← Quay lại trang sách

NÀNG ANCUỊA THUỞ TRƯỚC

NÓI thật ra, các bạn ạ, vào thời xưa đôi lúc đã xảy ra nhiều chuyện mà ngày nay xem như không tưởng tượng được. - Bác lenache, người bán hàng rong, khẽ nói trong bóng hoàng hôn.

Hình như bác còn bị câu chuyện của ngài đại úy Neculai Isac ám ảnh. Tuy nhiên giọng bác đã kéo chúng tôi trở về hiện tại. Trong lúc chờ đợi, cô chủ quán AncuỊa mang đến những bình rượu mới loại ngon, chúng tôi làm quen với nhau qua dăm ba lời trao đổi. Vừa lúc ấy, một ngọn gió từ sông Moldova thổi đến. Tôi bước lại cời lửa và cho thêm củi vào bếp lò đã tàn, bị phủ một lớp tro mỏng. Khi lửa bùng lên, chúng tôi nhìn được mặt nhau thì gió ngừng thổi, nhường chỗ cho sương thu lan trùm lên mọi người ngồi trong quán trọ. Bác lenache lại tiếp tục nói:

-Mà ngay cả con người cũng không còn là những con người ngày xưa nữa. - Vị quan viên loniỊă tỏ vẻ đồng tình trước ý kiến đó bằng cái gật đầu mạnh mẽ - Ngày nay chúng ta làm ăn với những con người hoàn toàn khác.

Bác đã nói rồi.- Vị chức sắc vùng Drăgăne§ti càu nhàu, giọng bực tức.

- Mùa đông thời ấy cũng giá buốt hơn. - Bác bán hàng rong vừa kết luận vừa chìa cái tẩu đất có nắp bằng đồng thau về phía bếp lửa. - Chiếc áo choàng tôi đang mang trên người là của thời xưa ấy, các bạn hãy để ý mà xem. Còn bây giờ tôi không biết dùng nó để làm gì, ngay cả vào giữa mùa đông. Thật ra chỉ để làm dáng tôi mới khoác hờ trên vai như thế này đây. Cả ngài đại úy Neculai và ngài quan viên loniỊă cũng biết rằng thời tiết thuận lợi bấy giờ làm cho con người dễ no hơn. Còn các thị trấn nhỏ không phải tạp nham như hiện nay với đủ những cửa hiệu mới ấy. Và những người bán hàng rong chúng tôi được tiếp đãi niềm nở ở nông thôn trên tinh thần bạn bè thân ái. Còn bây giờ, tôi phải còng lưng hơn vất vả hơn xưa, đã thế lại phải chuyển hàng lên tận miền núi cao. Chỉ ở đó mới còn những người chưa hề đến thành phố bao giờ. Giá mà các bạn thấy được má những cô gái trẻ ửng hồng lên như thế nào lúc tôi bắt đầu mở các hộp hàng hóa. Ngay cả niềm tin vào Chúa thời bấy giờ cũng hoàn toàn khác. Các lái buôn đi đến Jerusalem và lúc trở về, họ hóa lừng danh như các vị thánh. Thế cho nên tôi, người đang nói chuyện với các bạn đây, cũng quyết đi một chuyến, không xa, nhưng cũng đến núi Athos [1]. Tại đấy tôi được nhìn thấy một tu viện xây trên bờ núi đá. Vì không có đường đi lại nên các vị chân tu ở đó lên xuống nhờ cái giỏ do một hệ thống ròng rọc điều khiển. Ngay ở chỗ chúng ta, tại thủ đô Ia§i, việc cai trị thời ấy cũng hoàn toàn khác ngày nay. Mỗi khi quốc vương rời lâu đài, cưỡi con ngựa ô khỏe mạnh, với đội cận vệ chung quanh thì lớp cùng đinh trong xã hội đều phủ phục xuống đất. Và khi một vị quý tộc bố thí, ông ta không thảy ra một đồng xu mà là cả một đồng tiền vàng. Các bạn hãy biết rằng hồi đó tôi còn trẻ nên hiểu được thời, kỳ ấy và tôi từng hưởng một cuộc sống vui vẻ khác hẳn ngày nay. Tôi đi chơi lang thang, lòng vô tư và ví tiền bao giờ cũng đầy chặt. Thế rồi một hôm trong khi chuẩn bị hành trang để đi hội chợ ở Baia, thuộc vùng đất phía bắc thì tại Ia§i, thủ đô của chúng ta, đã xảy ra một việc phi thường.

Xin phép các bạn một giây, cho tôi vê thuốc nhét ống tẩu. Nói có Chúa, đây là một tật xấu của tôi, chưa kể các thói khác, và tôi phải thông cái tẩu này vì lẽ quỷ Satan chỉ có một ý định: làm cho nó tắc tịt. Nhưng vị thánh ngự trị trên trời, dưới đất và các đại dương có lòng nhân đức đã dạy chúng ta cách dùng cái nạo. Xin trở lại câu chuyện: Trong lúc tôi lượn chơi ở phố Hải Quan tại Carvasará, đang bàn cãi về một số hàng hóa với hai lái buôn người Armenia, phía Beilic bỗng xuất hiện cảnh ồn ào ghê gớm, và một toán cảnh binh đang điệu cổ một người bị trói gô. Sau lưng họ có cả một đám đông, chủ yếu là đàn bà và trẻ em. Từ mỗi ngõ hẻm, mọi cổng nhà trong khu thương mại ấy, những con chó lai giống Boke nhảy xổ ra vừa sủa vừa tru tréo, còn ở các cửa hiệu, những người bán hàng háu tin đưa mắt nhìn nhau. Tất cả cảnh binh đều tiến bước, dao găm lăm lăm trong tay, khẩu súng dài sẵn sàng nhả đạn, tưởng như họ e sợ người đàn ông bị trói gô kia sắp bứt dây và quơ tay một cái đánh ngã tất cả. Quả thật, kẻ bị bắt là một người đàn ông cao to, khỏe mạnh, ngực nở, vai rộng, râu mép màu hung, cặp mắt đen láy. Anh ta kiêu hãnh nhìn đám đông. Chiếc áo chẽn thêu, đôi bốt bằng da đỏ chứng tỏ anh ta là loại chức sắc giàu có.

Trong số cảnh binh có đội trưởng Costea Căruntu. Khi đi ngang qua các cửa hiệu, vừa vênh vang nhìn, ông ta vừa thụi vài nắm đấm vào khuôn mặt bầm máu của tù nhân.

Tôi hỏi:

“Người đàn ông này là ai thế? Hắn tên gì, hỡi ngài Costea?”

“Đây là một kẻ gian ác và một tên phản bội.”

“Nhưng hắn tên gì và đã làm gì vậy?”

“Hắn tên là TodiriỊă Catană, một tay chức sắc nho nhỏ điên khùng và bỉ ổi ở tỉnh Vaslui. Khi còn tại chức ở chỗ ngài đại danh thống đốc Bobeica, hắn dám cả gan ngấp nghé em gái ngài. Hắn còn dám quan hệ với cô ấy, tiểu thư Varvară quý phái và cà hai đã cùng bỏ trốn tối hôm qua. Nhưng vị đại danh thống đốc đã linh cảm có gì đó và bố trí người rình. Hai người bị theo dõi và bị bắt ở Moara de Vânt. Một cuộc chiến ác liệt đã xảy ra. Anh chàng TodiriỊă đánh bại tất cả bọn tôi tớ Digan và những kẻ hầu hạ của vị đại danh thống đốc. Phải một đội hiến binh hoàng gia trang bị dao găm mới vây bắt được hắn đấy. Hắn ra sức gào to rằng vì quý cô Varvară, hắn sẵn sàng hy sinh tính mạng. Sau đó chúng tôi phải trói gô hắn lại như các bạn đang thấy đây và tát vào mặt hắn đến rụng cả răng, rơi cả lưỡi để tên khốn nạn loại nó thấm thía rằng chớ có chơi trèo.

“Thưa ngài Costea Căruntu, ngài đã làm đúng.” Tôi trả lời ông ta, và những người chủ hiệu chung quanh cũng đồng tình.

Khi chúng tôi nói thế thì tên khốn kiếp TodiriỊă quay lại và ném về phía chúng tôi một cái nhìn sắc nhọn và bực tức. Đây là một con người oai vệ và táo bạo. Tôi phải thú nhận là mình có hơi sợ cái nhìn của anh ta. Rồi tôi tự nhủ: “Dù sao hắn cũng sẽ bị treo cổ.” Bấy giờ nỗi sợ của tôi mới chấm dứt và tôi cười. Sau đó tôi lại nói với viên cảnh binh:

“Thưa ngài Costea, vì hành động dũng cảm của ngài, đức thống đốc Bobeica nên ban đất tặng ngài. Giá mà ngài có lòng tốt kể cho chúng tôi biết tiểu thư Varvară, em gái của đại danh thống đốc, hiện ra sao thì tốt biết mấy.”

“Về phần tiểu thư Varvară, theo tục lệ, ngài quý tộc sẽ đưa cô đến tu viện Agapia để cô ăn năn hối lỗi. Người ta đã dành cho cô một cỗ xe và một đoàn tùy tùng, về phần tên chức sắc mất trí kia, tôi sẽ đem hắn nhốt vào tháp Golia. Hắn sẽ ở đấy chờ bản án của quốc vương. Nhưng ai khôn ngoan đều biết rằng đời hắn nhất định sẽ kết thúc đau đớn.”

“Quả vậy.” Tôi khẳng định chắc nịch.

Và tất cả những nhà buôn trong phố đều gật đầu đồng tình, bảo rằng tương lai cũng mách cho họ một sự phán xét công minh như thế!

Sau đó cả khu phố, bao gồm cả chó, phụ nữ, trẻ em bắt đầu đi theo đoàn cảnh binh, làm tốc lên cả một đám bụi mù chẳng khác lúc có một đoàn di cư đi qua. Còn Costea Căruntu thỉnh thoảng lại đánh vào mặt người chức sắc bị trói gô. Cứ thế họ áp giải người tù nhốt vào tháp Golia. Về phần tôi, tôi còn phải ngã giá với tay lái buôn Armenia. Khi định giá xong, hàng hóa được trả bằng tiền vàng. Tôi vác túi lên vai đi về nhà để xếp vào hộp các thứ hàng hóa đẹp đẽ và quý giá sẽ làm say mê con tim cùng đôi mắt của phái đẹp. Tôi chọn lựa cẩn thận, xếp đặt đúng thứ tự vào hộp, lau chùi sáng bóng các khóa đồng theo thói quen như các bạn vẫn thấy ngày nay. Rồi tôi đánh một giấc cho đến khi gà gáy canh ba mới trở dậy chuẩn bị ra đi. Vác túi hàng trên vai, tay cầm gậy và ống tẩu, tôi bắt đầu bước thấp bước cao lên đường lúc trời còn tranh tối tranh sáng. Đến chỗ con đường nhỏ gần tháp Golia, tôi nghe có tiếng ồn ào. Ngoài cổng lớn tu viện, nhiều kỵ sĩ xuất hiện, tóc tung bay trong gió.

“Xin miễn thứ cho, hỡi bà con. Cái gì thế? Xảy ra chuyện gì vậy các bác?”

Ngài Costea đầu trần, tay cầm roi da đang thét to: “Chạy đi các chàng trai. Chắc hắn trốn về phía giếng nước Păcurarilor. Chớ để hắn thoát. Nếu chộp được cứ việc đâm, đưa hắn về đây, chết cũng được.”

“Thưa ngài Costea,” một người Albania đứng tuổi lên tiếng, “Ai biết được tên khốn kiếp chạy lối nào. Khi còn bị trói gô, hắn thuộc về ta, dưới quyền sinh sát của ta. Còn bây giờ tay hắn đã được cởi trói, hắn có vũ khí, lại đang trên mình ngựa thì không một chàng trai nào có thể đuổi kịp và trừng trị hắn.”

“Lão già lảm nhảm cái gì thế?” Người đội trưởng cảnh binh gầm lên.

“Đừng giận, tôi nói thật đấy ngài Costea ạ. Chúng tôi đã biết hắn từ lâu. Con người táo tợn đó từng phục vụ trong quân đội Áo. Hắn từng khiến cả những tên German thời xưa kinh ngạc, đó là chưa kể hắn đã được tôi luyện trong những trận chiến ra trò, mang trên người không biết bao nhiêu vết sẹo do dao đâm, đạn bắn. Ngựa đang chạy nước đại mà hắn cứ đứng trên yên, nắm trong tay phải một túi lúa mạch. Hắn lao về phía trước như một con cừu đực mang cặp sừng lớn, sẽ rất nguy cho kẻ nào chạm phải hắn, vì kẻ đó sẽ ngã ngay. Khi biết hắn là ai, chúng tôi đã trói gô hắn lại, ném lên sàn nhà, khóa kỹ các cửa. Chỉ có thằng điên như hắn mới có thể gặm đứt dây trói rồi buộc dây vào chấn song, tìm lối thoát qua lan can và tụt xuống bờ tường. Hắn chộp tên lính gác, tước vũ khí, chiếm thanh mã tấu và súng lục, tìm một con ngựa và đi mất. Thưa ngài Costea, làm sao chúng tôi đoán được hướng đi của hắn và trấn áp hắn đây?”

Trong khi đó, ngài Costea cứ quay quắt la hét như bị quỷ ám. Vì thế bọn lính phải nhảy lên ngựa và phân tán các nơi. Khi đã xua đi hết tất cả lính tráng của mình, viên sĩ quan cảnh binh mới bình tâm một chút, ông ta thở không ra hơi và sắp ngất. Có một người hầu cận luôn bên cạnh ông ta. Ngài Costea Căruntu liền ra lệnh cho hắn mang vũ khí và một con ngựa đầy đủ yên cương đến.

Lúc bấy giờ tôi mới mạnh dạn lại gần và sửng sốt hỏi:

“Thưa ngài Costea, tôi không tài nào hiểu được tại sao một việc như thế có thể xảy ra giữa lớp tường thành vững chắc và trong cái tháp như tháp Golia? Không cần nói đến tháp, chớ nói đến tường, các ngài có thiếu súng ống, dây xích và lính tráng đâu? Có thể nào tên khốn kiếp ấy lại chạy trốn dễ dàng như thế và dám làm ô danh một gia đình cao quý nhường kia?”

“Cứ hỏi tôi, hỏi mãi tôi đi bác lenache, bởi tôi cũng không biết trả lời sao đây cho bác.” Người sĩ quan cảnh binh phì cười. “Bây giờ mọi người sắp quấy rầy tôi và ngài Bobeica sẽ nổi giận. Mọi thứ đều hỏng bét. Con đường công danh, việc thăng quan tiến chức thế là đi tong. Tôi chỉ còn mỗi một việc là phải đến nhà thờ, cúng một đồng chinh cho ông giáp trưởng Nicanor để ông ta cầu siêu cho tôi, giải thoát tôi khỏi nỗi bất hạnh lớn này. Thì giờ gấp rút, tôi đã cảm thấy sau lưng chiếc roi da và sự trừng phạt của ông chủ rồi. Một mặt tôi phải lao đi tìm tên khốn, mặt khác cần trở lại đây ngay vì khi mặt trời mọc, tôi có nhiệm vụ lên đường với tiểu thư Varvară. Tôi phải cùng những anh em cảnh binh hộ tống tiểu thư đến tận tu viện Agapia, đề phòng trên đường xảy ra một tai họa chưa biết chừng. Tóm lại, tôi không biết tính thế nào đây. Con tim tôi, hỡi người anh em lenache, chẳng khác nào một miếng sắt nung đỏ bị búa đập.”

“Sao lại lo sợ quá như thế ngài Costea?” Tôi cố trấn an. “Cuối cùng ngài cũng bắt được tên khốn ấy thôi, rồi ngài sẽ đưa ngay tiểu thư đến tu viện. Tòa án và ngài quý tộc sẽ hài lòng về sự tận tụy của ngài, theo lẽ thường ngài sẽ được trọng thưởng.”

Nói xong, tôi từ giã ông ta gần chỗ tháp Golia. Ông ta đang sục sôi phẫn nộ và vội vã đi theo con đường dẫn ra vùng ngoại ô trước khi mặt trời mọc. Trong thâm tâm, tôi hy vọng lần này chính quyền lại thắng kẻ gian ác. Vừa ra khỏi thành phố, tôi gặp mấy người cảnh binh cưỡi ngựa về không. Họ cho ngựa đi bước một, mình ngựa đẫm mồ hôi. Tôi chợt hiểu tại sao ngài Costea hướng những tên tùy tùng của mình đi về phía ấy. Không nghi ngờ gì nữa, đó là con đường đoàn xe của tiểu thư Varvară sắp đi qua để đến tu viện. Rất có thể, một con người táo tợn như TodiriỊă nhất định mưu toan rình rập trên đoạn đường này. Tôi cũng hiểu đó chính là điều ngài Costea rất lo sợ.

Tôi đi được khá lâu. Khi mặt trời lên cao và túi hàng bắt đầu đè nặng lên vai, tôi dừng lại bên một giếng nước để giải khát. Tôi ngồi bệt xuống đất, quá mệt vì nóng bức, đang mải chăm chú nhìn về phía chân trời xem thử có bác nông dân nào cho tôi lên ngồi nhờ xe chở rạ chăng. Và lần này nữa, Chúa lại cứu giúp tôi, vì một chiếc xe, trên có một người ngồi vừa xuất hiện. Người đó cho xe dừng lại bên giếng để ngựa uống nước và khi tôi nói với anh ta vài lời thân ái, anh ta trả lời rất ân cần. Tôi xếp gọn các hộp của mình lại và lên ngồi bên cạnh, trong đám rơm khô. Chúng tôi tiếp tục đi như thế qua các làng mạc, những vùng đất hoang cho đến tận Târgu-Frumos. Tại đây anh bạn đường của tôi theo hướng khác, còn tôi với các hộp mang trên lưng thì đi dưới bóng mát của cây rừng cho đến lúc mặt trời lặn. Sau đó, mặt trăng hiện ra.

Bấy giờ tôi đặt các gói hàng bên một giếng nước khác và ngồi nghỉ, đợi Chúa gửi đến một chiếc xe khác. Lần này lại là một cỗ xe nhẹ có hai con ngựa kéo rất khỏe. Người đánh xe dừng lại và hỏi:

“Ông bạn từ đâu đến?”

“Từ mãi Ia§i kia, thưa ông chủ trang trại. Lòng tốt của ông sẽ giúp tôi rút ngắn đoạn đường, vì tôi là kẻ bán hàng rong, bạn của nhân dân, không hề làm hại ai bao giờ.”

“Nếu bác từ Ia§i đến, xin mời bác lên ngồi bên tôi đây, nhưng phải nhanh lên.” Người đàn ông đáp lại.

Tôi leo lên ngồi cạnh anh ta và sau đó chúng tôi qua sông Siret. Gần chỗ cầu, mặt trăng đang đùa nghịch cùng dòng nước và hắt lên những tia sáng dịu dàng.

Định quay sang người bạn đường để cảm ơn và trao đổi vài lời thân ái, tôi chợt nhận ra bên cạnh tôi là TodiriỊă. Anh ta cười để lộ hàm răng trắng bóng và tôi lo sợ anh ta có thể cũng nhận ra tôi.

“Ông là người bán hàng rong đã cười khi thấy tôi hôm qua ở phố Hải Quan tại Carvasará, phải không?”

“Tôi cười vì lẽ trong trí tôi bỗng xuất hiện khuôn mặt vị đại danh thống đốc Bobeica của anh. Xin anh đừng ngại, tôi chỉ là một kẻ nghèo khó đáng thương.”

Anh ta vặn lại:

“Hãy biết rằng ông chỉ là một con cừu trong bầy cừu và kẻ chăn cừu là con sói, chẳng có gì khác.”

“Tôi cũng nghĩ thế, nhưng vì Chúa xin anh đừng giận.”

Anh ta lại cười. Rồi một tiếng còi vang lên và hai con ngựa nghe tiếng hiệu liền rảo bước đi nhanh. Vị chức sắc TodiriỊă quay sang tôi:

“Người ta còn bàn tán gì ở thành phố nữa không? Ở Ia§i ấy?”

“Anh còn muốn người ta bàn tán gì nữa?” Tôi trả lời. “Tôi biết nếu không thú thật với anh cũng chẳng được. Costea Căruntu thuộc đội cảnh binh đã cử cả một đội quân đuổi theo anh, và bản thân ông ta sẽ hộ tống tiểu thư Varvară đến tu viện Agapia. Theo ý tôi, ông ta chắc lên đường lúc mười giờ sáng.”

“Tốt lắm.”

“Nghĩ sao tùy anh, nhưng anh nên biết ông ta đoán anh sẽ có mặt trên đoạn đường này, cho nên đã gọi thêm viện binh. Vì vậy, anh phải thận trọng vì anh chỉ có một mình.”

Vị chức sắc lại mỉm cười:

“Hãy nghe đây ông già, tôi chẳng sợ cái chết, và ông hãy coi chừng nếu nói khác đi. Chỉ một lát nữa thôi chúng ta sẽ đến một chỗ gọi là quán rượu AncuỊa. Tôi định dừng lại ở đấy và kiên nhẫn chờ Costea đến cùng toàn bộ đạo quân của hắn. Khi hắn đến, hắn sẽ không tìm ra tôi ở đấy. Nhưng tôi sẽ ở rất gần, luôn để mắt đến ông và cũng sẽ nghe được những điều ông nói với hắn. Hắn sẽ hỏi và ông sẽ trả lời rằng tôi tiếp tục đi trên đường cái về phía Timi§e§ti, rằng tôi đang chạy trốn và hết sức hoảng sợ. Nói với hắn sự thật rằng ông đã gặp và nhận ra tôi. Phải lặp lại đúng từng chữ một, nếu không có thể chúng ta chẳng còn gặp nhau trong cuộc sống chó má này.”

Nghe những lời ấy, tôi cúi đầu và nhất nhất đồng ý. Riêng tôi thầm nghĩ có thể tên khốn này đã sợ thật và đang chạy trốn trước uy quyền của quốc vương. Chẳng ai có thể lẩn trốn sức mạnh của uy quyền.

Thế là, thưa ngài đại úy Neculai và thưa ngài quan viên loniỊă, tôi vừa kịp đến cái nơi lâu nay vẫn được gọi là quán trọ AncuỊa, lòng chỉ mong sao kẻ phạm tội sẽ bị trừng trị và an ninh trật tự được giữ vững.

Quán trọ đóng kín và trơ trọi, vầng trăng như chia sẻ nỗi quạnh hiu!

TodiriỊă gọi cửa. Bầy chó xúm lại sủa toáng lên. Từ bên trong đột ngột cất lên giọng nói của AncuỊa. Còn vị chức sắc thì la to:

“Này AncuỊa, người đẹp của tôi, tôi kêu gọi tình bạn và sự phán xét của cô. Tôi là TodiriỊă ác ôn đây, nếu cô quên tôi, cô sẽ biết tay tôi.”

AncuỊa im lặng, cô vuốt ve con chó rồi quyết định mở chốt cửa. Ánh nến rọi vào mặt chúng tôi. Cô nói với tên ác ôn TodiriỊă:

“Hãy vào đi, có thật ngài là vị chức sắc đang nổi danh không? Hôm nay tôi nghe được nhiều tin về các chiến tích của ngài ở Ia§i lắm.”

Lúc bấy giờ tên ác ôn rướn người lên nhìn chòng chọc vào cô. AncuỊa thuở ấy là một người phụ nữ rất đẹp, cũng như AncuỊa ngày nay. AncuỊa nhìn tên ác ôn rất lâu bằng đôi mắt to và sáng. Đến lượt vị chức sắc nhìn lại cô khá lâu, rồi hắn đặt trên ghế dài con dao găm và những khẩu súng lục. Quay người lại, hắn nắm bàn tay buông thõng của cô chủ quán. AncuỊa bắt đầu cười:

“Ngài hãy chờ một chút để tôi đặt cây nến xuống và đóng cửa đã.” Cô nói. “Sau đó ngài sẽ cho tôi biết những điều đang chất chứa trong tim ngài. Tôi biết trí óc ngài có phần không bình thường, nhất là khi ngài dám đương đầu với các hoàng thân. Người ta thấy rõ là ngài chẳng biết điều, vì nếu không ngài đã chẳng bao giờ yêu con gái một vị chúa đất, ngài lầm đường rồi. Hình như danh ngài đã nổi như cồn từ khi ở tháp Golia, ngay giữa thành phố. Cảnh binh chạy như điên, rồi cả mật vụ của quốc vương cũng đang tìm ngài trên khắp các ngả đường. Cuối cùng họ cũng tìm ra thôi. Họ sẽ khiến ngài khốn khổ.”

“Này cô AncuỊa xinh đẹp,” TodiriỊă đáp lại, “Nếu định mệnh bắt tôi phải chết, tôi sẽ chết. Nhưng vì tình yêu, tôi có thể hy sinh cuộc đời và những năm tháng tuổi trẻ. Cô hãy biết rằng đêm nay, không quá lúc một hay hai giờ, đám cảnh binh sẽ gõ cửa quán này. Chỉ huy của chúng là Costea, kẻ đã sung sướng đánh vào mặt tôi trước công chúng. Tên Costea ấy, hỡi cô AncuỊa xinh đẹp thân mến, hắn đang trên đường hộ tống tiểu thư Varvară đến tu viện Agapia. Và tôi, tôi dám giằng lấy người yêu từ tay bọn chúng, và hoặc là tôi thắng, hoặc tôi để lại đây bộ xương của mình.”

Trước những lời nói ấy, tôi thấy AncuỊa rùng mình. Cô cụp mi mắt, sợ hãi đưa lòng bàn tay áp lên má và thốt lên một tiếng kêu tự đáy lòng:

“Thiên hạ nói có lý, ngài điên rồi ngài TodiriỊă ạ.”

Nhưng cô lấy lại bình tĩnh. Cô căng thẳng nghiêng đầu về phía TodiriỊă, lắng nghe kế hoạch của anh ta. Rồi hai người rút vào cuối phòng gần bếp lửa, tại đó họ ra sức bàn mưu tính kế, nhưng theo tôi, AncuỊa là người hăng hái hơn cả.

Sau một hồi lâu bàn tính và tranh luận, TodiriỊă để mắt đến tôi. Anh ta đứng trước mặt tôi và im lặng nhìn tôi chòng chọc. Tôi làm tất cả để thoát khỏi cặp mắt tinh anh ấy nhưng không được. Thậm chí tôi còn cố không nói gì với anh ta nữa. Tôi hiểu anh ta đã ký giao kèo với thần chết, nên trước hết tôi phải chú ý đề phòng.

“Nào đi đi, đừng lần lữa nữa.” AncuỊa thì thầm trong khi TodiriỊă cầm vũ khí lên.

Cô vỗ nhẹ lên vai TodiriỊă. Anh ta quay hẳn người lại, nên tưởng như cô đã bẻ quặt tay anh ta. TodiriỊă choàng bàn tay phải qua cổ và ôm hôn cô.

“Nếu chồng tôi mà thức dậy và nhìn thấy ngài,” cô mỉm cười, “dù tuổi tác đã lớn, anh ấy vẫn sẽ tức giận thôi...”

AncuỊa đứng im sau cánh cửa, dỏng tai lắng nghe trong lúc vị chức sắc nói những lời vỗ về với con ngựa và ra đi. Tiếng lịch kịch của chiếc xe xa dần rồi mất hẳn, nhưng AncuỊa vẫn còn đứng đấy.

Tôi ngồi bên cạnh các hộp hàng hóa mà lòng rối bời. Kẻ nào đã đưa nhanh những tin tức ờ Ia§i đến đây và làm sao hai người lạ lại hiểu nhau đến thế? Tôi ngẩn nhìn AncuỊa đang ngồi trên chiếc ghế dài. Cô nhìn tôi và ánh mắt sáng long lanh, nhưng thật ra không hề thấy tôi. Điệu bộ như một người mù, cô dỏng tai nghe. Còn tôi cứ ngồi yên như thế cho đến lúc bỗng nhiên có tiếng ồn ào trên con đường lớn. Sau đó, cả đoàn người oai vệ của Ia§i dừng lại trước sân, với nhiều tiếng kêu la í ới và tiếng roi da vun vút. Liền đó tôi nghe giọng nói sang sảng của Costea. Cô chủ quán đứng lên mở cửa và cầm bó đuốc giơ cao. Có thể nói rằng mãi sau đó cô mới nhớ ra sự có mặt của tôi. Cô khẽ cúi đầu rỉ vào tai tôi:

“Còn bác, bác lenache, bác hẳn đã biết phải nói năng thế nào.”

Đoàn cảnh binh xông vào đòi uống rượu. Nhưng Costea Căruntu liền nạt và đuổi họ ra ngoài. Tại đấy, trên xe dưới ánh trăng, tôi nhìn thấy tiểu thư Varvară ngồi trên những tấm đệm da, đầu cúi xuống, gối chống cằm. Đối với tôi, nàng như một cái bóng. Tôi chắc rằng nàng đang khóc.

Còn Costea vừa khua gươm lách cách bên sườn vừa tiến lại phía chúng tôi. Ông ta nhận ra tôi:

“Bác đã đến đây rồi à? Làm sao có thể? Nói xem nào, trên đường bác có tình cờ nghe biết tin tức gì về tên khốn nạn chúng tôi đang lùng bắt không?”

Tôi trả lời:

“Thưa ngài Costea, tôi không chỉ nghe về TodiriỊă ngài đang tìm mà còn nhìn thấy hắn nữa kia.”

“Không thể nào!” Vị cảnh binh kêu lên, còn cô chủ quán quay lại nhìn tôi chằm chằm và nói:

“Bác ta có nhìn thấy hắn.” Cô chêm vào. “Hắn đã đi qua nơi này.”

“Quả vậy.” Tôi khẳng định. “Hắn đã qua đây và tôi thấy hắn hoảng sợ, đang chạy trốn về phía bến đò Timi§e§ti.”

Tôi nghe rõ tiếng cười ha hả của bọn lính. Còn Costea thì hét lên:

“Trước vòng vây của chúng tôi làm sao hắn có thể thoát được?”

Cô chủ quán mỉm cười, dịu dàng nói:

“Người ta đồn rằng hắn còn liên kết với một bè lũ táo gan hơn. Chúng có ý định cướp phá các ngài đấy.”

“Sao? Cái gì?” Vị đại diện chính quyền lên tiếng. “Đầu hắn sẽ được treo trên mình ngựa của tôi.”

“Sau cơn mưa này, nước sông đang lên.” Cô chủ quán hờ hững nói. “Khó băng qua Timi§e§ti lắm.”

“Khó à? Không có lối khác sao?”

“Có chứ, có thể đi Tupilati bằng đò.”

“Thế thì tôi sẽ điều người phóng ngựa vây nó tại Timi§e§ti, còn tôi qua đò đi Tupilati với cỗ xe đang chở món hàng quý báu của mình. Nhất cử lưỡng tiện, các vị bề trên sẽ bằng lòng đấy. Như thế sẽ tránh được những chuyện không may.”

Trong hơn một khắc đồng hồ, những người trong đội cảnh binh đi lại lại, còn cô AncuỊa xinh đẹp không ngần ngại đi xuống hầm rượu với tôi. Từ đó, chúng tôi chuyền ra những bình rượu vang to dưới ánh trăng. Toán lính uống rượu và la hét thách thức nhau, thề sẽ giết chết tên tù khốn kiếp, rồi rời khỏi, đi trên con đường lớn. Còn ngài Costea, cùng một nhóm cảnh binh, thì lên xe theo hướng ngược lại, về phía bến đò Tupilati. Cô AncuỊa xinh đẹp dẫn họ theo một đường tắt và luôn để mắt đến tôi. Đến bến sông, Costea lớn tiếng gọi đò. Chúng tôi thấy một cụ già tóc dài che cả mắt, đã thế còn bị điếc, xuất hiện.

“Đưa chúng tôi qua bên kia!” Costea rít lên và vừa dùng gươm chỉ.

“Xin tuân lệnh ngài,” ông già sợ hãi lắp bắp, “nhưng nước đang lên thưa các ngài, không nên chở nhiều người một lúc, chưa kể xe và ngựa thì nguy hiểm lắm, đấy là chưa tính đến chuyện đêm hôm tăm tối.”

“Mặc kệ đi, bố già Bara ạ.” Cô chủ quán ghé vào tai ông lão nói lớn. “Cụ hãy lần lượt đưa họ qua. Trước tiên là ngài Costea và tiểu thư đây cùng với cỗ xe. Sau đó sẽ đưa tiếp những người khác. Thưa ngài Costea, việc này không dính gì đến tôi, đây chỉ là ý kiến bình thường của tôi, việc quyết định và ra lệnh là ở ngài.”

“Hãy chú ý, ông lái đò.” Costea nói. “Đầu tiên là cho tôi với em gái ngài đại danh thống đốc Bobeica qua. Liệu chừng mà chèo chống đấy.”

Ông lão rụt đầu vào vai và chạy đến chỗ chiếc đò. Còn Costea Căruntu thì ra sức dỗ dành tiểu thư Varvară để nàng xuống xe. Trông tiểu thư dáng mảnh mai và có vẻ hoảng sợ. Khi đến chỗ con đò, AncuỊa xinh đẹp bước lại gần tiểu thư, và nhìn vào tận mặt cô gái. Dây thừng kéo đò bắt đầu kêu cọt kẹt trong ròng rọc. Và cũng như mọi đêm, ánh trăng chiếu xuống mặt nước bị vỡ tan thành trăm nghìn mảnh bạc.

Con đò chậm chạp cập bờ bên kia. Cảnh vật im lìm, hiu quạnh. Không một giọng nói. Chẳng một cử động. Cả AncuỊa cũng im lặng đứng nghe. Ánh trăng chiếu sáng trong mắt cô. Tâm trí cô đang căng thẳng nghe ngóng. Đến một lúc nào đó, tự nhiên tôi cũng đâm lo. Chẳng hiểu có việc gì đã xảy ra, nhưng có những tiếng kêu ở bên kia sông, sau đó là tiếng gọi của AncuỊa và những người có mặt ở phía bên này sông.

Rất sớm, vào lúc rạng đông, những chủ trại vùng Tupilati đã đưa chiếc đò sang bến chúng tôi. Trong một khoang đò, ông lão Bara bị trói gô, ở một khoang khác là ngài Costea bị trói chặt đến tứa máu và bị nhét giẻ vào mồm. Khi tôi mở dây trói và lôi giẻ ra, ông ta quằn quại và phun khỏi miệng những chiếc răng cửa cùng máu cục. Ông ta mệt lử, đến độ đám thuộc hạ phải đặt ông ta nằm lên xe chở về sở cảnh binh. Đấy, chuyện như thế đó, chính bản thân tôi cũng ngạc nhiên về sự cố ấy và cũng hiểu ra rằng khi AncuỊa xinh đẹp vờ đưa mắt nhìn trăng là thật ra cô đang dỏng tai lắng nghe có việc gì bên kia sông. Tôi không biết đã xảy ra việc gì, ngài Costea chẳng bao giờ chịu hé răng kể.

Rất có thể tên tội phạm TodiriỊă đã phục sẵn ở đấy và hành hung ngài cảnh binh trưởng. Ngoài ra, gã tình nhân của tiểu thư Varvară cùng cô chủ quán đã bàn luận khá kỹ, và trước nay chưa hề có người đàn bà nào lập được chiến tích như thế. Mãi sau này qua cô chủ quán tôi mới biết TodiriỊă đã tìm nơi chung sống với tiểu thư Varvară tại đất nước Hungary. Tôi vẫn ngờ rằng AncuỊa của chúng ta có nhúng tay vào âm mưu này. Hãy tin tôi, ngài đại úy Neculai và ngài quan viên loniịă, tôi từ lâu đã thật sự sửng sốt khi nghĩ rằng một điều xấu xa ghê tởm như thế, một sự đọa đày như thế lại có thể xảy ra ngay giữa thành phố Ia§i và trên dòng nước sông Moldova của chúng ta.

Chú thích:

[1] Núi Athos nằm ở Macedonia, đông bắc Hy Lạp.