← Quay lại trang sách

Chương 5

Đang cọ rửa sàn tàu, chợt Cường nghe Tuấn hói gọi:

- Chàng còm, hình như ông già mày đang ở dưới kè đá.

Cường vứt nắm giẻ bẩn xuống, kiễng chân nhìn qua ô cửa tròn trong phòng. Anh thấy cha mình đứng dưới kè thật. Lão Ngạn khoác chiếc áo ca-pốt lính cũ, trông lướt thướt như cha cố trong bộ trùng thâm, cái dáng vóc thấp bé của lão trông càng nhỏ nhoi hơn.

Anh hốt hoảng bảo Tuấn:

- Anh làm ơn nói dùm là em đi vắng.

Tuấn hói ngạc nhiên:

- Sao lại thế?...

Vừa lúc trưởng máy Bá dưới khoang tàu leo lên. Cường túm lấy Bá van vỉ:

- Anh xuống kè nói với ba em là em đi vắng. Em không muốn gặp mặt ông cụ. Em rất sợ...

Bá không hỏi gì thêm, lau đôi tay dầu mỡ vào miếng giẻ khô anh đem theo, đoạn thong thả bước lên cầu tàu. Cường vào phòng, đứng nép bên ô cửa, ghé mắt nhìn xuống. Anh thấy lão Ngạn đứng ngơ ngẩn nhìn đám tàu dưới vùng biển, hết tàu này tới tàu kia, tìm kiếm. Gương mặt tái xám đầy nếp nhăn. Đôi lúc tiếng máy cẩu rú và những tay cẩu khổng lồ quay trục hàng khiến lão giật thót, mắt lão kinh hãi nhìn chúng như nhìn những con dã thú đầy sức mạnh chế ngự và quyền uy. Cằm lão không cạo, những sợi râu thưa thớt quăn lại, trông yếu ớt, bẩn thỉu. Chàng trai đau lòng. Đã lâu không gặp cha, anh không ngờ ông lão chóng suy kiệt như vậy. Anh thèm muốn ngồi với lão buổi tối, nghe mưa rơi ngoài mái hiên, nghe tiếng xe thổ mộ đi qua phố vắng, nghe tiếng rao quà vặt vọng vào. Anh thèm được đi song song với lão lên đồi đan tiêu những chiều tĩnh lặng, trời êm dịu nhưng gió biển từ dưới thành phố thổi lên còn đủ sức xao động những vòm lá đan tiêu, khiến chúng đỏ như lửa cháy, tỏa sáng và tỏa hơi ấm cho khung cảnh hoang liêu muôn đời nơi thị trấn. Anh thèm bưng cho lão một bát cháo nóng, có rắc hành và lá cây hao thái nhỏ... Anh thèm... Nhưng tất cả những khoảnh khắc hạnh phúc như vậy chỉ có được, khi lão là một người cha ngu ngơ, hiền thục, khi lão quên đi giấc mơ cuồng dại.

- Giá như không có chuyện đó. Giá như... Cường thầm nghĩ...

Dưới kè, lão Ngạn đang túm lấy hai người phu khuân vác, hỏi gì đấy. Họ lắc đầu, bỏ đi. Ông già đứng nhìn theo, dúm dó, chơ vơ giữa khung cảnh chẳng hòa nhập với con người như lão. Lão bước vài bước, tới sát mép kè đá, ngó xuống biển. Nước như thâm lại vì trời không nắng, đầy những vệt dầu loang, những đám rong nhớt nhát và rác rển. Anh thấy cha mình không dám cúi đầu thấp hơn, nhưng cũng không lùi lại một bước. Hình như làn nước mặn dơ dáy kia có sức hút kỳ lạ với lão, như lão bị thôi miên bởi vẻ đẹp mặn mòi và nguy hiểm của chính nó...

Bá đã xuống kè, đi dọc theo mép nước, tới sau lưng lão. Anh cất tiếng chào khá lớn, đứng trên tàu, Cường nghe rõ mồn một. Cha anh quay lại, đáp lễ với vẻ sửng sốt. Ông già đưa cả hai tay nắm tay Bá, ngửa mặt nhìn chàng thủy thủ vì lão chỉ đứng tới ngực anh. Bá mời lão tới căng-tin của cảng, phía gần cổng ra vào.

Hai người đi qua khoảng sân rộng mênh mông, qua những dãy kho tạm, những cần trục hàng và đám người khuân vác chạy đi chạy lại như đàn kiến. Mỗi lúc họ mỗi xa giống như hai cái chấm di động.

Cường bất giác buông tiếng thở dài rồi nắm lấy mảnh giẻ tiếp tục cọ sàn tàu... Tuấn hói đã cọ rửa xong sàn phòng, đang rống lên trong buồng tắm. Vừa xối nước ào ào, anh ta vừa hát. Giữa chừng lời ca, đột ngột Tuấn hỏi vọng ra:

- Mày có vào phố với tao không Cường?

- Không.

- Ở tàu làm gì?

- Em chẳng làm gì cả. Hoặc đọc sách.

- Mày không ngán mùi tàu sao?

- Bây giờ em cũng đã quen.

- Nếu thế thì tao chúc mừng chú em. Mày sẽ thành thủy thủ giỏi... Nhưng có lẽ điều đó không xảy ra. Vì đến tao cũng chẳng thú gì với mùi tàu, một thứ tổng hợp của mùi hàng hóa, mùi gỉ sắt, mùi dầu máy, mùi nước mặn và mùi phòng vệ sinh tiết kiệm nước rửa... Đúng không?

- Vâng.

- Thế thì xuống phố đi. Sao mày cứ ru rú suốt tháng trong phòng tàu.

Tuấn hói đã tắm xong, không thấy tiếng dội nước ào ào mà là tiếng vò xát quần áo. Ca sĩ nói tiếp:

- Đi với tao không lát nữa tàu vắng, thằng Đính về lại gây sự. Không có thằng Bá, không có tao thì nó nhai gỏi mày...

Cường bỗng thấy nóng mặt:

- Chẳng lẽ chỉ vì sợ anh ta mà em phải lánh mặt xuống phố hay sao?

Tuấn nói:

- Đừng tự ái. Tao bảo thật đấy. Thằng ấy thuộc loại sát nhân bẩm sinh. Không ai có thể đoán trước hành động của nó.

Cường đáp:

- Nếu anh ta thích đánh, cho đánh...

Nhưng nói xong, sống mũi chàng trai bỗng cay như ăn dưa cải xanh. Cường miết mạnh mảnh giẻ xuống sàn, cố ghìm nước mắt. Nếu anh có mẹ, chắc anh sẽ thầm gọi: Mẹ ơi. Nhưng vì mẹ anh đã chết ngay lúc anh cất tiếng khóc chào đời, nên đó chỉ còn là một danh từ hư ảo, một giấc mộng xa xôi dựa trên những đoán định và liên tưởng khác của đời sống. Cường nhúng mảnh giẻ bẩn vào thùng nước, vò thật mạnh để khỏi có những ý nghĩ mềm yếu. Tuấn hói đã giặt xong, bước ra trong bộ quần áo mới. Tóc anh ta chải bóng mượt, trông càng hói hơn. Nhưng vẻ mặt anh ta tươi rói, mãn nguyện vì sạch sẽ, vì tự tin ở thân mình. Hai vồng ngực Tuấn nổi phồng lên, tràn trề sinh lực.

- Chưa xong cơ à?

Anh ta hỏi Cường, đưa mắt liếc thùng nước bẩn, bảo chàng trai:

- Đừng sạch sẽ quá, vô ích. Cái phòng này có phải lầu kén chồng của các tiểu thư thời xưa đâu.

- Vâng.

Cường đáp, thèm khát vô biên cái vẻ mãn nguyện và tự tin của người đàn ông đứng trước mặt mình. Những người đàn ông khác nữa, sao họ khỏe khoắn thế, họ tự tin đến thế?... Cuộc sống với họ thật dễ dàng: làm việc họ thích làm, yêu người đàn bà họ ưng thuận, ăn món ăn họ chọn lựa.

Tuấn hói vào phòng riêng, lát sau anh ta bước ra, thơm sực mùi nước hoa. Tuấn giơ tay xoa đầu Cường:

- Thôi, ở nhà gác tầu vậy. Lát nữa về tao mua quà cho. Mày thích ăn bánh bao xá-xíu hay bánh dầy kẹp chả?

Cường đứng nhìn theo Tuấn hói, chàng ca sĩ kiêm võ sư ưỡn bộ ngực ra một cách kiêu mạn đi qua cầu tàu. Sau hình ảnh của một người đàn ông luôn luôn tự bằng lòng mình, anh ta còn là một thủy thủ giỏi. Bước trên cầu tàu, mắt Tuấn hói không hề ngó xuống dè chừng làn nước, cân nhắc bước chân trước khoảng rộng của tấm thép. Anh ta bước đi với vẻ ung dung của một chủ vườn dẫm trên các lối cát quen.

Bên kia cây cầu tàu, những con tàu khác đậu xin xít, tầu chờ cẩu hàng lên bờ, tầu chờ ăn hàng mới. Bờ kè đá chạy nửa đường cong pa-ra-bôn. Những chiếc cẩu rồ máy, trục quay ken két hết ngoạm lại nhả những kiện hàng khổng lồ.

Đám công nhân khuân vác chạy đi chạy lại không ngừng, làm khung cảnh sinh động, rộn rã hơn. Và trên tất cả, là bầu trời không giông gió, không chói chang nhưng vẫn quần tụ những đám mây xám lớn, giống như đàn ngựa hoang và những cánh chim âu chấp chới, dự báo một hiểm nguy không tính trước vì tính chất bất tường của biển cả, cái đặc tính không một vùng bình nguyên hay núi non nào có thể có. Khung cảnh ấy thật hợp với người đàn ông kia, như tấm áo vừa khít lưng của cô gái. Dường như anh ta sinh ra để sống với tàu bè, sóng nước, và thở hít làn không khí mặn của biển khơi...

Nắm giẻ lau bẩn vẫn nhỏ nước tong tong xuống thùng. Bỗng dưng, chàng trai thấy chán ngắt mọi thứ. Cả cái công việc khổ sai này nữa. Cường ném nắm giẻ vào thùng nước, khiến nó sánh ra sàn tàu. Anh nằm vật xuống giường...

...Trong hồi ức tuổi thơ của chàng trai, mặt trời lặn theo những chiếc nan gỗ trên bánh xe thổ mộ. Hồi ấy, người ta chưa dùng bánh cao su bơm hơi mà dùng bánh gỗ bọc cao su. Thị trấn Cam hẻo lánh chợt giòn giã vui vẻ trong tiếng nhạc ngựa lanh canh. Bánh xe lọc cọc lăn qua đường. Cường cùng đám con trẻ trong phố chạy theo xe, reo hò ầm ĩ. Những con ngựa béo mượt, đầu cắm lông trĩ nhuộm phấn sặc sỡ, có đủ yên cương, đai thắng ưỡn cái ức nở trước hàng trăm cặp mắt thán phục của lũ trẻ huyện ly. Cái mũi ướt của chúng phập phồng, và hai lỗ mũi như nở to ra. Mùa đông, từ hai lỗ mũi ấy tuôn ra hai làn hơi trắng xóa. Cường tròn mắt ngắm nghía luồng hơi nóng hực, có mùi ngựa, tưởng như hai ống khói của lò vôi được Phật Bà Quan Âm thu nhỏ. Thường, lũ trẻ chạy theo xe hàng cây số, mệt nhoài chúng mới quay về, tóc tai mướt mồ hôi và bụi. Và mỗi bận, chúng đều bị mắng, thậm chí còn xơi vài ngọn roi. Riêng Cường là không. Cha anh chiều anh. Anh là đứa con duy nhất, nguồn vui duy nhất của ông chủ cửa hiệu tạp hóa Mỹ Dung, một người đàn ông khá giả nhưng cô đơn, gương mặt lúc nào cũng ủ dột, tái xanh như mắc chứng thiếu máu. Trước, Cường cũng có một cô chị cùng cha khác mẹ, nhưng năm anh lên sáu, chị ta biến mất. Sau này, khi Cường đã trưởng thành, thi thoảng nọ mới gặp nhau. Kỷ niệm về người chị này, với Cường, chỉ là mùi phấn rôm thơm lừng được vỗ ra từ hộp phấn màu hồng. Cô chị rất thích lấy trộm phấn rôm của em dùng. Và thêm nữa, là những cái cấu véo thầm vụng. Chàng trai vẫn nhớ một lần Bích cấu trộm anh đã bị cha đánh mười roi phất trần rồi bắt quỳ vào xó nhà phía sau tủ đựng giấy bút và các loại mũ áo cho trẻ đi học. Mặc dù vú em chăm bẵm Cường rất cẩn trọng, bám sát anh như cái đuôi nhưng không lúc nào cha anh rời mắt khỏi đứa con trai. Kể cả khi ông nhận hàng hoặc bán hàng, hoặc ngồi cộng trừ những dãy số dài dặc sau chiếc bàn gỗ nhẵn bóng. Cha anh đã yêu anh với một tình yêu không bình thường. Ngay cả những người đàn bà đầu óc cạn cợt cũng không yêu con với tình yêu như thế.

- Con trai của ba, cưỡi lên bụng ba nữa đi... Vú xem này, thằng Cường nó lại đòi sờ tí tôi... A ha ha.

- Con trai ba khỏe quá nhỉ... Nào, đấm nữa, đấm nữa đi...

Ông chìa bộ mặt xanh xao ra trước con trai, cổ vũ nó đấm. Sau này, vú em kể lại chuyện ấy với anh. Cha anh nuôi anh bằng sữa hiệu Tổ chim, bằng nhân sâm Cao-ly chính phẩm bằng thịt bò ép nước hầm đậu xanh, bằng sườn lợn ninh gạo nếp... Tất cả các loại thực phẩm đắt tiền nhất mà ông có thể mua được. Nhưng cậu bé Cường vẫn là đứa bé còm cõi nhất trong phố. Anh gày, nhút nhát, đôi mắt lúc nào cũng như e ngại, như phòng hờ một tai nạn bất trắc. Cậu bé ít tham gia những trò chơi của lũ trẻ trong phố, phần vì cậu yếu sức, phần vì thấy không hấp dẫn. Bọn trẻ cùng tuổi với Cường thích tập trận giả, thích chơi trò cưỡi lưng ngựa, thích đấu kiếm gỗ, thích bơi... Trong lúc chúng tham dự trò chơi, cậu đứng ngoài xem, vỗ tay khích lệ. Cường khác hẳn chúng, cậu thích chơi búng nịt với lũ con gái, chơi chuyền, chơi búng hạt nóng hạt na...

- Thằng lai gái...ê ê ê...đồ mặc váy kia.

- Cường ơi, suốt ngày mày bám đít tụi con gái...xem tụi nó ị thối hay thơm... Ê ê è...

- Đuổi cổ thằng Cường lai gái đi, chúng mày ơi.

Không bao giờ anh quên nổi cảm giác cô đơn ngày ấy, khi lũ bạn trai độc ác giật tóc, đá đít anh đuổi đi... Anh lảng tránh bọn chúng. Hết giờ học, Cường thui thủi ở nhà. Anh học bài, làm thủ công rồi theo chú Hai, ông già láng giềng tốt bụng vào vườn cây. Chú Hai có hơn một mẫu vườn trồng toàn cây ăn quả. Những người lái buôn từ thành phố và các huyện ly lân cận đánh xe tới tận vườn mua trái chín. Mùa nào thức nấy, không lúc nào ông già vơi túi tiền. Ông làm một chiếc chòi sàn gỗ mái lá ở chân đồi dứa, nơi vườn cây được bao bọc bởi hàng rào gai găng, có cửa trổ ra dãy đồi bát ngát phía sau. Ông xách bầu rượu, túi thức nhắm lên chòi. Cường lẽo đẽo theo sau. Hai chú cháu ngồi, ông già uống rượu, Cường ăn lạc luộc, mực khô nướng hoặc bánh đa. Ông Hai không vợ không con, ông yêu thằng bé lúc nào chẳng biết. Thoạt đầu, Cường rạch hàng rào đỗ leo sang chơi với ông. Sau, tới lượt ông bước qua bờ dậu sang tìm thằng bé. Ngày nào Cường ốm hoặc đi vắng, ông ngơ ngẩn xách túi thức nhắm đi đi lại lại quanh chòi. Ông biết nhiều chuyện, ông đã kể cho anh nghe, ngày nọ qua ngày kia. Giữa những câu chuyện, ông thủ thỉ với anh về cách thức ươm hạt chiết cành, cách bón phân cho mỗi loại cây, cách lai ghép chúng... Rồi ông rèn cho Cường một chiếc xẻng tí xíu, cho đứa bé tập sự làm vườn... Như thế, ngày tháng trôi qua, cho tới năm Cường lên chín.

Một chiều hè, anh đang lúi húi cắt dán hình vẽ bằng giấy màu vào cuốn vở thủ công, chợt nghe gọi:

- Cường ơi, ra ba bảo.

- Thưa ba vâng.

Cường đáp. Cậu bé xếp thứ tự những tấm hình muông thú, hoa lá bằng giấy nến vào vở. Chiếc kéo bé tí xíu và lọ cồn Cường bỏ trong chiếc hộp gỗ. Xong xuôi, anh chạy ra ngoài. Cha anh vừa thu xếp hàng hóa xong, ngẩng khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi lên:

- Lấy quần áo sạch, cha con mình đi tắm.

Ông bảo anh, và nói thêm:

- Chiều nay không tắm ngoài giếng. Cha con mình ra sông.

Lúc ấy, cậu bé Cường thích chí nhảy cẫng lên. Chưa lần nào Cường được cha cho hưởng thú vui ấy. Lũ trẻ cùng lớp ngày nào cũng ra sông bơi ùm ùm và chúng kể lại chuyện đó một cách thản nhiên, trước vẻ tò mò lẫn thèm muốn của anh. Cường vào nhà lấy quần áo. Từ năm anh lên bảy, vú em bỏ về quê. Người chồng tệ bạc của vú sau mười tám năm lăn lóc từ Nam ra Bắc với một ả tình nhân đã mất hết gia sản, trở về quê. Mắt ông ta mù dở nhưng lưỡi ông ta sắc như lưỡi dao. Ông tỉ tê thế nào mà chỉ vài giờ đồng hồ, vú đã quên mọi oán thù cũ, quên những trận đòn ác nghiệt ngày xưa, quên chuyện ông ta đã bán sạch vườn tược, nhà cửa, bán đến tận manh áo cưới của vú để gói cục tiền đi theo gái, và đẩy vợ vào tình cảnh lang thang suốt ngần ấy năm trời, nay ở đợ nhà này, mai ở vú cửa kia... Vú khóc, từ giã cha con Cường, trở về cày sâu cuốc bẫm nuôi gã đàn ông phụ bạc nay đã thành phế nhân. Tự ngày ấy, mọi việc Cường đều tự làm lấy. Cậu bé sắp xếp quần áo cho cha, cho mình rồi đứng chờ ông. Lão Ngạn hài lòng:

- Ta đi thôi.

Đoạn, lão nói thêm:

- Từ chiều nay, ba sẽ dạy con bơi.

Cậu bé nói:

- Con chỉ thích xem tụi nó bơi thôi. Con sợ lắm.

Cha anh đưa mắt lườm:

- Đừng ăn nói nhảm nhí.

Cường im bặt. Cậu bé không dám cãi cha nhưng cảm thấy ông mắng mình một cách bất công. Họ im lặng qua phố, qua giải đồi thấp, ngược lên sông Cam. Mặt trời chưa lặn, đỏ như trái bòng bong chín. Dòng sông tươi sáng, rực rỡ vì những làn phản quang hòa trộn. Nước sông trong và ấm. Lũ trẻ thị trấn bơi ùm ùm, vừa bơi vừa la hét, vừa té nước giỡn chơi. Cuối bến, các chủ ngựa đua và chủ xe tắm cho lũ ngựa, tiếng quát tháo ồn ĩ của họ vang động cả hai bờ. Cường đứng ngây người trước quang cảnh kỳ thú ấy, sửng sốt vì đám trẻ táo tợn đang nhào lộn như những con cá kình trên mặt nước, mê mẩn vì cùng lúc, cậu nhìn thấy hàng chục con ngựa tụ tập trên bến sông. Nhưng cha cậu đã vắt quần áo lên cành cây, chạy xuống:

- Cường.

-Dạ.

- Lại đây ba bảo.

Cường chạy tới. Ông cầm tay con trai lôi tuột nó xuống dốc lát toàn thứ sỏi nhỏ, trơn. Cường suýt ngã, loạng choạng trượt theo bờ dốc. Theo đà, cậu bé lội tõm xuống nước. Lão Ngạn vẫn cầm tay con:

- Nào, bơi đi.

Lão hét lên, ra lệnh một cách tự tin và vui vẻ. Sau đó, đẩy Cường ra xa. Làn nước ập tới, đột ngột tràn vào họng cậu bé:

- Ba ơi...

Cường hét to, uống một ngụm nước khác lớn hơn. Cậu bé nắm chặt tay cha, cuống quýt lội vào bờ. Lũ trẻ thị trấn thấy cảnh đó, cười rộ lên:

- A ha, thằng Cường lai gái tập bơi...

- Chúng mày trông kìa, nó chạy vãi đái ra quần... Ê.. ê.. ê...

Cha Cường quắc mắt nhìn con:

- Mày xem chúng nó bơi kia kìa.

Rồi giữ tay Cường, ông hạ giọng ôn tồn:

- Tay đập thế này nhé, chân choãi ra đạp nước theo, cổ ngoi lên hớp hơi thở...có gì đâu?. Con xem này...

Lão Ngạn nhào xuống nước bơi làm mẫu. Bơi được vài chục thước lão quay lại, thở hổn hển như vừa đánh vật, môi thâm xì. Cường nhìn cha, sợ hãi.

- Bây giờ con cứ làm như thế cho ba... Nào, bắt đầu.

Một tay lão nâng bụng con, tay kia cầm tay thằng bé quạt nước. Trong tay cha, đứa con trai cử động như một hình nhân, như thằng nộm đuổi chim trên ruộng lúa chín. Lúc ấy, Cường không nghe cha anh nói gì, không nhớ gì, chỉ cảm giác đau buốt hai bên màng tang khiến đầu óc tê dại. Làn nước mênh mông, dập dềnh như cái lưỡi của loài dã thú thời mông muội, nó sẵn sàng nuốt chửng cậu trong cái họng khổng lồ. Nỗi sợ hãi khiến cậu bé mờ mắt. Cậu không nghe tiếng người cha hạ lệnh bên tai:

- Chú ý, ba buông tay ra đấy nhé... Hai ba...

Ngay khi lão Ngạn rút bàn tay khỏi bụng đứa con trai, nó đã chìm nghỉm. Nó uống no nước, quẫy đạp một cách tuyệt vọng xuống lớp bùn nhão, cố dò tìm lối lội vào bờ sông. Lão Ngạn kéo con lên, mắt long sòng sọc:

- Sao mày ngu thế hả?... Tao đã tập bao nhiêu lần rồi?...

Cường khóc. Nước mắt chảy lẫn với nước nhỏ từ trên tóc xuống.

Tiếng la hò chế giễu của lũ trẻ làm nó nhục nhã thêm:

- Ông Ngạn ơi, bắt cho nó con chuồn chuồn... Ông có thuê, mai cháu bán cho con chuồn chuồn ngô cỡ bự?...

- Cường lai gái ơi, cho chuồn chuồn cắn rốn đi rồi hãy tập bơi.

- Lêu lêu lêu, khóc nhè chè thiu... Chịu khó gọi tao bằng cậu mai tao tập bơi cho...

Chúng cười ré lên, la hét ồn ĩ. Rồi dăm đứa té nước ràn rạt về phía cậu bé. Lão Ngạn gầm lên:

- Cút ngay, có muốn tao bảo bố mẹ chúng bay không hả?.

Mặt lão tái, mồi thâm xì. Một nỗi hổ thẹn không thể che đậy khiến chân tay lão run bắn lên. Xách tay Cường lôi lên bờ, lão Ngạn nghiến răng bảo:

- Hoặc mày chết, hoặc mày phải biết bơi, tao không thể đẻ ra một thằng hèn như vậy.

Buổi tối Cường sốt. Cậu bé phải nghỉ học liền một tuần lễ. Nhưng ngay khi Cường khỏi bệnh, tới trường cha cậu đã đưa cậu ra sông. Lần này, lão đưa con trai đi tập bơi vào buổi sớm, lúc lũ trẻ trong thị trấn đi học hoặc đi bán rong, quay bột hoặc quai búa phụ trong các lò rèn. Ông chủ hiệu tạp hóa Mỹ Dung đóng cửa hàng mười hôm liền. Thời gian đó, nhất quyết tập cho đứa con trai biết bơi. Ông dìm con xuống nước khi dỗ dành nó chán chê mà không được. Ông tát thằng bé, lấy roi quất hai mông nó đỏ nhừ những lằn ngang lằn dọc, ông sỉ nhục, ông van vỉ đủ trò. Cường đã năn nỉ, đã ương bướng từ chối, đã gào khóc, uống no nước, sặc sụa, quẫy lộn... Cuối cùng cậu bé học được cách ngoi lên mặt nước, thoát khỏi cơn chết ngạt... Nó biết bơi. Nhưng dòng sông với cậu là ám ảnh ghê rợn, là mối thù không phân xẻ...

Một tiếng nói đột ngột vang bên tai chàng trai:

- Cậu ngủ à?...

Cường ngồi nhỏm dậy:

- Không. Em vừa ngả lưng cho đỡ mỏi.

Bá ngồi xuống giường, tiếp tục rít điếu thuốc đang cháy dở:

- Ông cụ về rồi. Tôi nói rằng cậu được biệt phái sang tàu khác trong ba tháng.

Cường nhìn Bá:

- Ba em có tin không?

Bá gật đầu:

- Tin. Còn những niềm tin cao hơn thế.

Anh nhíu mày, rít nốt hơi thuốc cuối cùng. Cường buông tiếng thở dài. Bá hỏi:

- Chẳng lẽ cậu đã vun đắp cho ông già những giấc mộng ấy?

- Không. Em biết đó là chuyện hão huyền.

- Tự ông cụ đẻ ra chúng?

- Vâng.

- Tại sao?... ít nhất cũng phải có một căn đế?...

- Căn đế nào, chính em cũng không biết... Ba em là người đàn ông thất bại trong cuộc sống. Ông chỉ có một niềm kiêu hãnh, đó là quá khứ vẻ vang của gia đình. Con một thủy sư đô đốc lừng danh, giàu sang và được trọng nể khắp xứ. Thế thôi...

- Bây giờ, ông cụ tin chắc rằng cậu sẽ tiếp tục khả năng đem lại vinh quang cho gia tộc?

- Vâng. Tin chắc. Tin đến mức em không dám cho cụ biết sự thật

- Như thế, lại là cách tự sát hiệu nghiệm nhất.

- Nhưng giá có nói rõ sự thực, ba em cũng chẳng chịu nghe. Lần nào em về phép, cụ cũng thấp thỏm mừng rỡ, hy vọng rằng em đã được cất nhắc, được bổ nhiệm một chức trách nào đó quan trọng trên tàu. Lần nào gặp em, cụ cũng nhìn em với cặp mắt chứa chan hy vọng. Cụ thêu dệt nên những hy vọng ấy, không cho ai can thiệp, không cho ai phân giải, bất chấp mọi điều kiện có thực trong đời... Như người đi trong đám mù ông cụ lạc mãi. Còn em, em nhìn thấy mà đành bó tay.

Bá chăm chú nghe. Đoạn anh rút điếu thuốc khác, châm lửa hút. Hai người ngồi im lặng một lúc lâu, nghe tiếng bọt sóng vỡ quanh thân tàu. Rồi, Bá hỏi:

- Tại sao cậu lại chấp thuận sự lựa chọn ấy?... Vào phút đầu tiên, nhưng lại là quyết định cho cuộc đời?

- Em là con. Em phải tuân thủ ý muốn của ba em.

- Tuân thủ vô điều kiện?

- Vâng. Hồi ấy, em đã nộp đơn thi vào trường đại học Lâm nghiệp. Em thích làm vườn, thích sống như chú Hai, ông già láng giềng gần gũi. Một buổi trưa, từ trường trở về, em thấy ông cụ ngồi bó gối uống rượu trên giường, mặt tái xanh. “Ngồi xuống trước mặt tao, có chuyện.” Ông cụ bảo em với giọng cục cằn khiến em lạnh sống lưng. Em kéo ghế ngồi. Ba em nhìn em bằng đôi mắt đục ngầu của người say: “Mày nộp đơn vào trường Lâm nghiệp?” Em đáp: “Thưa ba, vâng”. Ông cụ bảo: “Mày định trở thành thằng làm vườn?” Em đáp: “Vâng. Con muốn...” Tới đó, ông cụ hét lên, tay chân run lật bật: “Khốn nạn... Thật khốn nạn, mơ ước trở thành đứa làm vườn... Sao mà hèn mọn thế... Mày là đứa con trai độc nhất của tao. Tao đã nuôi mày từ thuở lọt lòng. Tao đã chờ đợi hai mươi năm... Tao đã hy vọng... Giá như tao là kẻ thất phu mù chữ. Giá như tao là con cháu của một gia đình bần tiện, suốt tháng năm cắm mặt xuống bùn, móc hạt thóc ăn... Nhưng ông nội mày lại là quan thủy sư đô đốc, lừng danh khắp xứ. Các hải cảng từ Âu qua Mỹ, các thành phố lớn Viễn Đông, chẳng nơi nào ông cụ chẳng đặt chân lên...” Rồi ba em ôm ngực ho. Trước, ông cụ bị lao cắt mất một bên phổi. Từ dạo ấy, cứ mỗi lần xúc động, ông cụ lại ho từng cơn và nghẹt thở. Người ông cụ rũ xuống như tàu lá héo. Em hoảng hốt van xin cụ. Ba em bảo: “Con ơi, bất cứ thằng con trai đần độn nào cũng có thể trở thành gã làm vườn. Nhưng ba nuôi con ăn học bấy nay không phải để con làm nông phu hay điền chủ. Làm trai phải nuôi chí lớn. Con hãy noi theo nghiệp của ông nội, con sẽ trở thành thủy sư đô đốc, đem lại hiển vinh cho dòng họ Phạm chúng ta. Đời ba đã tàn tạ, mỏi mòn trong phố xép. Ba mong ngày nào đó, khi con hiển đạt, ta sẽ trở về thành phố xây lại ngôi nhà nguy nga của ông nội ngày xưa... Hãy nghe ba, ba xin con...” Rồi ba em khóc... Anh tính xem, làm sao em khước từ được lời kêu gọi ấy?... Em đã rút đơn khỏi trường đại học lâm nghiệp, xin thi vào trung cấp hàng hải. Ở trường, em là một học sinh trên trung bình, nhưng đặc biệt kém trong các môn thực hành. Nhờ sự đùm bọc dắt díu của mọi người, em vẫn có tấm bằng tốt nghiệp và trở về tàu sau thời gian mãn khóa.

Bá gật đầu:

- Ván cờ định mệnh của cậu nằm trong tay người khác. Dẫu rằng người đó là cha đẻ của cậu. Rồi đây, cậu sẽ toan tính ra sao? Bởi vì, người ta chỉ có một cuộc đời. Không ai được may mắn ban thêm một cuộc đời dự phòng khác.

Vừa lúc, tàu trưởng vào, gọi Bá đi bàn công việc. Ông từ công ty về, đang đầy ắp kế hoạch về các chuyến đi sắp tới. Ông đưa cho trưởng máy Bá hai bao thuốc nặng của Anh và cho Cường một nắm kẹo cao su. Cường ít hút. Tàu trưởng bảo:

- Để mà nhai cho đỡ buồn khi đọc sách.

Hai người đi khỏi, chỉ còn chàng thủy thủ ở lại buồng. Anh đổ xô nước bẩn, rửa tay rồi lấy cây đàn ghi-ta bên phòng ca sĩ Tuấn hói về gảy. Những nốt nhạc rời rạc không làm Cường đoạn tuyệt được dòng suy tư đang ám ảnh. Anh đập một hợp âm giọng Mi thứ rồi chán nản ném cây đàn xuống giường:

- Tại sao?...

Con người, đôi khi buông theo dòng đời như dám bèo bập bềnh trên mặt nước. Anh đã chấp thuận đời sống, đã cam chịu những thua thiệt, đã nhấm nháp nhiều đắng cay, buồn tẻ và đôi chút niềm vui mà số phận keo kiệt bố thí.

- Tại sao?...

Câu hỏi vang trong cõi u tối. Anh đã đuổi theo giấc mơ của người cha một cách vô vọng. Giấc mơ huy hoàng ông ký thác cho anh còn ở tít mù khơi. Anh là một thủy thủ hạng bét. Trên tàu, chẳng ai cần tới anh. Người ta dung nạp anh theo thói quen, một cơ số tổ chức, một sự đã rồi... Phía sau tất cả những lý do ấy là lòng thương hại...