Chương 4
Trọng thức dậy đã lâu, nhưng chưa xuống giường. Anh cầm chiếc bình gạt tàn vào trong màn, nằm hút thuốc. Những con muỗi ngày vo ve bên ngoài, có dăm con lớn gần như ruồi, bụng vằn đen. Thứ muỗi ấy đốt đau như chó cắn. Những ngày trở trời, muỗi từ các xó xỉnh bay ra từng đàn dày đặc như đám mây. Trọng không dám đọc sách hoặc ngồi cộng sổ buổi tối. Anh phải dong ngọn đèn điện vào trong màn, và làm mọi việc bên trên chiếc giường chiều dài hai mét, chiều rộng mét tư, hệt như một gái đẻ.
Trọng đã có quyết định chính thức về làm thống kê tại cửa hàng bách hóa huyện Sơn Thanh, cách thành phố hai mươi lăm cây số, nhưng cách nhà có ngót nghét một cây. Cả đi cả về chưa đầy nửa giờ.
Cửa hàng khá lớn, chừng hai chục nhân viên, đa phần là nữ. Bà trưởng cửa hàng trên năm mươi tuổi nhưng còn khỏe mạnh và tinh ranh. Từ hôm đầu tiên gặp Trọng, bà đã nửa nạc nửa mỡ bảo:
- Này, làm quen sẵn một tay công an quản tù đi... Đàn bà đến giết nhau vì cậu thôi.
Trọng đáp lại bà bằng nụ cười khiêm nhường, lặng lẽ. Anh ưa nhìn các cô gái đẹp, nhưng anh không có tính trăng hoa. Anh đã thương yêu Bích, thế là đủ.
Tổ ấm của họ đã xây xong. Tấm giấy ly hôn của Bích với người chồng cũ đã được ký ngày mồng tám tháng trước:
- Chờ qua vài tháng nữa, cho chuyện này cũ đi...
Bích bảo anh:
- Ở xã hội mình, vừa bỏ chồng mà đã lấy chồng ngay họ dễ dị nghị. Đến giáp tết Nguyên Đán, lúc thiên hạ đâm đầu đổ đuôi lo sắm sửa, bánh trái chúng mình sẽ làm lễ thành hôn.
Trọng bảo:
- Cưới vào dịp đó ai đi dự được?
Bích cười:
- Thế càng may chứ sao? Tội gì tốn chè tốn rượu cho thiên hạ được dịp vừa uống vừa đàm tiếu. Chỉ một mình anh với em đã đủ vui hơn cả địa cầu này...
Một câu nói cũ kỹ, nhưng làm anh cảm động. Chưa người đàn bà nào, chưa cô gái nào nói với anh những lời ngọt ngào đó trong đời.
Tuy nhiên, anh vẫn muốn cuộc sống chung của họ nhanh chóng được hợp pháp hóa, anh muốn đưa Bích đi chơi thành phố, ra quê anh, muốn cùng cô thăm thú lại những mảnh đất đầy kỷ niệm thời chiến tranh - nơi anh đã sống qua tuổi trẻ, đã trưởng thành, đã đổ máu.
Anh nói:
- Em đừng sợ thiên hạ dị nghị. Chúng ta yêu nhau, đã sống chung, đằng nào sự thật cũng không thể thay đổi.
Cô bảo:
- Có gì thêm vào trong cuộc sống của chúng mình đâu?... Cưới hay không cưới em vẫn là của anh, anh vẫn có em đêm ngày.
Trọng lắc đầu. Thường anh hay nhượng bộ cô, Nhưng đôi lúc anh gan lỳ:
- Khác chứ. Trong cuộc sống của ta hiện nay có cái gì đó khuất tất. Tại sao chúng ta không thể khoác vai nhau đi chơi như tất cả những cặp vợ chồng khác, không thể thăm thú xóm giềng, bè bạn, không thể hẹn người này người khác tới nhà dự một bữa ăn tươi hay tham gia với họ một ngày chủ nhật du lịch. Tại sao em không thể là cô Bích, vợ anh Trọng mà lại là cô Hường?...Bởi vì em không phải một nhà văn, hoặc phóng viên báo, hoặc chính khách... Trong ngôi nhà này, chúng ta biệt lập với cả thế gian. Dù em có đưa ba lên trông nhà, cuộc sống của chúng ta vẫn bất thường so với mọi cuộc sống lứa đôi khác... Bầu không khí lập lờ không minh bạch này không hợp với tính cách của anh.
Trước ngày em có quyết định ly hôn anh không dám nói. Giờ, việc chia tay của em với Nghĩa đã chính thức, chẳng còn trở lực chính đáng nào trong việc hôn nhân của chúng ta.
Bích lắng nghe anh một cách chăm chú. Cô đáp:
- Tất nhiên anh hoàn toàn có lý. Nhưng ngoài cái lý của anh, có cái lý khác nữa... Một trăm trường hợp ly hôn xong đã kết hôn ngay, cả một trăm trường hợp ngoại tình. Thiên hạ họ tinh khôn lắm. Họ đoán ra ngay.
Trọng cười:
- Cuộc sống chung của em với anh từ hơn một năm nay là cuộc sống ngoài hôn thú. Chẳng lẽ em không biết hay sao?
Mặt Bích đỏ lên, cô nói:
- Đã đành thế. Nhưng không ai muốn mặt mình có vết nhọ.
Trọng bảo:
- Thà rằng mặt có vết nhọ còn hơn ăn gian. Chúng ta đã yêu nhau ngoài luật pháp, chúng ta hãy chịu án ngoại tình. Như thế vẫn hơn chơi trò bạc bịp.
Bích kêu lên:
- Anh gàn lắm... Xã hội muốn mình thế nào, mình hãy sống như vậy. Thế là khôn ngoan nhất. Xem xem, thiên hạ đều sống vậy thôi.
Trọng bảo:
- Điều sỉ nhục cho con người là miệng họ nói những lời mô phạm, trung thực mà hành vi của họ lại đểu giả, gian dối. Xã hội nào còn dung nạp lối sống ấy, xã hội đó không thể phát triển. Sự gian dối có thể vì vụ lợi, cũng có thể vì hèn nhát, cả hai thứ đều xấu xa... Nói chung, anh không phù hợp với kiểu thích nghi này. Chiến tranh đã dạy anh những nguyên tắc quá đơn giản: viên đạn bao giờ cũng đi thẳng, nếu nhắm trúng đích thì anh thắng, nếu trệch anh sẽ bại và sự thất bại phải trả giá bằng máu hoặc sinh mạng của chính mình. Cuộc sống bây giờ phức tạp, viên đạn đi hình chữ chi...anh không hình dung được đồ thị của nó... Em đừng giận, đôi lúc anh cảm thấy hổ thẹn như mình là thằng ăn cắp khi buột miệng gọi tên em: Bích ơi... Và em quay lại lườm anh, giơ ngón tay ra hiệu phải gọi em bằng cái tên giả hiệu: Thanh Hường... Rồi mỗi lần bạn bè anh hỏi chuyện riêng tư, anh phải nhắc lại những câu chuyện, những lý lẽ em dặn. Em đã gà anh, như một thí sinh giỏi gà bài cho thí sinh kém, như đạo diễn tập vai cho diễn viên... Nhưng anh không có năng khiếu sân khấu. Anh là một diễn viên tồi... Anh không thể chịu cảnh sống tù túng và cắc cớ này mãi được...
Nói xong, Trọng hắt cả một cốc nước lọc để nguội vào mặt vì anh thấy máu nóng bốc phừng phừng hai bên thái dương. Bích tới bên anh, cụp đôi mắt xuống với vẻ cam chịu. Cô cầm hai tay anh đặt lên ngực, và nói như van:
- Em xin anh, anh đừng nóng giận...vì tình cảnh của ta ngang trái nên anh phải chịu nhiều thua thiệt. Nhưng cũng chính vì những thua thiệt ấy, em yêu anh gấp trăm lần... Trong đời, chưa người đàn ông nào khí phách như anh. Anh đã hy sinh quá nhiều cho em, nếu chúng ta cố sống với nhau một trăm năm, em cũng không đủ trả món nợ ân nghĩa đó.
Trọng im lặng, anh cảm thấy trái tim nồng nàn của người đàn bà đang đập thúc hối dưới hai bàn tay mình. Làn da thịt quen thuộc của cô truyền sang anh cảm giác bình an, dễ chịu.
Bích nói tiếp:
- Thực ra, em định nói với anh một điều từ lâu, nhưng không dám... Em sợ điều đó làm anh đau lòng...
Trọng bảo cô:
- Em cứ nói.
Bích cúi gằm mặt xuống, anh không nhìn thấy mắt cô, chỉ thấy món tóc phủ trên vầng trán:
- Nói đúng ra, không phải em sợ dư luận xã hội mà trì hoãn lễ cưới của chúng ta. Em sợ con gái em đau lòng. Nó chưa đầy sáu tuổi, chưa đủ khôn để hiểu rằng em không thể sống chung với ba con nó. Nếu vắng em nó sẽ thiếu thốn rất nhiều. Chưa biết chừng, nó sẽ bỏ học hoặc đổ đốn ra như nhiều đứa trẻ khác.
Trọng an ủi cô:
- Em đừng buồn. Đã nhiều lần anh giục em đón con lên đây. Chúng ta sẽ cùng nuôi nó. Nó sẽ có em bé làm bầu bạn. Rồi lớn lên, nó sẽ hiểu mọi sự.
Bích lắc đầu:
- Nghĩa thương con bé lắm. Không bao giờ anh ấy chịu để cho nó đi.
Trọng buông tiếng thở dài, đoạn anh nói:
- Thôi được, tình cảnh đã thế, chúng ta đành phải chờ đợi. Nhưng tại sao em không nói rõ nguyên do từ đầu. Nếu là chuyện lợi ích của đứa trẻ, anh không bao giờ phàn nàn cả.
Bích úp mặt vào ngực anh, thì thầm:
- Vì tình yêu bao giờ cũng muốn độc chiếm. Em muốn anh chỉ là của em. Và em biết anh cũng thế. Dù là con trẻ, việc san sẻ tình yêu dễ mấy ai chịu nổi...
Trọng định nói với cô ý nghĩ của cô sai lạc. Rằng anh yêu mẹ và bà cũng yêu anh bằng một tình yêu thấm sâu đến nỗi anh không thể hình dung được một người đàn bà trên cõi đời này ra sao nếu người đó không có một đứa con và không yêu nó với một tình yêu xương tủy... Nhưng anh im lặng. Anh vốn không thích nói nhiều, cuộc chuyện trò với cô vừa qua đã rút hết lòng hăng hái trong anh. Anh buông Bích ra để đi uống một cốc nước lạnh vì cổ họng khô rang. Rồi họ lại cùng nhau làm món bún bung sườn...
Cuộc chuyện trò ấy cách đây đã hơn ba tháng. Mùa thu sang thật sự rồi. Thoạt tiên, chỉ là hơi gió rung rẩy trên lớp cỏ làm rơi rụng những hạt cỏ may xuống vệ đường. Sau rồi, ánh nắng bớt chói chang, chuyển sang màu vàng rơm tươi tắn. Nó không nung chảy những con lộ trải nhựa, mà chỉ làm các sườn đồi óng ánh như lông nhung, cỏ đẹp như thế ngày mai sẽ tan biến trong bụi cát, những con chim lích chích nhỏ hơn nắm tay trẻ con nhảy từ sườn đồi này sang sườn đồi kia, tìm sâu trong các lùm cây gai quả đỏ. Các dòng suối cạn bớt, nước trong veo, chảy róc rách giữa các trái đồi cách đường cái chính không bao xa. Chiều chiều, lũ trẻ đi hái quả rừng và chặt cây chổi dừng lại ven suối tắm rửa, cất tiếng hát:
Chim là chim ơi
Sao mày rũ rối
Bao nhiêu là sợi
Của ông trăng Già.
Lác đác, đã có những nhà đốt pháo cưới. Cặp trai gái trẻ trung nào đó hối hả tìm hạnh phúc, hay cặp vợ chồng muộn nào đó cố gắng cướp lại thời khắc bất tuyệt của cuộc đời...tiếng pháo cưới làm người đàn ông buồn. Anh không muốn lặp lại chuyện cũ một lần nữa. Nhưng tháng ngày lần lữa trôi, và niềm khao khát một đứa con càng ngày càng vò xé. Trọng ít soi gương nhưng thi thoảng, anh đứng trước tấm kính tráng thủy ngân gắn vào cánh tủ, tần ngần nhìn mấy nếp nhăn vừa xuất hiện dưới đôi mắt. Hai món tóc bạc lẫn vào đám tóc đen dày, tựa như hai vành trăng liềm buồn thảm. Ba mươi tám rồi, liệu đến bao giờ anh mới được làm cha? Bích không nhắc nhở tới chuyện cưới xin. Dạo này, cô bận lắm. Cô đang phấn đấu vào Đảng. Với thế lực của cô, chỉ cần được kết nạp là trong vòng ba năm sau, cô sẽ trúng Đảng ủy của Ty thương nghiệp. Chưa biết chừng còn có thể lên tới tỉnh ủy viên. Khó khăn nhất vẫn là cái cửa ải đầu tiên: chi bộ, cái tổ chức Đảng còm cõi nhất bao gồm toàn những con người chung sống với cô ngày ngày..Bích ở lại dưới thành phố luôn. Cuộc sống chung của họ bị gián đoạn. May còn có ông bố của cô. Nhưng ông lão câm lặng như bóng ma. Suốt ngày ủ dột ngồi nhìn chai rượu, và đôi lúc lắng nghe tiếng còi tàu từ thành phố vọng lên. Ông nói như vậy, có lẽ đó là cơn vọng tưởng của người già. Kỳ thực, chưa bao giờ Trọng nghe thấy tiếng còi tàu. Cách thành phố những hai chục cây số đường chim bay, làm sao làn sóng âm truyền tới. Ông già như người mắc chứng mộng du, lang thang trong những cơn mộng tưởng về đứa con trai yêu dấu. Trọng chưa gặp mặt chàng trai đó. Còn mỗi Tân anh nói chuyện về Bích, ông thường giữ một vẻ im lặng bí ẩn, hoặc ông lảng tránh những câu hỏi của anh bằng lối trả lời vơ vẩn của người già...
Làn khói thuốc bay lên, vòng vèo trong không gian trước khi lẫn vào khí trời trong suốt. Sau những cơn mưa, muỗi nhiều nhưng trời lại trong như lọc. Cát bụi đã lắng xuống. Các vườn cây được tắm gội xanh thắm lại. Cả những bông hoa tàn ướt sũng nước, chỉ chực rời rã từng mảnh cũng đẹp. Còn những đám lá non bóng như được quang dầu. Trọng ném mẩu thuốc vào chiếc gạt tàn, xoay người nằm nghiêng. Anh thấy ngoài cửa sổ mấy ngọn nhài vừa vươn lên, run rẩy. Nắng sớm soi vào, nhìn rõ cả những đường gân nhỏ và thẫm chạy trên phiến lá non tơ. Mùi thơm tràn đầy căn phòng.
- Sao nó ngái lắm vậy...
Trọng thầm hỏi, cảm giác bực dọc rất mơ hồ len vào con tim. Lần đầu tiên anh thấy khó chịu bởi mùi hương lẳng lơ của loài hoa đêm. Bụi nhài ấy, chính anh đã đánh từ vườn cảnh của một người bạn thiết cốt từ trên nhà máy thủy điện An Hoa đem về. Bao nhiêu cây số đường trường gìn giữ một nắm đất được gói ghém bởi mấy lớp giây báo. Cũng chính anh đã xây bồn hoa đó, bằng những viên gạch vỡ thu lượm được sau khi xây nhà. Và bên ngoài lớp vữa trát, anh đã gắn những mảnh men kính vụn khiến bồn cây cảnh lúc nào cũng lấp lánh như mạ thủy ngân.
Ngoại trừ cụm nhài, anh còn trồng cả một bụi trúc vàng, vài gốc hồng xiêm với một luống hoa cúc đại đóa. Cái công trình tu tạo cho ngôi nhà hạnh phúc lấy mất của anh rất nhiều mồ hôi và sự say mê. Mồ hôi đã thấm xuống cát, còn niềm say mê đã bắt đầu rạn nứt. Trọng nhìn những ngọn nhài non vươn lên ngoài khung cửa, thấy xa lạ.
Trước kia, anh có thể bỏ từng giờ ngồi ngắm. Giờ, nó chỉ là vật vô hồn chẳng đáng ghét bỏ cũng chẳng đáng yêu. Một bộ phận của ngôi nhà này, cái thánh đường anh dành cho tình yêu của anh, niềm hy vọng của anh về một đời sống gia đình bền chặt và êm ấm, nó không còn ý nghĩ lớn lao như anh vẫn tưởng. Bất cứ người đàn ông nào cũng có thể nhặt một cụm nhài từ xó vườn của ai đó đem về trồng bên rãnh nước, bên sân, thậm chí bên chuồng nuôi lợn. Loài hoa mọc sàm sỡ như cỏ dại. Thứ hương thơm đĩ thỏa ban phát còn sàm sỡ hơn sức sinh thành của chúng. Vậy mà anh đã cất công đem từ mấy trăm cây số về...
Lão Ngạn hắng giọng ho ở phòng ngoài. Rồi cất tiếng:
- Anh Trọng thức dậy chưa?
Trọng đáp:
- Con dậy lâu rồi, còn hút thuốc. Có việc gì đấy ạ?
Lão Ngạn nói:
- Có lẽ tôi phải vào thành phố.
Trọng ngồi dậy, khoác chiếc áo sơ mi đi ra:
- Lần trước bác vào có gặp chú Cường đâu?
- Phải. Họ bảo tàu nó vừa nhổ neo ba tiếng đồng hồ. Nhưng hôm qua có người quen ghé qua đây tình cờ gặp tôi. Họ bảo gặp nó trong quán nước mía ven bờ biển.
- Mới được trên mười ngày... Không có chuyến đi nào ngắn thế. Có thể là họ nhầm chăng?
- Không, người quen cũ, thường cất hàng cho tôi từ hồi chúng tôi dinh tê về thị trấn Cam. Nói để anh rõ, hồi đó chúng tôi bỏ chiến khu vào vùng tề, năm bốn tám. Ông ta không nhầm được.
- Vâng, nếu bác muốn đi, con không dám cản. Nhưng thế nào Bích về đây cũng la lối. Trước khi lên xe, cô ấy dặn đi dặn lại rằng không để cho bác vào phố.
- Nó dặn anh phải giam tôi trong căn nhà này? Tôi làm sãi giữ chùa không công?...
- Bác đừng nói vậy, oan cho cô ấy... Bích ngại bác yếu, không thể đi xa mà không có người đi theo.
Lão Ngạn cười nhạt, đưa mắt nhìn Trọng như lần đầu gặp anh. Rồi lão hỏi:
- Mấy hôm nó chưa về đây nhỉ?
- Năm hôm rồi.
- Nó bảo với anh là bận việc gì?
- Cô ấy đang thu mua hàng cuối quý để hoàn thành vượt mức kế hoạch Ty thương nghiệp giao. Người ta đang thử thách Bích lần cuối trước khi kết nạp.
Lão già cúi xuống, trầm ngâm nhìn chén trà đã nguội lạnh trước mặt. Rồi, lát sau ngẩng lên:
- Này tôi hỏi thật, hình như anh yêu con Bích lắm?
Một câu hỏi chẳng ăn nhập gì với chuyện đang bàn.
Trọng đỏ bừng hai tai. Anh chưa bao giờ phải trả lời một câu hỏi thật thà đến thô bạo như thế. Anh lúng búng hồi lâu, sau khẽ đáp:
- Vâng.
Lão già không nhìn anh, hỏi:
- Trước đó anh chưa có chuyện...đàn bà phải không?
Mặt Trọng càng đỏ hơn, hai thái dương anh cũng nóng rực lên. Anh cúi xuống:
- Vâng.
- Đi lính từ năm mười sáu?
- Vâng.
- Thế thì tôi hiểu...
Lão nói rất khẽ, như để cho riêng lão nghe. Rồi đôi mắt đục của lão trở nên xa xôi, bí ẩn. Trọng biết rằng lão không mảy may nghĩ tới anh vào phút này. Lão đã lạc vào một thế giới riêng biệt, thế giới mộng mị và hồi tưởng, khu rừng cấm của mỗi người, đám rong rêu tối tăm và rối như tơ vò không ai lần được đầu mối... Nhưng sao anh bỗng thấy buồn nản, thấy chán chường, cảm giác chưa từng có. Vẻ ủ dột bí hiểm của lão già có mối dây nào đó hệ lụy tới anh, tình yêu, niềm hy vọng hoặc những đau khổ chờ đợi anh trong tương lai?... Tất cả chỉ như những ảo ảnh mờ nhạt hiện trong sương mù. Nhưng tim anh thấp thỏm...
- Bác ơi, bác đoán bao giờ Bích về?
Anh hỏi lão Ngạn, thầm mong lão quả quyết được một lần. Nhưng lão không nghe anh hỏi. Lão đang phiêu diêu trong cơn du mộng. Mắt lão như đầy sa mù.