bảo vệ. Tên lính trẻ đã gọi anh là đồ chó và đã đưa cho anh bình nước dí súng vào anh. Hai gã Chesnia khác, vừa cười vừa nói chuyện với nhau bằng tiếng Chesnia, đứng ngay bên cạnh và hút thuốc lá. Không gian thoảng mùi thuốc lá.
- Tiến hành đi thôi! - Một gã cất tiếng nói bằng tiếng Chesnia. - Anh còn đợi gì nữa, hả Vakha? Hãy bắn chết tên đầu trọc này...
Và nòng súng như giật ra khỏi thân súng, bay đến chỗ tảng đá. Dội vào tảng đá làm toé lên những tia lửa. Voropaev cảm thấy rằng cả hành tinh đang xuyên qua ngực anh bằng một tia rất mỏng và nằm hấp hối ở đó. Anh nhắm mắt lại và gục đầu xuống tận đầu gối chờ đợi cái chết đến. Nhưng trong anh vẫn cháy lên hi vọng dù chỉ một lần viên đạn bắn vào cổ anh rồi trượt xuống đất. Và khi anh mở mắt ra thì không nhìn thấy kẻ đã bắn anh cũng như những kẻ đã giục gã Vakha trẻ tuổi nã đạn vào anh đâu. Anh chỉ còn lại một mình và không biết nên làm gì.
Alex ngồi xuống đất và đầu cúi sâu xuống đầu gối. Thế giới đã không có gì thay đổi và bóng tối đáng sợ đang phủ trùm xung quanh, và không cả một người nào ở quanh đây, anh bật dậy và lao đầu chạy xuống dưới, chạy vào những cây thù du đang lớn. Bất chấp những hòn đá nhọn, bụi rậm cào xước hết mặt, nhưng anh đang tận hưởng tự do, chỉ biết chạy và chạy. Đột nhiên một luồng ánh sáng chói đâm thẳng và mắt anh. Vào chính sâu trong mắt. Chúng bắt được và lại đánh anh ngã khuỵu xuống rồi bắt đầu dùng chân tra tấn khắp người anh. Chúng đánh anh cho đến khi một bóng đen dầy đặc giăng ra che lấp nhận thức của anh khỏi hiện thực. Anh tỉnh dậy trong hầm ngầm. Một người khác, không phải “cái bánh quế” xuất hiện, mà là một người Chesnia râu bạc phơ, ánh mắt ranh mãnh. Và lại đặt cuốn kinh Coran cạnh Alex.
- Tôi khuyên anh nên đọc nó! - ông ta lôi nến và một bao diêm ra khỏi túi. - Anh hãy đọc thật nhanh, nhưng phải hết sức chú ý. Tôi cho anh một tuần để đọc.
Nhưng cuộc kiểm tra vẫn không đi đến đâu. Mặt đất rung lên và cố chạy đua cùng hầm ngầm. Những người của quân đội liên bang đến.
Cánh cửa mở ra, và một người nào đó kêu lên bằng thứ giọng kim có vẻ hoang dại:
- Cứ bò ra đi, tao sẽ bắn!
Chúng trói anh lại, hai gã Chesnia trẻ kéo anh đi về hướng núi. Anh đi rất khó khăn, những quả hồ đào làm anh đau đớn, anh trượt trên chúng và luôn vấp phải chúng. Hai lần anh bị bọn chúng lấy báng súng đập vào xương sườn, còn phía sau anh tất cả kêu lên ầm ầm và bốc cháy. Anh không muốn hồi tưởng tiếp nữa... Hôm sau Xaid Akhmadov đến gặp anh. Trong lúc đi đường anh hiểu được thực chất của vấn đề.
- Không nên dạy kinh Coran cho lũ cừu như mày. Mày sẽ phải thi một kì thi khác.
Chúng đi xuống một chỗ trũng và đi qua con đường quanh co, nấp vào sau tảng đá nhô ra trên đường. Vài tên Chesnia trang bị súng tiểu liên và súng phóng lựu đạn tiến gần đến chỗ chúng. Chúng nấp vào một chỗ và đợi. Đâu đó có tiếng nhũng vòng xích kêu loảng xoảng. Tiếng ầm ầm nặng nề của xe bọc thép: một đoàn ô tô của quân đội liên bang đang tiến về phía chúng.
Akhmadov nói với một gã Chesnia:
- Ruslan, đưa cho gã người Nga này một khẩu súng phóng lựu đạn và hãy chọn mục tiêu cho anh ta.
Voropaev chết điếng, anh hiểu rằng chuyện gì sẽ xẩy ra. Nhưng không tìm thấy lối thoát, mà anh thì không muốmn chết. “Sau này mình sẽ trả thù... Tạm thời mình sẽ làm ra vẻ mình đã khuất phục, nhưng dù sao mình cũng phải tìm đường tháo chạy và trả thù lũ chó đẻ này. Mình sẽ trả thù gấp ba”.
Thoạt tiên chiếc ô tô quân sự của bộ binh xuất hiện sau chỗ đường ngoặt, theo sau nó là xe tăng, còn sau xe tăng là hai chiếc xe “URAL” nặng nề chở đầy lính, và sau chúng là đội quân tinh nhuệ, Alex hiểu rằng bây giờ dù chỉ trong thoáng chốc cũng quyết định tất cả. Chúng dúi vào tay anh khẩu súng phóng lựu đạn “con ruồi”, Akhmadov cởi một cái bao súng phóng lựu đạn khác ra.
- Nhằm bắn đi! - Gã nói với Alex. - Và hãy nhìn, cấm không được giở trò.
- Nhằm vào đâu?
- Vào xe tô quân sự của bộ binh... Hãy cầm súng và vượt lên trên một chút.
Nhưng anh làm chậm, cầm khẩu tiểu liên, quay nòng súng vào hướng khác. Akhmadov rút súng lục ra khỏi thắt lưng và dí sát vào đầu kẻ đối nghịch.
- Tao không thể! - Voropaev rên rỉ và quay lại. - Hãy giết tao đi, đồ bẩn thỉu...
Akhmadov lên cò súng.
- Tao đếm đến ba... Một, hai... Mày thấy đấy, không phải bọn tao tấn công chúng mày, mà là bọn mày tấn công chúng tao...
Voropaev quay hướng khẩu súng lại và bắt đầu ngắm. Mồ hôi chảy xuống mắt. Anh bật khóc và qua màn sương anh đau đớn nhìn thấy bóng những người đồng đội thân quen của mình trên những chiếc ô tô quân sự của bộ binh, nơi mà những người lính như anh đã từng ngồi. Anh bóp cò súng, và một đường parabol lửa vẽ lên trong không khí, quả lựu đạn bay xa khoảng năm mét chệch khỏi ô tô quân sự của bộ binh. Anh cảm thấy đau nhói sau gáy và bất tỉnh. Và vì thế không nghe thấy Akhmadov nói: “Đồ chó chết, mày thương quân mày, không yêu quí chúng tao...”. Gã người Chesnia lấy báng súng đập vào gáy anh...
Ba lần chúng mang anh theo để đi phục kích, và lần nào anh cũng làm cho những tên khủng bố này thất vọng. Còn những kẻ này dường như đặt lên hàng đầu là niềm say mê lộn trái lòng của một người lính Nga, bẻ gẫy ý chí của anh ta. Đầu tiên chúng bắn vào ngón áp út trên bàn tay trái, còn sau đó, chính gã Vakha, bắt Voropaev tháo giầy ra, rồi lấy một con dao nhọn chém phăng hai ngón chân của anh: ngón chân cái và ngón giữa trên bàn chân phải, để anh không chạy thoát được. Nhưng cái ngày đáng nguyền rủa lại đến khi chúng lại dúi vào tay anh khẩu súng phóng lựu đạn và ra lệnh để anh bắn vào chiếc “Uazik” hiện ra sau tảng đá. Và anh bắn, ngắm súng lệch hẳn với hướng xe ô tô nhưng anh hết sức ngạc nhiên khi nhìn thấy chiếc xe Uazik nhảy chồm lên, chạy thêm vài mét nữa bên cạnh đường và, lộn nhào lên qua cái nắp đậy, đâm xuống sườn dốc. Anh không biết ai lái chiếc xe ấy, nhưng Akhmadov rất hài lòng. Gã nhe răng ra cười và vỗ vai Alex. Và Voropaev không biết rằng đây là màn kịch do Akhmadov bầy ra: khi Alex ngắm bắn, thì cùng với anh gã Vakha đã bắn vào chiếc xe “Uazik” đang bị sa vào bụi rậm cây sơn tra.
- Thế mà mày nói là không thể... Chàng trai, mày sẽ được sống và sẽ chiến đấu giỏi... Bây giờ hãy cầm lấy cái đồ chơi này và hãy luyện tập một chút với những mục tiêu sống kia.
Akhmadov đưa cho anh khẩu súng của gã. Anh đã nhìn thấy, trận bão lửa từ khẩu súng phóng lựu đạn đã quật ngã những chiếc “Ural”, các đồng đội của anh nhảy ra khỏi xe, vài người trong số họ đã chết vì bị bánh xe đè lên. Còn những người khác nhảy vào các bụi rậm và bắt đầu bắn trả.
Voropaev cắn môi thật đau, mắt nhắm lại, tuôn đạn và tuôn đạn ra từ súng. Đạn bắn tới tấp ngay bên cạnh, còn anh bắn và cứ bắn. Anh cảm thấy rằng những viên đạn trong khẩu súng đang giật trên vai anh sẽ không bao giờ ngừng và rằng anh bắn rất lâu. Nhưng thực ra chuyện này diễn ra không quá bốn phút, và trong vài phút ngắn ngủi đó máy quay phim đã quay được anh cận cảnh.
Sau đó là những cuộc phục kích khác, những trận đánh khác, và anh trước tiên lại bắn trật mục tiêu, nhưng lại rất ngạc nhiên khi không thấy ai trừng phạt anh vì điều đó. Dường như chúng đã tin anh. Còn một lần Akhmadov lôi anh vào trong hang và bật máy ghi hình chạy bằng máy phát điện xách tay. Và cái hang đấy, như cái bếp ma quỉ của những tên đao phủ: trong băng cát sét là hình Voropaev phóng to và cảnh anh hoặc cầm súng tiểu liên hoặc cầm súng phóng lựu đạn trong tay tham gia là một cảnh quay cận cảnh mới khác: chiếc cầu phía sau và bắc ngang qua con đường bị giật tung đằng sau ô tô và bị thuốc nổ ATN phá tan, những người lính Nga nằm la liệt trên đường và các rãnh hai bên đường. Điều này hoàn toàn khiến người ta nghĩ rằng chính kẻ đã tạo ra đống người nằm đó và phá huỷ toàn bộ chiếc xe là chàng trai người Nga tóc vàng đã biến thành một rombi thực sự này.
Akhmadov nhăn nhở cười và thốt ra: “Alex, mày thật ranh mãnh, nhưng tao còn ranh ma hơn”.
Sau cảnh quay đó Alex hiểu rằng bây giờ anh không bao giờ có thể rửa sạch được vết nhơ này nữa. Anh hiểu điều này và hiểu con ác quỉ Akhmadov Vladimir Vladimirovich và chính vì thế khi chọn người để đi đột kích phá hoại Voronezh, gã đã đề cử Alex Voropaev là một trong những người đầu tiên tham gia vào nhóm... Gã lấy lí do là cần một người lái xe. Tuy nhiên về mục đích thì không một lời nào có thể chứng minh được tính tuyệt mật của chiến dịch đang được chuẩn bị...
... Đường đi trở nên ngắn hơn khi chìm vào những dòng hồi tưởng, nhưng lòng thì đóng băng lại. Alex Voropoev cảm thấy cực độ căm thù Akhmadov và hiểu rằng trong tình cảnh này thì không nên quay ngay về căn cứ, anh ta ngồi xuống cạnh cây bạch dương, hút thuốc và nhìn lên bầu trời, nhìn những đám mây đang trôi, cố để đầu óc tỉnh táo lại...
Người đầu tiên anh ta nhìn thấy là Izotov, hắn đang vác ống kim loại trên vai.
- Đợi tí! - Voropaev quay sang gọi anh ta và hỏi nhỏ: - Mày có biết chúng ta đang ở đây để làm gì không?
Cuộc sống khiến Izotov phải kín tiếng, y làm ra vẻ không quen biết.
- Tôi không phải người ở đây. - Anh ta nói khi nghiêng người xuống trả lời. - Anh hãy đến hỏi Xaid, anh ta chắc là biết rõ hơn tôi...
- Đừng nói gì cả nhé! - Voropaev nắm chặt nắm đấm, tiến về phía Izotov, nhưng Akhmadov gọi anh ta lại.
Cả ngày đã trôi qua trong khoảng đất trống đã được dọn sạch sẽ giữa gara và doanh trại. Tất cả các cửa sổ ở tầng một đã được dán kín lại bằng tấm giấy kính, còn trong phòng thì sạch sẽ như ai đó đã chuẩn bị sẵn cho một buổi tiệc lớn.
Các vị trí đã được xếp đặt trong đêm. Nikolesku trấn giữ phía dưới, canh gác cửa doanh trại và toàn bộ khoảng sân đã được dọn sạch. Izotov cầm khẩu súng thiện xạ có thiết bị chiếu sáng ban đêm trèo lên nóc doanh trại.
Cả bọn đang say giấc trong các túi ngủ. Xaid thiếp đi ngay lập tức, dường như hắn đang nằm trong “một hang gấu” của cái bao ngột ngạt bằng lông thú, Voropaev trằn trọc rất lâu. Những kí ức về ngôi nhà và sự cắn rứt lương tâm dày vò anh, mà chúng như một ngọn núi lửa lúc thì ngừng phun, lúc thì phụt lên ầm ầm. Gã Khadzưev người Dagestan, rõ ràng đã bị cảm lạnh lúc đi đường, và trước khi ngủ thiếp đi còn ho một trận rất lâu.
Hai tiếng sau Akhmadov lay Voropaev dậy, ra lệnh cho anh gác thay vị trí của Izotov. Alex lấy khẩu súng tiểu liên để trong túi ngủ ra, tiện thể hút điếu thuốc, rồi bước ra sân. Anh ta leo lên mái nhà theo cầu thang chống cháy, và để không xuất hiện quá đột ngột khiến Izotov phải nổ súng, anh khẽ gọi gã ta:
- Izotov, tôi đây, Alex đây...
Nhưng không ai trả lời. Mái nhà được phủ itum và chính vì vậy nó làm giảm bớt đi tiếng động của bước chân. Voropaev bò đến phần cuối bên kia của mái nhà trong bóng tối vắng lặng. Anh.ta bắt gặp Izotov đang nằm ở mép mái doanh trại, khẩu thiện xạ Dracgun đặt ngay bên cạnh anh ta. Anh ta cúi xuống và vỗ nhẹ qua vai Izotov:
- Dậy đi, xuống dưới kia mà ngủ...
Nhưng cánh tay gã ta có vẻ gì đó là lạ, như có một khối đá bất động nằm trên bờ vai gầy nhom của người đang nằm.
- Izotov, dậy đi! - Alex gọi to hơn và quay mặt lại nhìn người đang nằm bên trên.
Đôi mắt không sinh khí nhìn lên bầu trời, Alex cầm thấy tay mình có cái gì đó lành lạnh, ươn ướt. Đó là máu. Cả người Izotov đầy máu. Voropaev cởi tà áo vét đầy túi của Izotov và nhìn thấy một lỗ thủng trong áo sơ mi đã được vá bằng một lớp vải màu đen. Cán con dao Phần Lan được làm bằng nhựa trong sáng lên lấp lánh. Rõ ràng anh ta đã chết nhưng không kịp kéo con dao ra khỏi người. Đây là kiểu mổ bụng tự sát cổ xưa. “Quỉ tha ma bắt, lương tâm dày vò anh ta.. Mà tại sao lại là lương tâm, có thể là có người đã đến trong bóng đêm thì sao? Mà cũng có thể thằng chó đểu Xaid này đã mổ bụng anh ta”. - Một ý nghĩ vụt loé lên trong đầu Voropaev. Nhưng anh ta không tin điều này. Tuy nhiên khi cầm khẩu súng của Izotov lên để mang nó xuống dưới, thì anh ta nhìn thấy một cái cuộn hình ống trăng trắng, thò ra từ nòng súng của Izotov. Đó là một tờ giấy được cuộn lại, và khi mở nó ra, anh ta nhìn thấy một đoạn chữ được gạch nét bằng màu đen. Ngồi xổm xuống, anh ta bấm đèn pin và lấy đèn rọi vào những dòng chữ cuối cùng của Izotov. Trong mẩu giấy ghi trước lúc chết Izotov viết rằng: “Tôi không thể tiếp tục. Tất cả đều vô nghĩa. Mẹ, xin hãy tha thứ cho con”.
Voropaev, trong trạng thái bị thôi miên sâu sắc, ngồi bên cạnh Izotov, hướng đôi mắt bất động nhìn lên hình cái gầu múc nước rõ rệt của chòm sao Bắc Đẩu trên bầu trời. Và bầu trời dường như muốn nói: “Tôi tha thứ cho cậu, cậu đã không điều khiến nổi bản thân mình...”.
Voropaev không biết tí gì về Izotov, nhưng hoàn toàn không nghi ngờ rằng số phận Chesnia của anh ta không khác mấy với số phận của anh. Tuy nhiên liệu một người Xlavơ tóc vàng có thể tham gia vào cuộc biệt kích đặc biệt do một tên khủng bố Chesnia lãnh đạo không?
Khi Akhmadov biết chuyện đặc biệt đã xảy ra với Izotov, hắn mắng chửi theo kiểu của mình và nghiến hai hàm răng lại đến nỗi cái chân răng mạ vàng thứ tư ở hàm dưới đột ngột vỡ tan ra. Hắn nhổ những mẩu vỡ mầu vàng ra khỏi miệng, nhìn xuống đất và nói:
- Tao không bao giờ tin thằng chó chết tóc vàng này... Nhưng nó đã chết như thế là điều thậm chí còn tốt hơn. Còn bởi vì nó có thể chạy xuống và dẫn lũ chó béc giê người Nga đến đây...
Những lời “chó béc giê người Nga” như chọc thủng màng nhĩ của Voropaev. Hoá ra là chính anh đã không giống như thế và đã không tụt xuống vì một người Nga... Và anh đã ở trên mái nhà, dưới bầu trời đầy sao, Alex đào tung cả cuộc đời mình, định nghĩa, lục tìm, rồi lại thu nó gọn vào nắm đấm và pức, búng mạnh nó ra.
Xe chở hàng có mui đến vào lúc sáng sớm. Còn chưa đến năm giờ, khi anh nhìn thấy chúng tiến lại từ phía đường cái, đằng sau những cây du, rồi chạy đến con đường qua làng và nặng nề lắc lư khi đi qua những ổ gà, tiến về phía gara ô tô. Voropaev liên lạc với Akhmadov qua đài rađiô, và kẻ đó sau khi ngừng liên lạc một lát liền lẩm bẩm: “Có chuyện gì đó khiến họ đến sớm hơn... Hãy đem theo Khadzưev và đi đón xe chở hàng cùng với anh ta... Đừng quên hỏi mật khẩu... Không, hãy xuống đây, tao sẽ giải thích cho mày rõ”. Xaid không tin liên lạc điện đài khi có những cuộc nói chuyện như thế.
- Mày hãy hỏi mật khẩu, và chúng sẽ phải nói với mày rằng “Chúng tôi chở gạch silicát đến, 20 nghìn”, còn mày sẽ trả lời: “Chúng tôi đợi nó đã hai tuần nay rồi”. - Akhmadov chỉ dẫn. - Mày nhắc lại xem...
Voropaev nhắc lại.
Chúng đón xe chở hàng trong khu vực rừng công viên trải dài đến khu căn cứ và khuất xa sau nó. Quân đội Xô Viết trước kia đã khéo léo che giấu các căn cứ của mình khỏi ánh mắt mọi người, và không phải người Voronezh nào cũng biết về khu căn cứ quân sự nằm ẩn đâu đó trong khu rừng.
Khadzưev đứng trong bóng tối, bên vệ đường để có thể trong bất cứ lúc nào cũng ngầm bảo vệ được cho Alex bằng một ngọn lửa làm tín hiệu. Voropaev đứng giữa đường đi của xe chở hàng, và khi ánh đèn chiếu vào anh ta, anh ta đưa tay ra vẫy. Chiếc xe chở hàng có mui chầm chậm phanh lại, nhưng không có ai bước ra khỏi xe. Voropaev tiến đến gần chiếc xe và, ngẩng đầu lên hỏi: “Ê, các anh ở trong cabin nói gì đi chứ?” Nhưng thay cho câu trả lời là một mẩu gì đó bay ra từ cửa xe và rơi xuống đất, phát ra những tia nhỏ xíu. Miếng kim loại kêu loảng xoảng, cửa xe mở ra, một cái chân đi giày cao su thò xuống bậc cửa xe. Một người khá cao nhẩy xuống đất.
- Anh đến đón chúng tôi à? Rất tốt! - Giọng nói lơ lớ dường như là dân Gruzia. - Tôi nói thật là chúng tôi chở gạch silicát đến... hai mươi nghìn... Thế nào?
- Tôi cũng trả lời thành thật: chúng tôi đợi gạch đã hai tuần nay rồi...
- Thế thì tốt rồi, chúng ta thoả thuận vậy nhé! - Và người này vẫy tay gọi ai đó trong ca bin, còn anh ta thì đứng đó cùng Voropaev. Họ cùng đi trên đường, để chỉ hướng, còn chiếc xe chở hàng lừng lững như một ngọn núi, chạy theo sau họ.
Chiếc xe đi vào khoảng trống giữa hai toà nhà và tiến vào cổng gara không khó khăn gì, hàng được dỡ ngay tại đó. Nhưng đầu tiên bọn chúng nhẩy ra từ thùng xe thân dài, bên ngoài thùng ghi dòng chữ “Chiến dịch vĩ đại”. Chúng mặc quần áo dân sự, tuy nhiên cũng có nhiều tên mặc áo da. Akhmadov đang đứng một chỗ ngay lập tức chạy ra ôm lấy chúng, má kề má, bắt tay, đáp lại những câu nói được phát ra chủ yếu không phải bằng tiếng Nga. Hắn cười ngoác miệng, và từ miệng gã phát ra ánh sáng vàng - vì trong miệng gã đầy những cái răng mạ vàng. Người được hắn đón tiếp nồng nhiệt là một tên tóc đen, khoảng ba mươi lăm tuổi. Akhmadov nói chuyện với gã này bằng tiếng Nga.
- Thế nào, ổn cả chứ, Vakhtang? Tôi hi vọng là không có chuyện gì bất ngờ?
Và Voropaev hiểu rằng, đây là một gã người Gruzia, khi tên này cất tiếng nói thì câu chuyện trở nên sôi nổi hơn.
- Bị bọn cảnh sát chặn lại mười lần - hắn nói - và tôi đã phải xáo trộn tất cả lên.
- Thế nhưng, nhờ ơn Đức Alla, các anh đã đến được đây, - Akhmadov nói, nhưng có một điều khó hiểu, đó là ai là người chỉ huy: Akhmadov hay gã người Gruzia vừa được giới thiệu?
Akhmadov quay lại, đưa mắt tìm ai đó, và khi nhìn thấy Voropaev, hắn gọi anh ta lại gần mình.
- Được rồi, Alex, giờ hàng đã đến, mày hãy cùng với Nikolesku và Khadzưev đào hai cái hố trong hầm ngầm doanh trại, chúng ta sẽ dỡ hàng xuống đó... - Xaid ngắc ngứ không nói tiếp. Dường như gã bị nhét giẻ vào mõm. - Nhân tiện chúng mày có thể chôn Izotov ở đó, nhét nó vào trong túi ngủ rồi chôn xuống đất.
- Anh ta là một tín đồ chính thống giáo và xứng đáng để được chôn trong quan tài! - Cơn giận dữ khủng khiếp của Voropaev tăng lên đột ngột. Và rõ ràng là Akhmadov đã bị kích động vì điều anh ta nói, vì mặt gã biến đổi và gào lên như một con thú:
- Thằng khốn kiếp, mày có muốn chết cùng nó không? Tao có thể chôn mày trong quan tài với đôi mắt trợn trừng... Đừng có chọc giận tao, xéo đi đào hầm ngay.
Cả ba người bọn họ đi đào hai cái hố rộng, dài 3 mét, sâu hai mét rưỡi. Ở dưới đáy một hố chúng còn đào thêm một cái nữa, để bỏ thi thể Izotov vào.
Những tên mới đến trên xe chở hàng đã bắt tay vào việc. Đầu tiên chúng dỡ toàn bộ đống gạch silicát trắng từ trên xe xuống, đống gạch này là lớp nguỵ trang, bên dưới là những cái hòm đóng đai sắt chứa đầy đạn, súng phóng lựu đạn và súng xách tay. Khi dỡ đến những hòm vũ khí trông có vẻ khác thường, Vakhtang, vừa quan sát việc bốc dỡ, vừa nói khẽ với Akhmadov:
- Anh phải đặc biệt thận trọng với những cái hòm này...
- Ê, chàng trai! - Gã ta quay sang gọi Voropaev - Hai anh ra giúp một tay, sẽ chôn tất cả đấy.
Alex gọi Nikolesku đến giúp mình, và khi cái hòm đầu tiên được mang vào trong hai cái hố vừa được đào xong, Voropaev búng vào cái ổ khoá khung trên nó và nhìn thấy cục gì khá lớn, được bọc lại trong một tờ giấy tẩm dầu. Đó là một trái bộc phá nặng 60 cân, được đặt trong đống mùn cưa.
- Thế còn chưa hết đâu? - Nikolesku thốt ra một cách ngạc nhiên. - Những đồ vớ vẩn này ở chỗ chúng tao đã được đem ra sử dụng vào thời xung đột ở Pritnextropxki[i], chúng có thể cuốn đi một toà nhà năm tầng hoặc nhấc tung lên không trung cả một cái đầu máy xe lửa...
- Im đi! - Voropaev ngắt lời gã người Moldavil. - Đấy không phải là chuyện của chúng ta.
Sau đó chúng bê vào hầm ngầm một tá súng tiểu liên “Uzi” và hai khẩu súng phóng lựu đạn tự động. Và bê thêm vào vài hòm súng khác. Đây là cả một kho vũ khí nhưng chỉ trong vòng ba mươi phút chúng đã chôn xong dưới hầm ngầm và bắt đầu tạo lớp nguỵ trang bằng đất, sau đó chúng lấy những cái tấm cũ gì đó chất đống lên trên. Nó giống như quang cảnh từ ngày trạm ô tô này đang được xây dựng.
Nhưng điều đáng ngạc nhiên nhất lại đến muộn hơn khi chúng bê những paraplan[ii] xuống từ chiếc xe tải chở hàng. Những paraplan này được bôi lên một lớp mầu đen và khiến người ta nghĩ đến những con chim khổng lồ bị gẫy cánh thời tiền sử. Sau đó chúng lại khuân ra từ xe tải những động cơ được nén chặt, và Voropaev nhớ lại: chính những cái máy nổ này đã được buộc chặt trên một paraplan mùa hè năm kia ở công viên Adinsovxki chở một hành khách và nâng lên khoảng 500 mét, tạo ra một phạm vi có thể quan sát được rồi quay trở lại chỗ Đầm Bạc đi về phía con đường nhỏ rải sỉ. Cách lấy đà kiểu chuồn chuồn như thế nhanh đến mức khó tin - nhiều nhất là mười mét. Việc hạ cánh còn ngắn hơn như thế. “Lúc đó, có lẽ là một trò chơi lớn sẽ bắt đầu, và mình sợ rằng trong trò chơi này đối tượng sẽ là những đại bản doanh cao tầng... kể cả đến nhà máy điện nguyên tử...” - Voropaev run thầm vì thảm cảnh không may rơi vào khu vực bị nhiễm phóng xạ.
Gã người Gruzia xuất hiện ở đây để hộ tống cho Akhmadov, và chúng chăm chú theo dõi chỗ “chôn cất” vũ khí. Voropaev dùng xẻng san phẳng mặt đất và nghe Vakhtang nói với Xaid:
- Barx gửi lời hỏi thăm anh và tin rằng anh sẽ không tiếc sức mình... Tất cả phải được kết thúc trong vòng một ngày đêm...
- Vâng chúng tôi và cả anh lúc này không cần phải làm thêm gì nữa... Ai sẽ mang hàng bay đến đây? - Gã hỏi Vakhtang. - Họ là những người đáng tin cậy chứ?
- Rất đáng tin cậy! Đó là các thiên thần của Alla, những người chấp nhận làm việc không trở về...
- Tôi hiểu, những cảm tử quân. Họ có bao nhiêu người?
- Ba, bằng số lò phản ứng.
- Nhưng ở đây có năm lò...
- Không quan trọng, một cái đối với chúng ta là đã đủ...
- Còn vai trò của chúng tôi là gì?
- Thao diễn đánh lạc hướng. Chúng ta sẽ mô phỏng một cuộc tổng tiến công vào các cổng chính. Đầu tiên phải phân trạm trung tâm lên. Mà điều quan trọng là thu hút sự chú ý của UFCB và của Bộ Nội vụ, phải dẫn họ sang các vùng khác của thành phố. Tôi và người của tôi sẽ bắt tay vào làm việc này... - Và gã này ngừng một chút rồi nói tiếp: - Tôi thấy chỗ anh có bọn Xlavơ, tốt lắm, bọn này quả là có ích vì chúng không còn sự lựa chọn nào khác...
- Thật đáng tiếc, hôm nay một chiến sĩ của chúng tôi đã chết... nhân tiện, một thằng người Nga đã mổ bụng mình tự vẫn. Một tài năng thể thao môn bi-a. Một thiện xạ tuyệt vời. Thằng này rất thích hợp để đánh lạc hướng bọn liên bang. Nhưng rõ ràng là nó đã bị suy sụp thần kinh...
- Khi đến chỗ bọn anh, nó có gì khác không?
- Bỏ chạy khỏi đơn vị thiết xa vận và 30 khẩu súng cùng với đạn dược.
- Còn thằng thứ hai đã giúp chúng ta phá tung chiếc xe?
- Thằng này đích thị là một con quỉ. Rất thẳng tay, tỉ số của nó là hai ô tô quân sự bộ binh, một xe chở xăng và một xe “Ural” chở lính tinh nhuệ. - Akhmadov nói dối.
- Tín đồ Hồi giáo à?
- Còn chưa được. Đọc kém lắm, nó khó mà nhai nổi kinh Coran.. Tạm thời cứ đặt ống giác hút máu cho cái lũ bất trung, nhưng tôi biết, sớm hay muộn thì nó cũng vò nát niềm tin của chúng ta.
Voropaev, vì không chú ý đến những kẻ đang nói chuyện, anh ta bước ra khỏi gara và ngồi lên một cái thùng rỗng, bắt đầu hút thuốc. Khadzưev bước đến bên anh ta hỏi xin một điếu xì gà.
- Ngay lúc này, xét một cách toàn diện, thì cái kết cục nhỏ bé của thế giới sẽ sớm đến thôi. - Gã ta nói. - Nikolesku bắt đầu bị đi ỉa chảy, bị hành hạ bởi các cơn đau khủng khiếp.
- Nếu anh có bộ não bám đầy rác rưởi, hãy cầm lấy một khẩu tiểu liên và làm cho nó sạch sẽ... Nhưng để bắt đầu hãy hướng nòng súng lên một chút, còn sau đó đừng quên bóp cò...
Voropaev đứng dậy và đi vào trong gara, nơi hàng vẫn đang được bốc dỡ. Anh ta thích thú muốn biết những tên này còn chở gì đến nữa và cần phải trù tính điều gì trong hai ngày đêm sắp tới...
Chú thích:
[i] Địa phận dọc bờ sông Dnestr (Nga)
[ii] Thiết bị bay được ở trên cao (Nga) khi cất cánh chở được khối lượng tối đa không quá 495 kg, vận tốc tối thiểu khi bay là dưới 65km/giờ. Thiết bị này chia làm hai loại: deltaplan và paraplan.