Chương 8
Giữa mùa Hè năm 1961, huyện Củ Chi tuyển đợt đầu những thanh niên cốt cán vào quân giải phóng. Đợt này đòi hỏi tinh thần xung phong, chịu đựng gian khổ và phải có sự đồng ý của tất cả mọi người trong gia đình.
Má Tám đi cùng với con ra điểm tập kết. Lợi vừa có cái kiêu hãnh của một người chiến sĩ vừa cảm thấy mình như đứa trẻ thơ bên cạnh người mẹ già. Anh mang một cái túi vải nhỏ sau lưng, trong đó thứ quý giá nhất là chiếc võng ny-lông mới mà má đã bán hai giạ lúa để sắm cho con.
Bữa cơm chia tay, má cứ gắp thức ăn bỏ vô chén anh. Lợi ăn chưa hết má đã bỏ miếng khác. Lúc nhỏ, những cử chỉ như thế làm anh bực dọc, có lần anh nói: “Má kỳ quá, con tự gắp ăn được mà, má bỏ vô chén con hết rồi lấy gì má ăn”. Nhưng bây giờ thì anh ngồi im. Anh không biết nói sao. Chén cơm đã đầy thức ăn mà anh thì cứ ngồi nhìn bàn tay khô gầy guộc của má. Bàn tay ấy vẫn nhiều khi làm anh muốn khóc. Bàn tay ấy bây giờ nằm trong tay anh.
Anh nhớ lần má bị bệnh nặng, gọi anh đến bên giường mà nói: “Má có chết cũng không sao, má chỉ lo cho hai con khờ dại, còn anh Hai con thì ở miền Bắc xa xôi”. Lợi nói: “Má, má đừng nói vậy, con sợ lắm”. Má tiếp: “Lúc ba con bị bọn Pháp tra tấn đến chết, má mới ngoài ba mươi tuổi, về sau có nhiều người cũng muốn đem mẹ con mình về nuôi nhưng má nghĩ, họ vui thì dễ, nhưng khi họ buồn thì đâm ra nhiều chuyện, con ông con bà, rồi cũng sẽ chẳng ra sao… Vì vậy mà má không muốn tìm người ba kế cho con”.
Hiền cũng đi theo tiễn anh, cậu bé nói: “Anh cứ yên tâm lên đường, em ở nhà sẽ lo cho má”. Biết bao nhiêu lời mộc mạc, giản dị trong buổi chia tay ấy. Những người thân, những thanh niên đầy nhiệt tình, những bà mẹ, đứa em, những giọt nước mắt…
Tiếng còi vang lên. Những người lính mới đứng vào hàng. Và từ vị trí ấy, Lợi cùng đồng đội ra đi. Đó là chặng đường vô cùng gian khổ, gió mưa, muỗi vắt, nắng cháy, bom mìn. Có những đêm dừng chân tạm nghỉ quân bên rừng Lợi chưa quen cột võng, giăng ny-lông nên đã hứng trọn những cơn mưa đầu mùa dữ dội, nước chảy theo dây dù thấm xuống võng, ướt cả quần áo anh. Đêm khuya gió rừng lạnh thấu xương, cơm lại không đủ no lòng.
Những buổi chiều khi nắng vừa tắt, Lợi ra đứng bên bờ suối Sà Cét (chiến khu Đ) nhìn dòng nước chảy róc rách qua các mỏm đá. Dòng suối thiên nhiên vừa trong vừa mát đã gợi lại cho anh biết bao kỷ niệm về khúc sông hò hẹn ở quê nhà. Những nương rẫy của đồng bào thượng ở xa xa ánh lên chút nắng chiều làm anh nhớ thiết tha cánh đồng vào những mùa gặt, nhớ cái hôm đầu gặp Huệ giữa biển lúa mênh mông… Nhưng những ngày tháng luyện tập ở thao trường đã giúp anh vượt qua những nhớ nhung buổi đầu ấy và hình thành trong anh một bản lãnh mới.
Cuối khóa, Lợi được bổ sung về đại đội C 153 của Quân Khu miền Đông vừa thành lập.
Một hôm Lợi được phân công đi chặt tre về chẻ hom để đánh tranh Lợi cùng hai đồng chí nữa tiến sâu vào rừng. Mải mê chặt tre đến khi trở ra thì không còn biết đường lối nào nữa. Mỗi người vác ba cây, cứ lủi thủi bước đi. Rừng già chiến khu Đ toàn là cây lớn, ba anh em cứ đi vòng vòng cả buổi trong rừng mà vẫn không tìm thấy lối ra, chỉ nghe chim kêu vượn hú.
Cuối cùng, ba anh em bàn nhau cắt rừng đi về hướng Tây. Quả nhiên gặp con suối và từ đó cứ theo suối mà đi miết thì gặp cái bến tắm quen thuộc của đơn vị. Ba anh em mừng quá leo lên bờ về lại căn cứ.
Kể từ đó Lợi học cách đi rừng và đến đâu anh cũng đã có thể sục sạo trong cái thế giới rừng già thâm u để tìm măng, rau, cá về cải thiện đời sống cho anh em. Đi đâu Lợi cũng bọc lưỡi câu theo mình, đêm nào anh cũng đem lưỡi câu ra cắm, xong đứng trên tảng đá lớn lắng nghe nước chảy lướt qua bàn chân mát rượi mà lòng nhớ nhà vô kể. Nhớ má trưa trưa thường đem đồ ra sông giặt, nhớ Huệ nghịch nước trong đêm trăng nào. Một con cá lớn vừa cắn câu quẫy đuôi thật mạnh. Lợi chạy đến kéo lên. Ở rừng già cá nhiều không kể xiết, nhờ thế đời sống anh em cũng đỡ phải cực khổ.
Một buổi trưa nóng nực, Lợi giăng võng giữa rừng nằm mơ mộng lan man thì đồng chí liên lạc từ văn phòng đại đội chạy đến đưa cho anh một bức thư. Anh cầm bức thư của má mà tay run lên. Ôi, má thân yêu của con, má vẫn khỏe mạnh, nét chữ của má vẫn chưa run. Chỉ có bàn tay chai dày dạn của người lính trẻ là run lên vì xúc động.
Anh đọc đi đọc lại bức thư ấy nhiều lần mà mỗi lần xếp lại bỏ vào túi anh vẫn cứ hình dung một hình bóng mẹ được thu nhỏ lại hiện ra giữa trang giấy trắng đơn sơ, hình dung má đang ngồi ngoáy trầu trên bộ ván, hình dung cái vai áo bạc thếch của má hôm tiễn anh lên đường…
Những hình ảnh ấy cứ theo suốt anh trong những cuộc hành quân đi qua biết bao nhiêu đồng bằng và rừng núi…