Phần III - Chương 12 Dorothy Carlisle Hearn- “DOLLY”- *-NĂM 1956 - NĂM 1990
NĂM 1956, Barbara Hoge đang học trường trung học ở Alexandria, Virginia và nhận lời hẹn gặp một bạn trai chưa biết mặt, là sinh viên nha khoa năm thứ nhất Ðại học Georgetown, tên Carlton Hearn. Cô là một giai nhân rất xinh đẹp với mái tóc vàng, còn anh là chàng trai mảnh khảnh, hơi nghiêm nghị. Họ thích nhau ngay lập tức nhưng không cặp với nhau ngay; anh phải hoàn thành chương trình nha khoa, còn Barbara thì chưa vào đại học.
Khi tốt nghiệp trung học, Barbara ghi danh vào trường Ðại học Nữ sinh Randolph Macon ở Ashland, Virginia, và trình bày với Carlton ý định kết thúc quan hệ. Nhưng anh thuyết phục cô lập gia đình và hứa rằng cô vẫn có thể học xong đại học. Họ cưới nhau tại Virginia năm 1959, sau đó chuyển đến Washington, D.C., nơi Barbara nỗ lực lấy bằng cử nhân Ðại học Georgetown. Nhưng trước mắt, Carlton còn hai năm công vụ, và anh được chỉ định làm việc ở Springfield, Missouri. Cuối cùng Barbara Hearn hoàn tất chương trình đại học tại Drury College ở Springfield. Sau đó họ chuyển đến Atlanta, Georgia.
Con đầu lòng của họ, Dorothy Carlisle Hearn, chào đời tại bệnh viện Ðại học Emory ở Atlanta ngày 6 tháng Sáu, năm 1962 - một cô bé dễ thương, tóc đen, đứa cháu đầu của dòng họ, cô gái duy nhất trong lứa anh em bà con đầu tiên. Ngày sinh của cô trùng với ngày gia đình cô dời đến một ngôi nhà to lớn kiểu thuộc địa màu trắng ở thành phố nhỏ Washington, thuộc bang Georgia, nơi dân số có 5.000 người.
Có con đầu lòng dẫn đến những thay đổi lớn trong bất kỳ gia đình trẻ nào, và sự ra đời của Dolly ngay trong tuần lễ họ chuyển từ căn hộ đến ngôi nhà lớn đòi hỏi phải thu xếp hậu cần rất phức tạp. Barbara và Dolly vẫn còn ở trong bệnh viện, trong khi Carlton Hearn và mẹ Barbara phải xoay xở di chuyển đồ đạc, quần áo, và mọi thứ khác về ngôi nhà nơi họ sẽ ăn đời ở kiếp.
“Sau lần chuyển nhà đó, mẹ tôi nói, ‘Không đời nào nữa.’” Barbara hồi tưởng. “Bà nói, ‘Mẹ sẽ đến giúp nếu con sinh em bé, và mẹ sẽ đến nếu con dọn nhà, nhưng mẹ sẽ không đến nữa nếu con làm hai việc cùng một lúc!’”
Sẽ không có vụ chuyển nhà nào nữa, nhưng vợ chồng Hearns đã có thêm hai con. Carlton Jr. sinh năm 1965 và Gil năm 1972. Lúc Gil ra đời, Dolly được mười tuổi, tự xem là “mẹ thứ hai” của Gil.
Ngôi nhà của Hearn ở Washington, Georgia, được xây dựng năm 1854, còn nguyên vẹn sau Nội chiến, và vẫn là biểu tượng tự hào của kiến trúc miền Nam. Ngôi nhà cổ mang phong thái lịch sử và sự trường tồn với hai mươi mẫu đồng cỏ vây quanh. Cây sồi cổ thụ ở sân trước phải già hàng chục tuổi với những nhành cây oằn xuống sát đất tới mức bọn trẻ có thể dễ dàng trèo lên ngồi. Có vô số cây hồ đào cao ngất, mảnh đất bên dưới chúng vào mùa thu dày kín quả hạch đào, và vợ chồng Hearns đem cho hoặc thỉnh thoảng đem bán. Cây hoa mộc lan mà Barbara được tặng thưởng trong lần xổ số của câu lạc bộ cây cảnh, lúc đó chỉ là một nhánh con, giờ lên cao hơn sáu mét. Những cây sơn thù du mọc đầy rẫy. Có một bụi phù dung dọc lối vào phía sau nhà.
“Cứ mỗi năm, tôi lại nghĩ nó sẽ không ra hoa nữa,” Barbara nhớ lại, “thế rồi, đến tháng Mười, nó đột nhiên nở rộ.”
Và cứ thế nó nở rộ, hứa hẹn mãi và cuối cùng giữ lời hứa khi mọi người đã quên nó. Các cội cây và bụi cây khác khoác sắc màu mùa thu, còn bụi phù dung có màu hồng nhẹ, với những lớp cánh hoa mỏng manh, mềm như lụa.
Dolly và hai cậu em trai từng chơi đùa dưới một trong những cây hồ đào cao đó, ngay bên kia ngôi lều gỗ chắc có từ trước Nội chiến.
Nhà của vợ chồng Hearns chứa đầy đồ cổ, nhiều thứ trong số đó được truyền giao qua các thế hệ của vợ chồng Hearns và vợ chồng Hoges. Ở sảnh trước, có khung gia phả truy nguyên ngược mãi nguồn gốc tổ tiên của Barbara. Và cô rất quí nó. Ngôi nhà mà Dolly và hai em cô lớn lên thật đẹp nhưng hoàn toàn không có vẻ phô trương. Ðược xây dựng trước khi có hệ thống sưởi trung tâm, nó có nhiều lò sưởi nhỏ, thoát hơi qua bốn ống khói trắng nhô lên trên mái nhà.
Vợ chồng Hearns vừa nuôi thú cưng vừa nuôi gia súc, vịt và chim công. Chim công và chim giẻ cùi, thỉnh thoảng hè nhau gây ra một hòa âm lộn xộn những tiếng chim kêu phá tan sự tĩnh lặng của buổi chiều mùa hè oi bức. Carlton và Barbara bắt đầu sưu tầm những đồ vật có họa tiết chim công từ nhiều năm trước.
Barbara nói, “Tôi rất vui khi bố mẹ chuyển nhà đến Washington và sống gần chúng tôi. Tên hai ông bà là Gilmer và Dorothy Hoge, nhưng Dolly đặt cho họ biệt danh là “Mama Buns” và “Gogo Pop”“.
Carlton mở phòng nha riêng ở Washington, anh là nha sĩ trẻ nhất trong vùng. Anh có thể đi bộ hoặc chạy xe về nhà ăn trưa qua những con đường hẹp đâm ra từ quảng trường lạ lẫm của thành phố. Bố của Barbara và chồng cô thường cùng đi câu cá. Ông bố dạy cho con rể cách làm vườn - đặc biệt là trồng và chăm sóc cà chua.
Họ gần như đang sống cuộc sống êm đềm thôn dã như bao gia đình ở đây, và Barbara và Carlton vui hưởng cuộc sống đó. Hồi Barbara học đại học, một người bạn bảo cô Washington ở bang Georgia, là nơi an bình để sống. Khi chuyển đến đây, vợ chồng Hearns cảm thấy đúng như vậy.
Dolly, Carlton Jr. và Gil ngủ trên gác trong ngôi nhà màu trắng đồ sộ. Chúng thân thiết nhau, tuy vậy, như hầu hết những anh em ruột thịt, thỉnh thoảng chúng cũng choảng nhau. Chúng vào trường tiểu học, rồi trung học Wilkes Academy. Dolly có lẽ là cô gái duy nhất giữa đám anh em họ con trai, nhưng cô không hề lép vế.
Trong những năm học tiểu học, Dolly chứng tỏ cô là tay bơi cừ khôi, và cực kỳ nhanh nhẹn khi xoay xoay cây gậy chỉ huy trước đội trống diễu hành. Cô đoạt Giải Ó Vàng vì tinh thần học tập trong những năm trung học. Dù bề ngoài mảnh mai, và xem chừng không khỏe, cô lại là vận động viên nhảy cao và ném tạ trong đội tuyển điền kinh của trường Wilkes. Bất kỳ ai từng “ném” tạ đều biết rằng những quả cầu sắt ấy rất nặng. Hầu hết các cô gái thậm chí không thể nhấc lên nổi, chứ đừng nói tới việc ném đi thật xa.
Dolly còn là một vũ công clát-két. Cô diễn trong các chương trình sân khấu nhỏ như South Pacific, chơi piano, và hát giọng nữ trầm trong ban hợp xướng. Và có những lúc, cô gái nhỏ nhắn đeo niềng răng trở nên xinh đẹp đến rơi rụng con tim. Nếu không dễ thương và khiêm tốn như thế với mọi người, Dolly đã là loại thiếu nữ khiến các cô khác ghen tị. Nhưng không ai ghen tị, ngay cả khi cô được chọn làm đội trưởng đội hoạt náo ở trường Wilkes.
Dolly quá vui vẻ để gây nên đố kỵ, và, như bố cô, cô thích cười. Cô chọc phá bạn bè - rải quanh bãi cỏ nhà ai đó một bầy chim hồng hạc bằng chất dẻo, hay xếp chặt cả đống banh vào phòng hay xe hơi của bạn nhân sinh nhật họ. Cô thích nhất những ngày lễ hội; lễ Haloween cô giả trang thành một cái cây với giấy vệ sinh quấn xung quanh.
Nhưng Dolly thích nhất lễ Giáng sinh, và trước đó nhiều tuần cô đã lo tìm quà cho gia đình và bạn bè.
Ngoài những ngày lễ, Dolly rất khoái mèo, tất cả các loại mèo. Cô sống ở đâu là ở đó có tranh ảnh về mèo, những cái gối có hình con mèo, những con mèo bằng gốm, và những con mèo thật.
Loài hoa ưa thích của cô là hoa hồng. Dolly làm nhiều biểu ngữ để các cầu thủ đội bóng của trường Wilkes Academy chui qua khi chạy vào sân để thi đấu, và biểu ngữ đáng nhớ nhất của cô được kết bằng hoa hồng. Cô còn chế ra nhiều cách cổ vũ cho đội tuyển điền kinh của cô. Ba thập kỷ sau, tiếng cổ vũ “Hello!” của cô vẫn còn được các hoạt náo viên bằng tuổi con gái cô ưa thích.
Với những đường nét tuyệt đẹp trên khuôn mặt, đôi mắt thu hút, và mái tóc đen dày đổ xuống hai vai, Dolly Hearn trông không khác gì nàng Bạch tuyết với những đóa hồng vây quanh. Mặc dù thỉnh thoảng cũng hẹn hò với bạn trai, và nhiều chàng trai ở Washington muốn mời cô đi chơi, cô chỉ muốn làm bạn với họ hơn. Cô không băn khoăn chuyện yêu đương; cô biết cô còn rất nhiều thời gian trong đời dành cho chuyện đó. Cô muốn một cuộc hôn nhân như bố mẹ cô đã đến với nhau, và cô vô cùng ngưỡng mộ.
Từ lúc còn nhỏ, Dolly đã được bà Barbara Hearn dạy may vá, thêu thùa, tuy cô không biết những cái áo gối và những tấm thảm mà cô thêu dệt sẽ quí giá như thế nào. Dolly gắn bó một cách đặc biệt với bố, và trong một “Ngày của Cha,” cô tặng ông món quà mà cô đã dành nhiều giờ dày công làm nên. Sau khi tìm được bài thơ thật hay về một người đàn ông thích đi câu, cô đã thêu những dòng thơ:
Tôi cầu nguyện ơn trên
Được sống để đi câu
Cho đến ngày hấp hối
Và khi ngày đó tới
Lần buông câu sau cùng,
Tôi chỉ dám cầu xin,
Trong tấm lưới vĩ đại
Chúa giăng ra đón tôi
Tôi sẽ được an nghỉ
Trong nhân từ của Ngài
Tôi sẽ được phán xét -
BAO LA GIỮ LẤY TÔI!