Chương 3 NGÀY 4, THÁNG 12, NĂM 2004
KHI TRÁT LỤC SOÁT ĐƯỢC GỬI ĐẾN, đội Ðiều tra Hiện trường đang đợi ở Ngõ Bogan Gates đã rà soát khắp ngôi nhà gạch im ắng, thu thập bất kỳ thứ gì trông có thể trở thành bằng chứng. Chuyên viên hiện trường Amber Roessler và điều tra viên pháp y Ray Rawlins chụp hình phòng ngủ và xác Jenn Corbin. Trong khi các chuyên viên khác chụp thêm hình ngôi nhà, quay phim hiện trường, và lấy các số đo cho phép họ định vị vị trí của các yếu tố quan trọng sau này. Bất cứ thứ gì trong phòng giờ đây đều có thể không bao giờ còn mang ý nghĩa như xưa nữa. Việc cực kỳ thiết yếu là họ phải chụp hình phòng ngủ chính và toàn bộ nội thất và ngoại thất của ngôi nhà Corbin. Họ sẽ cho vào bao cả những thứ mơ hồ nhất, thành một chuỗi chứng cứ, dán nhãn và niêm phong riêng rẽ để tất cả đều bất khả xâm phạm, dù có phải qua tay bao nhiêu người. Và mỗi người đụng đến chúng sẽ phải ký tên vào đó.
Lúc 3 giờ chiều, gần tám tiếng đồng hồ sau khi Dalton Corbin chạy băng qua đường để tìm người đến với mẹ nó, các nhân viên điều tra hiện trường vẫn giữ nguyên hiện trạng. Xác của Jennifer Corbin vẫn còn nằm ở chỗ nó được phát hiện nhiều giờ trước. Dường như có vẻ nhẫn tâm khi để cô nằm đó, nhưng các điều tra viên không có chọn lựa nào khác; tất cả những gì họ có thể làm cho cô lúc này là tìm ra cô đã chết như thế nào, và mọi chi tiết về cái chết của cô, dù có vẻ vụn vặt tầm thường đến mấy, vẫn quan trọng đối với họ. Nếu cô đã tự kết liễu đời mình, họ sẽ có thể xác minh được điều đó. Nhưng nếu ai đó giết cô, họ cũng sẽ biết điều đó, và nếu đúng như vậy, họ nhất định sẽ tìm ra kẻ đó. Trong điều tra án mạng, không có gì được coi là hiển nhiên, và mọi vật hiếm khi nào thể hiện đúng ý nghĩa như bề ngoài của chúng.
Các phóng viên theo dõi điện đàm của cảnh sát ở hạt Gwinnett đã báo cho các tổng biên tập của họ về một cái chết tại Ngõ Bogan Gates, họ lưu ý rằng dường như đây là một vụ tự tử, và báo chí và truyền hình địa phương đã đưa tin như thế. Mặc dù những người thực sự biết Jenn lắc đầu phản bác, những người xa lạ trong vùng Atlanta đều nghe nói đến vụ “tự tử” và tin vậy.
Marcus Head và Ray Rawlins không biết Jenn khi cô còn sống. Bây giờ, họ sẽ gặp cô khi cô đã chết. Head sẽ dò ngược về quá khứ, lần tìm những biến cố nào, nếu có, có thể đã làm cô tuyệt vọng đến mức tự kết liễu đời mình. Hoặc những bí mật nào còn bị che giấu trong đời cô - hoặc trong đời của kẻ giết cô - có thể cho thấy cô là nạn nhân của một vụ sát hại.
Ðầu óc của các điều tra viên hạt Gwinnett đều cởi mở; họ sẽ cân nhắc mọi tình huống. Và hy vọng sẽ đi đến chỗ biết được Jennifer Barber Corbin cũng rõ như những người đã quen biết cô khi cô còn sống. Thậm chí có thể còn rõ hơn.
Ngay khi các chuyên viên hiện trường hoàn tất công việc của họ, Rawlins và Head lại đi vào nhà. Cánh cửa trước mở ra hành lang, với một phòng ăn chính phía bên trái và một phòng làm việc bên phải. Họ để ý thấy nhà vợ chồng Corbin rất sạch, và được trang trí bởi một người tự hào về nó, một người có đầu óc sáng tạo và khả năng pha trộn các trang bị nội thất vừa đắt tiền vừa thực dụng vào trong một ngôi nhà ấm cúng và phóng khoáng. Hai người đàn ông cố phớt lờ những vật trang trí lễ Giáng sinh. Thật đau đớn khi hai đứa trẻ mất mẹ, nhưng mất mẹ vào thời điểm lễ Giáng sinh thậm chí còn đau đớn hơn. Những đứa trẻ đó chắc chắn sẽ nghĩ đến ngày này và cảm nhận sự mất mát của chúng mỗi dịp Giáng sinh trong suốt cuộc đời còn lại của chúng.
Rawlins và Head đi qua hành lang, ra phía sau nhà. Hành lang dẫn qua bên phải, và họ theo đó đi vào phòng ngủ chính. Ðó là một căn phòng khá lớn với nội thất bằng gỗ sẫm, những cái bàn ngủ có chụp cẩm thạch, và một cái giường màn trướng cỡ lớn với những chiếc cột chạm khắc đồ sộ, được trang trí lộng lẫy ở đầu giường. Rèm và chăn nệm đều theo thiết kế của Tommy Hilfiger, với mẫu thêu hoa hồng cải bắp và các họa tiết cong như lông vũ.
Kề bên giường, có gì đó không hợp lý, có một chai vodka Absolut loại lớn, bây giờ dùng để đựng những đồng tiền xu. Ðèn còn sáng, và tivi cũng vậy.
Jennifer Corbin nằm vắt ngang qua giường, cái dáng cao thật duyên dáng, gương mặt bình thản. Cô nghiêng người gần hết về bên trái. Hình như không có dấu hiệu gì của một cuộc vùng vẫy, tuy tư thế nằm của cô không phải của một người chuẩn bị ngủ. Phía lưng trên của cô ngang với đầu giường và hai chân duỗi về cuối giường. Có ba cái gối trên giường; tấm chăn chỉ đắp từ eo đến hai mắt cá chân cô. Một trong ba chiếc gối xù ra, nhưng có một vết lõm sâu hình bầu dục ở giữa.
Cánh tay trái của Jennifer đặt dưới người, ngoại trừ bàn tay đặt ở gần ngực trái. Cánh tay phải của cô gập lại chỗ khuỷu tay nên cẳng tay nằm ngang thắt lưng. Phía dưới và cách tay phải cô vài phân là một thứ trông như khẩu súng ngắn 38, nằm trên tấm chăn. Tuy nhiên, nòng súng hầu như nằm giấu dưới tấm chăn.
Hai điều tra viên cau mày, một lần nữa ngạc nhiên bằng cách nào khẩu súng rốt cuộc lại có thể ở tại vị trí đó. Khó có thể - hay thậm chí không thể - có chuyện khẩu súng rơi khỏi tay cô vào khoảnh khắc phát nổ và rồi được che bên dưới chăn. Chắc chắn cô sẽ không thể nhét nó vào chỗ đó. Họ sẽ khám nghiệm tử thi để biết rạch ròi, nhưng với vết thương ở đầu cô, họ tin rằng cô đã chết tức thì.
Vì không biết Jennifer Corbin thực sự chết như thế nào, họ nhất thiết phải lưu ý tư thế nằm của cô, vị trí của khẩu súng và vệt máu chảy. Ðầu cô hơi nghiêng về bên trái. Máu trào ra từ hai cánh mũi cô và chảy thành một vệt hơi ngược lên qua mí mắt dưới trái rồi nhỏ giọt xuống đệm. Không có vết máu nào khác trên mặt hay miệng. Ðiều đó cho thấy rằng cô đã không động đậy, hay chính xác hơn, không bị xê dịch sau khi bị bắn, trừ phi cô nằm trong một tư thế cho đến khi máu khô hết, mà điều đó thì không thể xảy ra. Mái tóc vàng hoe ở phần bên phải và ngang phía sau đầu cô nhuốm máu đỏ tươi.
Bây giờ sẽ cần đến các chuyên gia về mẫu máu và đạn đạo để xác định góc bắn, khoảng cách giữa khẩu súng và đầu, và có phải Jenn hoặc ai đó đã nổ súng.
Những chỉ báo lạnh lùng sau khám nghiệm tử thi sẽ giúp họ xác định chính xác hơn thời điểm của cái chết. Những phần thân thể không được che đậy của cô giờ đây lạnh ngắt, và hiện tượng xác chết cứng lại đã bắt đầu diễn ra. Nó sẽ làm cho thân thể cô hoàn toàn cứng ngắc trong khoảng bốn mươi tám giờ, và sau đó từ từ phân hủy.
Ray Rawlins thấy rằng hiện tượng hồ máu tử thi hay các vết tím đã bắt đầu xuất hiện. Ðó là hiện tượng một vết bầm tím lốm đốm xuất hiện khi máu dồn xuống phần dưới cùng của cơ thể sau khi tim ngừng bơm máu. Không có thêm màu sắc nào khác, không có vệt ửng hồng nhẹ. (Nếu thi thể được di chuyển sau khi vết tím xuất hiện, vết đậm sẽ vẫn còn y nguyên, nhưng những vết nhạt hơn sẽ cho biết có ai đó đã thay đổi tư thế của nạn nhân một lúc nào đó sau khi chết).
Vết thương vào đầu hình thành bởi viên đạn duy nhất đi vào bên phải đầu Jenn Corbin - hơi nhích ra sau về phía gáy - và vết đạn trổ ra ở bên trái với một mảnh xương nhỏ trồi lên dưới da đầu. Bản thân viên đạn hình như vẫn còn nằm trong não cô, gần thoát ra ngoài. Mắt Jenn và các mô gần đó thâm tím và sưng phù, biểu hiện sung huyết quanh nhãn cầu thường thấy sau khi bị một vết thương do đạn bắn vào đầu. Ðây không phải là dấu hiệu cho thấy Jenn bị đánh đập, mặc dù đối với người không có chuyên môn về y khoa thì nó trông có vẻ như vậy.
Hai bàn tay không có vết thương làm chứng cứ cho sự tự vệ; móng tay của cô vẫn nguyên lành và không bị gãy, da mượt, và không có vết trầy xước.
Hoặc Jenn đã tự sát, hoặc, nếu cô bị sát hại, cô không bao giờ thấy cái chết đang đến với cô. Ðiều đó có thể đem lại cho gia đình cô chút an ủi. Cô đã không chết trong hãi hùng.
Ray Rawlins cẩn thận nhấc khẩu súng đang nằm khuất bên dưới ra khỏi tấm khăn trải giường. Anh quan sát cả hai bên súng rồi tháo ra. Có một vỏ đạn hết nằm dưới cò súng; trông cũng giống hệt ba viên đạn chưa bắn - tất cả đều là đạn mũi tròn. Ổ đạn không chứa vỏ đạn cũng như viên đạn. Ðôi khi người ta nạp đạn theo lối này để an toàn. Nếu bị cướp cò, sẽ không có viên đạn nào trong ổ.
Khẩu súng này là loại súng ngắn Smith & Wesson ổ quay, nòng thép, cỡ 38, số hiệu 397676. Nếu gặp may, con số này có thể giúp họ lần ra người sở hữu khẩu súng này đến tận ngày đầu tiên nó rời khỏi xưởng Smith & Wesson. Không thấy dấu vân tay trên nòng súng hay trên báng súng thô nhám.
Vào lúc 3 giờ 15 chiều, Ray Rawlins chính thức thông báo Jennifer Corbin đã chết. Ðó chỉ là thủ tục. Các nhân viên y tế từ Ðội Cứu hỏa số 14 của hạt trước đó đã khám người cô và báo cho anh biết cô ta đã qua đời.
Marcus Head giúp Rawlins bọc hai tay của Jennifer Corbin vào bao giấy, sau đó dán lại bằng băng keo bảo quản chứng cứ. Nếu có chút gì của thuốc súng, hoặc chút da của kẻ giết người trong móng tay của cô, những cái bao đó sẽ bảo đảm không có chứng cứ nào bị thất thoát trên đường từ nhà cô đến Phòng Khám nghiệm Y khoa.
Họ cẩn thận đắp lên xác Jennifer một tấm khăn mới bằng vải lanh rồi đẩy xác vào trong một cái bao mới tinh. Ðây là biện pháp đề phòng có thể mất mát các mô hay những gì còn sót lại trước khi cô được đưa đến Nhà xác hạt Gwinnett.
Lặng lẽ, những người hàng xóm của Jennifer đứng trông theo khi cô rời khỏi nhà mình lần cuối cùng. Ngôi nhà cô yêu mến giờ được bao quanh bằng những dải băng màu vàng của cảnh sát.
***
Dù việc điều tra cái chết của mẹ chúng mới chỉ trải qua mấy giờ đầu tiên, Dalton và Dillon đã chờ đợi một cách bồn chồn bên ông ngoại Max của chúng ở Sở chỉ huy Cảnh sát hạt Gwinnett tại số 770 đường Hi Hope thuộc Lawrenceville. Một con đường nghe tên vui vẻ một cách trớ trêu đối với một cơ quan chuyên xử lý quá nhiều thảm kịch.
Vẫn chỉ mới xế chiều ngày 4 tháng Mười hai, nhưng ngày hôm ấy dường như kéo dài vô tận đối với gia đình của Jenn, nhất là đối với hai cậu con trai của cô.
Ðiều tra viên Curtis Clemmons dẫn Dalton vào phòng thẩm vấn dành cho trẻ con. Có một cái bàn tròn nhỏ ở đó, một chiếc ghế gỗ cao đúng bằng một cậu bé khoảng bảy tuổi.
Một máy quay phim bí mật ghi lại mọi chi tiết nhỏ nhất của cuộc phỏng vấn này. Dalton trông quá nhỏ và dễ bị tổn thương, nhưng rõ ràng nó đang cố gắng hết mức để trả lời các câu hỏi của Clemmons. Nó khai tên: Dalton Fox Corbin. Và địa chỉ: 4515 Ngõ Bogan Gates ở Buford, Georgia. Nó biết ngày sinh của mình, 12 tháng Ba, 1997, và số điện thoại của mình.
Clemmons chưa sẵn sàng hỏi Dalton những câu hỏi khó; những câu hỏi đó trước sau cũng phải đặt ra. Trước hết, ông phải tạo ra một không khí tin cậy và ưng thuận. Ông giữ cho giọng mình nhẹ nhàng và khích lệ, khen Dalton thông minh. Ông nói điều đó một cách thực lòng: Dalton rõ ràng rất thông minh. Daton dường như thích thú với phần đầu của cuộc trò chuyện này, và tuy vậy nó vẫn ngồi bên mép ghế như một chú chim non, cảnh giác và sẵn sàng bay đi.
“Cháu có đeo kính hay kính sát tròng không?” Clemmons hỏi. Ðó không phải là một câu hỏi cần thiết, nhưng mỗi câu chất vấn không nhắc Dalton nhớ lại những gì đã xảy ra trước đó 7, 8 giờ dường như khiến nó cảm thấy yên tâm hơn trước Clemmons.
Bây giờ điều tra viên chìa ra một xấp những miếng giấy màu. Dalton dễ dàng nhận dạng các mẫu này, cũng như đối với các hình vẽ con vật sau đó.
“Tốt... tốt,” Clemmons nói.
“Ở trường Harmony cháu thích học lớp nào nhất?” Clemmons hỏi.
“Lớp mẫu giáo!”
“Cháu thích ăn món gì nhất?” Clemmons hỏi mà đã biết trước câu trả lời từ nhiều lần nói chuyện với con nít.
“Pizza!”
Ông hỏi Dalton có biết sự khác nhau giữa “chạm nhẹ” và “đụng mạnh,” ví dụ, bị thoi vào mũi, hay được ông ngoại ôm ấp không.
Dalton biết. Mẹ nó đã cẩn thận dạy nó làm thế nào để tự vệ. Và nó biết sự khác nhau giữa sự thực và lời nói dối.
Nó cũng nhận ra những câu hỏi gì sắp đến. Ðột nhiên Dalton gục đầu xuống hai cánh tay đang khoanh lại. Cả Clemmons lẫn chú bé trước mặt ông đều không muốn chạm tới đề tài Jenn Corbin.
“Cháu có biết tại sao cháu ở đây không?” sau cùng Clemmons hỏi.
“Vì mẹ cháu bị giết sáng nay,” Dalton đáp. “Khi cháu thức dậy, cháu vào gặp mẹ cháu, cháu đứng ngay bên cạnh mẹ và có máu ngay chỗ này.” Nó chỉ vào dưới mũi nó. “Cháu không gọi mẹ dậy được nên cháu gọi 911.”
Ðến đây, câu chuyện không giữ được nữa, và như cái hộp của Pandora[1], những thứ tệ hại không thể cất trở lại được. Và cho dù biết thế, thật nát lòng khi quan sát. Một đứa trẻ con không thể hiểu được sự thường hằng của cái chết. Dalton gần lên bảy rồi, nhưng nó không hình dung được tất cả những năm tháng phía trước không có mẹ nó. Nó có vẻ bình tĩnh, khi trả lời các câu hỏi của Clemmons. Nó biết lúc đó là 7 giờ sáng khi nó vào đánh thức mẹ dậy, và Dillon em nó còn đang ngủ. “Nó thức dậy,” Dalton nói, “khi nghe cháu kêu lên ‘Mẹ, mẹ!’”
Nó biết cái tivi trong phòng mẹ vẫn đang mở, và Dillon cũng đã vào phòng mẹ.
“Có ai khác ở đấy không?”
“Con chó của cháu. Zippo.”
“Cháu có nghe tiếng ồn gì đêm qua không?”
“Ơ, ơ. [Không]. Cháu đi ngủ lúc mười giờ. Và bố giết mẹ cháu.”
Clemmons thận trọng không để lộ một chút choáng váng nào trước câu trả lời này; ông cũng không cử động hai bàn tay hay cựa quậy người. Ông hỏi Dalton tại sao lại nghĩ bố giết mẹ trong khi nó không nhìn thấy chuyện đó xảy ra. Dalton giải thích vì chiếc xe hơi của bố thường đậu giữa nhà mỗi buổi sáng, nhưng sáng hôm nay nó biến đâu mất.
“Ai nói với cháu điều đó?”
“Cháu tự suy ra.”
“Cháu có thấy bố cháu không?”
“Không.”
Dalton bảo rằng bố mẹ cãi nhau rất dữ, và lặp lại bố đã giết “mẹ cháu” và sau đó bỏ đi đến nhà chú Bob.
Nhưng liệu Dalton đang mô tả những gì nó đã nhìn thấy và nghe, hay nó đang bịa ra? Nó thực sự có khả năng tách biệt ngày hôm nay với ngày hôm sau khi cố nhớ lại những lời qua tiếng lại trong gia đình chín, mười ngày qua không?
“Tất cả những gì cháu nhớ được là mẹ cháu, bố, và em đang ăn tối lúc sáu giờ,” nó kể với Clemmons. “Cả nhà ăn đồ nướng và kem, rồi mẹ đi ngủ còn bố đi làm. Bố là nha sĩ.”
“Bố cháu làm việc ban đêm à?” Clemmons hỏi, giọng nói lộ vẻ ngạc nhiên.
“Bố lấy cắp mọi thứ của mẹ cháu - như cái điện thoại di động mới mua và sổ sách giấy tờ của mẹ.”
“Sau khi ăn tối, cháu đi ngủ lúc mười giờ phải không? Cháu có nghe bố mẹ rầy rà nhau không?”
“Không. Lần gần đây nhất bố mẹ cháu cãi nhau là hôm thứ ba.”
“Khi cháu đi ngủ, bố cháu vẫn còn ở nhà?”
“Dạ phải, bố đang ngủ trong phòng cạnh phòng cháu. Mẹ và bố ngủ riêng.”
“Bao lâu rồi?”
“Ummmm - từ tuần qua.”
***
Clemmons thận trọng xem xét lại những điều Dalton đã kể với ông. Nhà điều tra này biết những gì Marcus Head đã biết cho tới lúc này vì Head đã thông báo tóm tắt với ông, nhưng ông hết sức cẩn thận không gợi ra một ý gì với Dalton.
“Cháu, Dillon, mẹ cháu, bố cháu, và Zippo, chú chó của cháu, đều ở nhà? Cháu ăn tối lúc sáu giờ, và cháu đi ngủ lúc mười giờ. Cháu xem ti vi bốn tiếng rồi mới đi ngủ?”
“Umm-hmm [Vâng.] Thỉnh thoảng cháu ngủ trong phòng ngủ của cháu, và thỉnh thoảng trong phòng đồ chơi với Dillon.”
Dalton chắc rằng bố ở nhà khi nó đi ngủ. Nhưng khi nó thức dậy, ông ta đã đi mất. Nó nói thấy khẩu súng trên giường mẹ, nhưng nó không đụng đến.
“Tốt lắm,” Clemmons hồ hởi nói, bởi biết đâu khẩu súng vẫn còn đạn vào lúc đó.
Dillon cũng đòi ăn sáng, nhưng mẹ chúng không nghe thấy. Dalton biết rằng mẹ nó đã chết. Nó cố gọi 911, nhưng điện thoại tắt ngấm. Và chính lúc đó nó băng qua đường chạy tới nhà vợ chồng Comeau.
“Cháu có ngạc nhiên vì sao điện thoại tắt không?”
“Có lẽ bố cháu cắt.”
“Bố cháu có bao giờ nổi điên với mẹ cháu không?”
“Có.”
“Tại sao?”
“Bố nghĩ mẹ cháu nói dối. Hai người tranh cãi suốt từ thứ ba tuần rồi đến hôm nay. Hai người nói về việc sống riêng và nhờ đến luật sư. La hét với nhau nữa.”
“Việc đó làm cháu cảm thấy thế nào?” Clemmons nhẹ nhàng hỏi.
“Cháu thấy buồn.”
Dalton kể bố nó nói chuyện với nó về khả năng hai người ly dị. “Bố nói: ‘Bố yêu các con, và bố sẽ mãi yêu các con.’”
Ðây là một cuộc thẩm vấn khó khăn đối với một người bản thân là cha. Clemmons hỏi lại Dalton có nghe thấy gì lạ trong suốt đêm không. Cậu bé nghĩ bố mẹ nói chuyện về việc bố lấy đi máy tính của Dalton, và nói gì đó về việc mẹ rút tài khoản ngân hàng của bố nó.
“Ðêm qua có tranh cãi chứ?”
“Có.”
“Cháu thấy sao?”
“Cháu sợ. Mẹ nắm tay cháu. Mẹ luôn nắm tay cháu khi cháu sợ, và điều đó làm cháu cảm thấy đỡ sợ hơn.” Nó nói nó đòi mẹ ngồi ngay bên cạnh trong bữa ăn tối. “Cháu làm thế khi cháu sợ. Và mẹ cháu ngồi như thế.”
Dalton Corbin cố gắng diễn tả chính xác mẹ nó bị giết như thế nào, nhưng nó không hoàn toàn chắc chắn. Nó thực sự không thấy cái gì xảy ra, nhưng nó là người nhìn thấy một cuộc hôn nhân rõ ràng đang tan vỡ. Nó đang nhìn hai bàn tay mình và đan ngón này vào ngón kia cho đến khi chúng đan hết vào nhau. Cử chỉ này làm nó cảm thấy an toàn hơn, hay chỉ là thói quen khi bồn chồn? Có lẽ gần như cả hai.
Trí nhớ của nó không đáng tin cậy. Nó không nghe bất kỳ cái gì trong đêm. Không, bố nó không bao giờ nói sẽ giết mẹ nó. Dalton cũng chưa từng thấy mẹ nó cầm khẩu súng. Nó không thấy kẻ giết người, hay nghe kẻ giết người nói, nhưng nó biết... cậu bé này tin rằng bố về nhà ngủ và sau đó lấy súng bắn mẹ nó vào buổi sáng.
“Cháu cảm thấy thế nào về cái chết của mẹ cháu?” Clemmons dịu dàng hỏi.
“Cháu rất buồn.”
***
Dillon chỉ mới năm tuổi, nhưng sau đây đến lượt nó. Ống kính quay phim bắt gặp nó đang ngồi trên chiếc ghế nhỏ trước cái bàn tròn. Nó lắc lư người, lẩm nhẩm: “Ummm. Ummm. Một tí. Một tí.”
Trong khi đợi Curtis Clemmons quay lại phòng, Dillon tựa đầu lên bàn, và mấy ngón tay thay phiên nhau chấm chấm lên mặt bàn như thể đang vẽ những vòng tròn nhỏ. Trông nó mệt mỏi khi lấy hai tay ôm đầu như Dalton đã làm. Nó có vẻ bồn chồn.
Khi Clemmons bước vô phòng, Dillon ngước nhìn lên lễ phép. Nó cũng sáng láng như anh nó. Nó biết tên đệm của nó, “Avrey,” số điện thoại, địa chỉ, các màu sắc, và các con vật. Nhưng nó hoàn toàn không hiểu cuộc sống của nó đã thay đổi thế nào trong một khoảnh khắc định mệnh khủng khiếp. Nó biết mẹ nó đã chết, nhưng nó không chắc chắn chút nào về chuỗi các sự kiện. Nó lặp lại một phần những gì Dalton nói, nhưng Dillon thường tự mâu thuẫn.
Nó biết chắc tên cô giáo ở nhà trẻ của nó là “Cô Donna,” và nó mến cô ấy. Pizza cũng là món ăn ưa thích của nó. Nhưng Dillon không nhớ được liệu nó có ăn sáng hay không. Nó thấy mẹ nó nằm trên giường với cái mũi chảy máu, nhưng nó cũng nghĩ có lẽ mẹ nó đã dọn bữa ăn sáng.
Dillon nói nó đi vào phòng mẹ trước Dalton - điều này đáng ngờ - tiếp đó nó nói nhìn thấy bố giết mẹ.
Từ tốn, Clemmons nhắc cho thằng bé năm tuổi về sự khác nhau giữa sự thực và lời nói dối - và Dillon thừa nhận nó không nhìn thấy mẹ nó bị sát hại. Nó không thể biết rằng nó sẽ không bao giờ nhìn thấy mẹ lần nữa. Nó cũng không biết rằng bố nó vẫn chưa về nhà và không đòi gặp nó hay Dalton.
Các cảnh sát điều tra đã quen với thảm kịch và cái chết khốc liệt, và họ biết cách kiềm chế cảm xúc. Nhưng không ai trong số họ từng trở nên miễn nhiễm với nỗi buồn của những đứa trẻ bị vướng vào mớ bòng bong những vấn đề phức tạp của người lớn.