Chương 11
Ánh đèn lù mù soi, hầm tàu giống như một cái nhà xác khổng lồ, ngột hơi dầu và lạnh lẽo. Những kiện hàng như một thứ tử thi chất chồng câm lặng. Góc này, góc kia, tiếng chân chuột chạy, tiếng rinh rích của chúng ném vào khoảng không gian kín bịt bùng, vang lên gấp bội như đã qua máy phóng âm. Cường chợt rùng mình vì một làn hơi lạnh lướt qua. Cái bẫy chuột vẫn há miệng chờ, không một con chuột nào bén mảng tới. Dù anh đã thay miếng cá nướng bằng miếng thịt lợn. Chuột dưới hầm tàu đã thành tinh. Chúng có thể chạy vụt qua mặt anh rồi quay đầu lại, ngoáy ria, nhìn con người với vẻ trêu cợt ranh ma. Chúng cũng có thể rượt nhau nhảy phóc qua vai anh, chạy qua đùi anh, thậm chí leo lên cả cánh tay anh. Nhưng chúng không vào bẫy. Cái bẫy cứ há miệng chờ một cách hoài hủy. Miếng cá hoặc miếng mỡ treo bên trong khô tóp dần, hoặc thiu thối vào những ngày hè. Rồi thủy thủ lại phải ném đi. Họa hoằn lắm, mới có một con chuột nhép lọt bẫy. Lúc ấy, họ được dịp chơi đủ mọi trò. Họ cho con vật uống rượu, uống thuốc giảm đau có á phiện, uống dấm, uống nước mắm. Họ cho nó ăn ớt, ăn hạt tiêu, dùng diêm đốt cháy trụi râu... Tóm lại, tất cả những thứ trò quái quỷ mà chuỗi ngày buồn phiền, tẻ nhạt lênh đênh trên đại dương, những khối óc tù đọng có thể tưởng tượng ra được...
Chít...chít. Có tiếng chuột rít lên rồi hai con đuổi nhau phóng qua chân chàng trai. Móng sắc của chúng cào sột lớp vải quần. Cường bất chợt rùng mình. Giá như anh mặc quân đùi, hoặc lớp vải quân mỏng, chúng đã cào rách thịt da anh. Những con vật dơ bẩn, rúc rách trong các xó. Cường chợt nhớ tới một truyện ngắn anh đã đọc trong tập truyện của nhà văn nước ngoài. Tên truyện là "Cái bẫy chuột”. Trên một con tàu biển lang thang từ đại dương này sang đại dương kia, cuộc sống của thủy thủ được tổ chức khá chu đáo để gìn giữ những chuyến đi dài, nhiều bất trắc. Hầm tàu rất nhiều chuột. Chuột sinh sôi này nở hằng hà sa số. Trưởng tàu phải ra lệnh cho thủy thủ: cứ diệt được một con chuột sẽ được phát một khẩu phần rượu vang. Đương nhiên, đó là một phần thưởng đắt giá đối với những người đàn ông làm nghề ăn gió nuốt sóng. Mọi người đua nhau bẫy chuột. Nhưng riêng một thủy thủ trên tàu bẫy được nhiều chuột đến nỗi mọi người ngờ ràng anh ta có phép thuật. Phép thuật ấy được giữ bí mật. Bao nhiêu năm sau, người ta mới được biết chàng thủy thủ kia đêm đêm đã cởi trần, chỉ mặc một manh quần đùi, bôi mỡ khắp người và năm như một miếng mồi vĩ đại để nhử chuột xuống. Anh ta đã chịu nằm bất động như một tử thi, chịu mùi hôi của lũ vật dơ bẩn, chịu hàng trăm chiếc móng sắc của chúng cào trên da thịt.
- Khủng khiếp quá...
Cường lại rùng mình lần thứ hai khi nghĩ tới hình ảnh một con người trần truồng, bôi mỡ lợn cùng mình, nằm dưới sàn tầu hôi hám. Và đêm tối nữa.
- Mình không đủ can đảm làm như anh ta.
Cường nghĩ, lại một con chuột nhảy qua vai anh. Chàng trai rụt cổ lại, bẻ dựng chiếc cổ áo sơ mi lên che gáy. Rồi hai tay vòng qua gối, anh nhìn cái bẫy chuột đang há miệng chờ. Chừng năm phút sau, cầu thang có tiếng chân người, Cường quay lại:
- Anh Bá.
Bá lẳng lặng tới sau lưng Cường:
- Rình chuột hả?
- Vâng.
- Thôi, lên đi.
- Trên ấy họ đang đánh bài. Em không nhập cuộc đâu.
- Kệ chúng nó. Lên đi.
Nói đoạn, anh quay lưng đi trước. Cường theo sau. Họ lặng lẽ leo qua cầu thang. Bá bảo:
- Đóng cửa hầm lại.
Tiếng máy nổ khiến giọng nói của anh bị nuốt chìm. Trong phòng lớn, đám thuỷ thủ đang ngồi uống trà, chuyện trò ầm ĩ.
Hai người không vào phòng, nhưng họ kiếm chỗ ngồi gần đó, tựa lưng vào một chiếc thùng gỗ. Bá rút thuốc, châm cho Cường một điếu và một điếu cho mình. Hai người chưa kịp rít, gió đã đốt đốm lửa cháy đỏ.
Tàu chạy nhanh, quầng sáng của nó lướt trên mặt nước tối.
- Ai bảo cậu xuống hầm tàu?
Sau khi rít liền dăm hơi thuốc, Bá cất tiếng hỏi:
- Lại thằng Đính phải không?
Cường lắc đầu:
- Không. Lần này chính tự em đi xuống. Em muốn rình xem tại sao lũ chuột không chịu vào.
- Cậu đổi bẫy rồi à?
- Vâng em đã thay cái bẫy khác, chốt sập rất nhạy.
- Ngồi một mình dưới hầm tàu, không buồn à?
- Có chứ anh...Nhưng...
- Ngày xưa chỉ có những tên tù khổ sai mới sống dưới hầm tàu, hoặc đám nô lệ da đen từ châu Phi chuyển qua châu Mỹ...Tôi thật lạ...
Bá ném mẩu đầu thuốc rồi đứng lên, sải bước trên khoảng trống boong tàu. Biển trải trước mắt anh, trong tấm màn bao la của bóng đêm, mây trời, ánh sao đan dệt với những gợn lân tinh. Gió thổi lạnh, lay động, một sức mạnh cuồng phóng và thách thức. Cái khung cảnh này phải chăng chỉ thích hợp với tâm hồn anh, cũng mãnh liệt cũng bạo ngược, cũng hoang vu. Trước kia, Bá đã từng sống ở bình nguyên. Đã nhiều lần anh đứng trước cánh đồng bạt ngàn xứ Bắc. Mùa Xuân lúa xanh trôi tới chân trời. Và những đàn cò dập dìu, biến nó thành tấm thảm phiêu diêu, lơ lửng giữa thinh không và gió. Giờ, trở về với sóng nước, anh cũng yêu biển như thế. Hình ảnh một khoảng xanh bao la, khoáng đạt hòa nhập vào anh, như thông điệp của niềm vui sống, nỗi khát khao, sự phỉ nguyên của tự do và quyền chế ngự đời sống. Đời sống, không còn là đời sống nữa khi thiếu vắng tự do, khi bị vây bọc bởi sự tòng phục và khuất lụy. Ý tưởng ấy bền vững trong anh, như đá ngồi trên núi... Bá từng mơ ước thành võ sư tài ba và anh đã trở thành võ sư tài ba. Anh ưa thích nghề thợ máy, anh đã học đúng nghề anh thích và trở thành thợ máy. Anh đã yêu những cô gái anh yêu và giã từ họ khi nhận ra đó không phải đích thực người mình cần có. Anh không hiểu, không sao hiểu nổi chàng trai này. Đôi mắt ưu sầu, khiếp đảm. Tiếng nói e dè. Nụ cười quá dịu dàng. Dịu dàng đến mức làm những trái tim đàn ông xa xót...
Bá quay lại:
- Tại sao cậu lại chấp nhận một đời sống như vậy?
Cường ngước mắt lên, đáp:
- Em hiểu rằng anh rất thương em... Chưa có ai tử tế với em như anh...Nhưng em biết làm sao bây giờ?
Bá bất giác buông liếng thở dài, anh ngồi xuống bên Cường và châm điếu thuốc khác. Trong phòng lớn, tiếng ai đó vừa quát to khiến hai người giật mình. Họ im lặng lắng nghe. Cuộc đối thoại từ phòng lớn vang ra, rõ mồn một:
- Láo, cậu đừng láo.
Tiếng Tuấn hói.
Đáp lại, Đính cất liếng cười khành khạch. Sau đó anh ta cất giọng rành rọt:
- Tại sao anh bảo tôi láo? Vì tôi nói trúng tâm can anh. Đối với loại người đã có vị thế nhất định do chức tước, do danh tiếng, do giàu sang, hoặc do một thứ thành công hạng bét trên cõi đời là đã sống một quãng đời dài lâu hơn kẻ khác. Với loại người ấy ai đọc trúng tim đen họ, ai nói đúng sự thật họ đều cho là láo xược. Tôi bảo anh là kẻ sĩ diện. Anh lập tức vằn mắt lên chửi tôi ngay. Vì điều tôi nói là một sự thực không thể chối cãi. Tháng tháng anh tích cóp tiền vào két, không uống rượu Tây, không chơi gái, ngoại trừ mua ảnh và an bom anh chỉ gửi cho bà chị ở quê. Giá bà chị này là người thương yêu anh, thay cha mẹ anh nuôi anh ăn học là một nhẽ. Đằng này bà ta là một kẻ tham lam, tước đoạt tài sản của em trai cho chồng, hành hạ anh tới mức anh phải ly hương biệt xứ. Hơn nữa, anh cũng không phải người độ lượng, đã tha thứ mọi sự hèn kém của người thân, anh găm giữ lòng hận thù với bà ta và người anh rể. Anh cũng ghét cả lũ con họ.Vậy anh gửi tiền cho bà ta làm gì? Không hơn không kém, cử chỉ ấy chỉ để làm nhục mụ đàn bà tham lam trước họ hàng, làng xóm. Cả nhà bà ta biết chữ, mà anh lại gửi tiền cho ông chú họ làm phó chủ tịch xã. Ông này có nhiệm vụ mang tấm phiếu bưu điện cho bà chị anh. Ông ấy biết, vợ con ông ấy biết, khắc họ hàng, hàng xóm biết. Mỗi người ném một câu phẩm bình người chị vô liêm sỉ, nghĩa là họ bốc thơm cho anh. Anh trở thành con người đạo đức, phẩm tiết cao sang.
Cứ mỗi một tập bạc chi ra, anh mua cho mình một đấu tiếng tốt. Còn bà chị anh, nhận một tập bạc, là bán thêm một đấu phẩm giá trước con mắt xóm làng...Ha..ha..ha..anh Tuấn ạ, tôi ít chữ hơn anh, nhưng những trò khỉ trong đời, tôi chẳng đến nỗi dốt... Nhưng mà, nói cho vui thôi. Ở đời, ai sống cách nào tùy ý. Tôi chơi gái, uống rượu, anh không thích những trò ấy thì anh tìm trò chơi khác...cũng vậy thôi. Tuấn hói gầm lên:
- Mày là thằng mặt dày. Đừng nghĩ rằng mọi người đều như vậy cả.
- Dày hay mỏng đều tốt như nhau.
Đính trả lời thản nhiên. Hiếm khi gã có thái độ bình tĩnh như vậy. Đám thủy thủ trong phòng không góp chuyện, có lẽ cả vì Tuấn hói lẫn Đính đều là những kẻ phải dè chừng.
Có tiếng ai đó rót nước òng ọc. Đính cất tiếng ho khan, rồi tiếp:
- Tôi biết trên tàu này chẳng ai ưa tôi. Ngày tôi học trong trường cũng vậy, ở gia đình, hai ông anh và bà chị dâu lớn ngày đêm khấn vái Trời Phật cho tôi bất đắc kỳ tử, dù là tàu chìm, dù bị xe chẹt trên đường phố hay ngộ gió trong quán rượu.
Đính cất tiếng cười khô khan, cợt nhạo ai đó..Lại tiếp:
- Tôi biết mười mươi như thế, nhưng tôi chẳng phiền lòng. Tàu cần tôi, trong trường tôi học giỏi, ở gia đình mọi người phải gớm mặt tôi, dẫu tôi là đứa con út. Xưa kia, hồi bố tôi còn sống, cả nhà sợ ông như sợ cọp. Sáng tinh mơ ông gõ đũa: cách cách cách vào tấm liếp. Cả nhà nhao dậy, còn ông lại tiếp tục ngủ. Hai bà chị dâu vào bếp, người đun nước pha trà, người nấu cơm. Tôi chuẩn bị đồ nghề và nhóm lò. Ông anh cả bổ củi ngoài sân, ông anh hai ôm cỏ cho bò ăn và sửa sang lại xe kéo. Khi cơm chín, bày tươm tất ra mâm, phích nước sôi đã sẵn sàng, ấm chén đánh trắng bóng, hộp chè Thái chuẩn bị đầy đủ, bà chị dâu cả mới vào nhà khẽ khàng gọi bố tôi dậy. Bố tôi bước ra hiên, bà chị dâu thứ hai bưng thau nước nóng với khăn mặt tới cho cụ rửa mặt, rửa tay. Bố tôi rửa mặt xong, vào nhà. Ông đưa mắt liếc qua mâm cơm. Hôm nào thức nhắm đầy đủ ngon lành, chai rượu tăm đứng ngay ngắn ông ngồi lên phản. Khi ông đã ngồi lên phản, mọi người mới lần lượt ngồi sau, thứ tự từ trên xuống dưới: Ông anh cả, ông anh hai, bà chị dâu cả, bà chị dâu hai và sau cùng là tôi.
Tôi ngồi đầu nồi xới cơm, đối diện với bà chị dâu thứ hai. Tiện đây phải nói là bà chị dâu thứ hai của tôi là người thành phố, xinh đẹp dịu dàng. Tôi yêu chị ấy và đáng lẽ, đời tôi đã khác. Nhưng thôi, để tôi quay lại chuyện nhà. Hôm nào có cá rán, có lòng luộc hay thịt quay, bố tôi uống rượu một cách bình thản. Hôm nào mâm chỉ cố vài bìa đậu hay đĩa lạc rang, ông ấy quắc mắt lên: "Chúng mày cho ông ăn thế này hả?.."
Choang một tiếng, ông ấy ném cả mâm ra sân. Hai bà chị dâu rối rít van lạy, người chạy ra thu nhặt, người cuống cuồng sang hàng xóm vay dăm quả trứng gà về rán hoặc chạy ra đầu làng đón mua mớ cá. Làng tôi ở mép rừng, cách phố núi những bảy tám cây số. Năm ngày mới có một phiên chợ, chạy thức ăn là nỗi lo sợ nhọc nhằn đối với những người đàn bà. Tuy thế, không người đàn bà nào khổ sở như hai bà chị dâu tôi. Thường thường, chị em dâu rất ghen ghét nhau, so đo tị nạnh từng chi từng chút và luôn tìm cách khích bác gây hằn thù giữa các ông chồng. Nhưng hai người đàn bà trong gia đình tôi lại thương nhau lạ lùng. Có lẽ bản tính họ không đến nỗi nhỏ nhen. Có lẽ họ may mắn hợp tính hợp tình. Nhưng lý do chắc chắn nhất là họ phải hợp lực để chiều chuộng, cung phụng một ông bố chồng tai ác và cùng gánh vác những oan khổ do ông đem lại. Gia đình chúng tôi vào loại trung lưu trong làng. Anh cả tôi làm thợ rèn, tôi phụ rèn cho anh. Lò rèn mở ngay đầu làng. Ông anh hai tôi làm nghề xe bò kéo. Nhà nuôi một cặp bò đực khỏe. Bà chị dâu thứ hai người nhỏ nhắn, yếu ớt nên nội trợ là chính. Bà chị dâu cả vốn gốc dân quê nên có nhiệm vụ cắt cỏ cho cặp bò kéo và coi sóc đám vườn đám ruộng. Ruộng chỉ có dăm sào nhưng vườn tới ngót nghét hai mẫu. Chúng tôi trồng mít, trồng bưởi, quất hồng bì và cả chè giống Thái Nguyên. Hai người đàn bà quản lý toàn bộ mọi khoản thu nhập, bàn định chi tiêu. Ông anh cả tôi đã có một đứa con trai. Ông anh thứ hai chưa có con nên thằng bé được cả gia đình quý như vàng. Nó cũng là một đứa bé ngoan mặc dù được chiều chuộng. Ba tuổi, nó đã cầm chổi quét nhà quét sân. Bốn tuổi, nó theo mẹ tưới vườn, lượm quả quất hồng bì hoặc bưởi chín vào thúng...
Tóm lại, mỗi người mỗi việc, riêng bố tôi không làm gì. Buổi sáng, sau khi cơm rượu, ông ngồi khoanh tay uống chè, đùi rung tít, mắt nhìn ra vườn như ngẫm nghĩ điều gì đó. Chè xong, ông đủng đỉnh chắp tay sau lưng vào làng chơi. Trưa, mặt trời đứng bóng ông mới trở về, mâm cơm dọn sẵn trên phản, con cháu chờ ông ngồi mới được phép ngồi theo, dù có đói sủi bong bóng dạ dày cũng phải đợi. Cơm xong, ông lên phản ngủ trưa. Anh em chúng tôi ra lò rèn hồi lâu ông mới dậy, vớ cuốn Tam quốc diễn nghĩa tập ba đã rách cả đầu lẫn đuôi ra xem. Một lát bà chị dâu thứ hai mang phích nước sôi lẫn bộ ấm chén rửa sạch lên:
"Con mời bố uống chè" "Được, để đấy cho tao". Ông đáp rồi hất hàm ra hiệu cho cô con dâu xuống bếp. Ông pha tuần chè thứ hai trong ngày, uống hết tuần chè, ông lại gác cuốn "Tam quốc diễn nghĩa" lên bàn thờ, chắp tay sau lưng vào làng chơi. Đủng đỉnh tới lặn mặt trời, ông mới trở về. Lúc ấy, cô con dâu có nhiệm vụ phải dọn sẵn bữa cơm tối cho cả nhà. Ông anh cả cùng tôi đã đóng cửa lò rèn, lo tắm rửa dọn dẹp. Ông anh hai dong bò dong xe về, lo nhốt bò xếp sắp hàng hóa hoặc than củi vào bếp. Mọi việc tươm tất chúng tôi còn phải chờ ông bố. Nếu ông hài lòng, bữa cơm được phép bắt đầu. Nếu ông tự dưng nổi đóa lên vì món nhộng rang hay đĩa rau muống thì mâm cơm lại bay ra sân và hai người đàn bà lại cuống cuồng chạy trước ánh mắt cau có của các ông chồng.
Cuộc sống cứ diễn ra, ngày này qua ngày khác. Chúng tôi, coi nó là sự bình thường, là hiển nhiên, và ắt hẳn ở mọi nơi người ta đều chấp thuận nó như mùa hạ chấp thuận nắng cháy, mùa đông chấp thuận mưa dầm. Không vui sướng cũng chẳng khổ đau. Cả làng khen ba anh em tôi, là những đứa con hiếu thảo. Khen nhà chúng tôi là nhà gia thế. Hễ đứa trẻ nào dám mở miệng cãi lại cha mẹ, y như là họ rít lên: "Hãy mở mắt nhìn con ông Khánh kia kìa...Con người ta thế mới là con... Chúng mày là đồ con tội, con nợ..." Chúng tôi trở thành tấm gương đức hạnh cho trẻ con mọi nhà. Hồi đó từ ông anh cả, ông anh hai đến tôi đều tự hào lắm...Một sáng, như thường lệ bố tôi thức dậy khi hai cô con dâu đã chuẩn bị xong cơm rượu và sắp sẵn đồ pha trà. Ông ra hiên rửa mặt rồi trở vào nhà. Chị dâu thứ hai của tôi đứng cạnh mâm cơm, vẻ mặt băn khoăn khổ sở: "Thưa bố, chiều qua con sang đầm mua cá mà không mua được. Hợp tác xã đem ủng hộ bộ đội cao xạ pháo. Bố xơi tạm một bữa chay..." Ông bố đưa mắt liếc xuống mâm: Một quả trứng gà luộc trơ trọi trong đĩa với mấy hạt muối, dành cho ông. Một thau lớn đựng rau muống sào tỏi cho cả nhà. Tôi tưởng ông đã thuận lòng ngồi xuống. Ai dè, ông gằn giọng cười nhạt: "Tao đã chết đâu mà mày cúng trứng luộc thế kia?" Chị dâu tôi mặt tái mét đáp lời: "Thưa bố nhà không còn con gà nào đẻ. Chị Nhiên, bà Hạo, ông Sơn cũng thế. Con phải chạy lên xóm Đông vay mới được một quả". Bố tôi mặt vẫn tím bầm, đưa mắt liếc qua ba gian nhà gỗ thênh thang với tòa nhà ngang năm gian nhỏ bên ngoài "Tao chưa chết, chúng mày chưa được hưởng cái gia sản này nên phải cúng trứng trước, đúng không?.."
Nói đoạn ông cầm đĩa trứng ném thẳng ra sân. Chiếc đĩa vở tan, quả trứng lăn vào gốc cây lựu. Lúc ấy, tôi thấy những giọt nước mắt trào qua khóe mi người chị dâu, tràn xuống má. Chồng chị đứng ngoài sân, im lặng như thường lệ. Ông anh cả tôi thay quần áo trong buồng cũng im lặng theo thói quen của đứa con hiếu đễ. Chị dâu tôi không dám khóc to, nghiến chặt răng cho khỏi bật thành tiếng. Sợi gân xanh trên cổ phập phồng. Lúc ấy, chị có thai. Đứng ngay ở ngưỡng cửa, tôi hết nhìn người này tới người kia, chợt thấy sự im lặng của những người anh tôi quá vô lý. Tôi bật kêu: "Bố lạ thật, chị ấy có muốn thế đâu?.." Bố tôi quay phắt lại, trợn mắt nhìn tôi. cả hai ông anh tôi cũng vậy. Chị dâu tôi cũng ngước gương mặt đầm đìa lên... Trong gia đình này, chưa bao giờ có chuyện đó. Bố tôi im bặt một hồi vì sửng sốt, lật bật hỏi: "Mày dám cãi lại tao?" Lúc ấy, tôi như con trâu say máu chọi, không còn biết sợ hãi. Tôi đáp: "Tại vì bố mắng oan chị ấy...Còn hai ngày nữa mới đến chợ phiên, ai mà tìm được thịt cá bây giờ?.." Bố tôi đứng lặng đi một hồi, rồi ông ý thức được sự thật. Ông biến sắc, mặt tái như nhuộm chàm. Vớ cây đòn gánh dựng ở góc nhà, ông lao đến tôi với sức mạnh điên cuồng của một con mãnh hổ bị trúng tên: "Mày...mày dám cãi ông...ông giết.." Chiếc đòn gánh vụt trượt, sướt qua vai tôi. Nhưng chỉ thế, cũng khiến tôi đau tê dại. Và nỗi đau như lửa đốt hờn oán trong tim, tôi hét lên: "Bố ác lắm...bố là kẻ độc ác.." Tiếng hét của tôi khiến những người láng giềng chạy bổ ra sân, ra bờ rào xem. Đối với họ, chắc hẳn đây là việc trời long đất lở. Nhìn ánh mắt hoảng sợ của hai ông anh tôi, tôi đọc được ý nghĩ ấy. Tôi đã chạy vụt qua sân, trước khi bố tôi giáng cho tôi ngọn đòn gánh thứ hai. Ngày hôm đó tôi lang thang quanh làng, lòng không dạ đói. Khoảng quá tối, tức là độ tám rưỡi, chín giờ, chị dâu tôi đi tìm tôi. Vai đeo bị, chị cứ dò dẫm quanh lũy tre, cất tiếng gọi khe khẽ: "Chú Đính ơi, chú Đính..." Tiếng chị thì thầm như tiếng gọi hồn ma. Bóng dáng chị cũng ẻo lả vật vờ như thế. Tôi ngồi trong bụi, nghe chị gọi, nước mắt trào ướt má. Tôi chạy ra. Chị dâu tôi giật mình khẽ rú lên. Thấy rõ mặt tôi, chị nức nở: "Tội thân em..." Chị ôm lấy tôi, mặt chị đẫm nước mắt áp vào mặt tôi cũng đẫm nước mắt. Chúng tôi khóc hồi lâu, rồi chị lấy chiếc bị đeo trên vai xuống, bảo tôi ăn: "Cơm đây, lạc rang muối đấy chú ăn cho hết. Ngày mai ăn chiếc bánh chưng này, chị vừa mua ở xóm Đông. Tối mai, chú lại đợi chị ở gốc tre này nhé..." Đưa tay, chị vuốt nhẹ tóc tôi, xoa lên bên vai bị đòn rồi hạ giọng thầm thì: "Em vào miếu làng mà ngủ, ma quỷ chỉ trêu kẻ dữ, không ám hại trẻ con. Đừng ngủ bụi bờ, nhiễm sương cảm hàn thì khốn...Chị về đây" Chị áp má vào má tôi lần nữa. Rồi đeo bị lên vai quay về...Đêm ấy, tôi vào miếu ngủ.
Nhưng hôm sau tôi không đợi người chị dâu như đã hẹn mà vượt bảy cây số tới làng Hẻm, gặp dì. Bà dì tôi năm ấy ngoại năm mươi, sống gần chùa, mở quán bán hàng nước. Dì tôi góa chồng năm ba mươi mốt, ở vậy nuôi con. Nhưng con dì vừa tròn hai mươi đi tắm bị cảm đột ngột chết. Dì lập điện thờ tại nhà tụng kinh gõ mõ đã năm năm. Hồi mẹ tôi còn sống, dì hay đến thăm. Nhưng từ ngày mẹ tôi qua đời, dì không tới nữa. Người làng kể là mẹ tôi và dì rất thương nhau vì chỉ có hai chị em. Ông bà ngoại tôi không có con trai. Khi tôi tới nhà dì, dì đang đun nồi nước chè xanh. Quán làng mở đã lâu, bán vợi cả bánh chưng lẫn chuối chín. Thấy tôi, dì hốt hoảng: "Sao cháu thất thểu như ăn mày thế kia?.." Tôi đáp: "Dì ơi, cháu đói lắm, cho cháu ăn cái đã" Dì lấy nước nóng cho tôi rửa mặt, nấu bánh đa cho tôi ăn. Rồi, ngồi nghe tôi kể chuyện. Tôi hỏi "Dì bảo cháu làm thế có tội hay không?" Dì không đáp. Tôi lại hỏi: "Tại sao bố cháu có quyền đối xử với mọi người như vậy?" Dì chép miệng, đáp: "Cháu hỏi lạ, vì bố cháu là bố" Tôi hỏi tiếp: "Cứ là bố thì có thể làm mọi chuyện bất kể hiền dữ, xấu tốt hay sao?" Dì bối rối, có lẽ không tìm được câu trả lời. Dì quay sang chửi: "Tiên nhân nhà mày, toàn hỏi vớ hỏi vẩn. Vào chõng mà ngủ đi..." Đêm hôm đó và những ngày sau tôi ở nhà dì.
Một buổi trưa, tôi bổ năm gánh củi cho dì, xong tắm rồi đi ngủ. Giấc ngủ say. Tôi thức dậy lúc nắng đã xiên ngang cột nhà. Dì tôi đang trò chuyện với một ông lão ngoài quán. Ông lão khoảng bảy mươi tuổi, tóc trắng da mồi nhưng còn khỏe. Ông lão bảo: "Thằng cháu như vậy là hỗn. Bà phải bắt nó về xin lỗi ông Khánh. Bà chứa nó ở đây, ông ấy biết được là lôi thôi..." Biết họ nói chuyện mình nên tôi nhắm mắt vờ ngủ. Dì tôi đáp: "Về bây giờ ông ấy đánh nó chết. Không chết thì cũng thành quân tàn tật. Hồi trước, chị tôi chịu đòn bao nhiêu bận. Có lần ông Khánh đánh bà ấy sẩy thai, chỉ vì bà ấy đứng mặc cả với anh thợ nhuộm mà anh thợ nhuộm ấy lại rất đẹp trai, da trắng mắt sáng mày đen, cứ như người trong tranh vẽ...Cái máu ghen lạ ghen lùng..."
Dì tôi lại chép miệng. Rồi bà rót chè xanh trong ấm tích ủ rơm mời khách. Ông lão kia uống xong bát nước chè, cất giọng nói tiếp: "Hồi nhỏ tôi cũng học thầy khóa Tương cùng với ông Khánh. Ông ấy dốt nhất bọn nhưng lại có tính khoe mẽ" Dì tôi đáp: "Vâng, tôi có nghe chị tôi kể cái chuyện ông Khánh giảng chữ nho.." Dì cất tiếng cười khe khẽ. Ông khách cũng cười khà khà. Rồi ông nói "Đời lạ thật. Ngẫm xem ông Khánh chả được cái nết gì, vậy mà cả cung Thê lẫn cung Tử đều khá. Hồi trước, suốt ngày ngồi chơi cờ, đánh mạt chược, ruộng vườn hàng xay hàng xáo một mình vợ lo. Vốn liếng có ba sào đất mà bà ấy dựng cơ nghiệp, nhà ngang nhà dọc mấy tòa, lại vườn trên vườn dưới. Giờ, bà vợ chết thì lại có hai đứa con phụng dưỡng. Anh nào cũng lớn ngộc, vợ con đàng hoàng mà sợ bố như trẻ con sợ ông Ba Bị, bố quát một tiếng là run như giẽ, không dám ho he... Thằng cháu Đính cũng có tiếng ngoan xưa nay, giờ mới bỗng dưng sinh giở chứng...Có lẽ lại trong đám mộ tổ tiên dòng họ ấy, có mộ ông cụ, ông kị nào bị rễ cây đâm ngang chăng?..Bà nên khuyên ông ấy tìm thầy địa lý.." Câu chuyện chuyển sang hướng khác ông khách lạ và dì tôi thì nhau kể lại những tai ương họ đã từng chứng kiến, sự hưng thịnh và suy vong của các dòng họ trong vùng chỉ do đặt mộ đúng hướng hay sai hướng. Các đám tang gặp trùng chỉ trong vòng vài tuần trăng gần hết dòng họ bị đột tử, chuyện ma cà rồng nhập vào con mèo đen ăn xác chết.
Tôi quay mặt vào tường, lắng nghe hai người trò chuyện. Tới nhạt mặt trời ông khách lạ mới ra về. Dì tôi dọn hàng đóng cửa quán. Rồi bà gọi tôi dậy nấu cơm. Cơm nước xong, tôi chờ dì tụng kinh gõ mõ và thắp hương lên bàn thờ đứa con trai chết trẻ. Đoạn, tôi nói: "Dì ơi, con muốn thưa với dì câu chuyện" Chừng như thấy thái dộ của tôi trịnh trọng khác hẳn mọi ngày nên dì kéo cơi trầu, têm trầu nhai rồi mới vẫy tôi tới gần: "Chuyện gì, con cứ nói cho hết lẽ". Tôi hỏi: "Hồi chú còn sống, chú có đánh dì không?" Dì tôi cười: "Chú mày hiền như cục đất khô ấy mà..." "Thế chú làm việc gì trong nhà?" - "Mày hỏi lạ, việc nông trang cày cấy, gặt hái. Khi rỗi rảnh thì làm vườn, đốn củi. Lúc nào ngơi tay" - "Dì yêu chú không?" - "Cha tiên nhân mày, chỉ hỏi vớ vẩn, vợ chồng là nghĩa tào khang, xuống khe bắt ốc lên ngàn hái dâu" - "Nếu chú ấy là một người đàn ông khác, suốt ngày đánh đập vợ con, suốt ngày chắp tay sau lưng rong chơi như ông tướng dì có yêu thương nữa không?"..Tới đó dì hừm một tiếng rất vô nghĩa, rồi ngước mắt nhìn tôi dò xét. Tôi im lặng chờ đợi. Dì nhai trầu hồi lâu, rồi nói: "Dì cũng chẳng biết, nằm ổ rơm thì ấm, lội chân xuống ruộng chiêm tháng chạp mới buốt thịt da...dì chưa nghĩ tới cảnh vợ chồng ấy bao giờ...Nhưng giá như chú ấy là người tệ bạc, chắc mọi sự cũng khó khăn." Tôi nắm lấy câu trả lời của dì như nắm lấy chuôi con dao, tôi hỏi tiếp: "Thế tại sao trong họ ngoài làng lại khen ngợi mẹ cháu hồi trước, khen ngợi anh em cháu bây giờ, chỉ vì mẹ con cháu đã phục tùng một người đàn ông vô công rồi nghề như bố cháu?.." Ngay tức khắc, dì bật tiếng quát: "Hỗn, không được hỗn..." Nhưng sau đó khoảnh khắc dì cúi nhìn cái cơi trầu, giọng trầm xuống: "Thực ra, hồi mẹ mày còn sống, đã có lần cắt tóc bỏ lên chùa tu. Nhưng bố mày kéo về. Ông ấy chửi cả sư cụ lẫn sư thầy, không cho ai chứa chấp bà ấy. Rồi họ hàng làng nước xúm vào khuyên, người đàn bà dở dang chẳng đẹp đẽ gì... Mẹ mày cúi đầu, cắp nón theo chồng trở lại. Từ đấy cam chịu tất cả. Không dám liếc mắt nhìn ra..." Tôi không hỏi dì thêm nữa. Đêm ấy tôi vạch sẵn một kế hoạch hành động. Tôi lên rừng đốt than, đẵn gỗ.
Hơn một tháng trời, tôi dành dụm được một món tiền còm. Tôi xin dì tôi một ít. Rồi tôi chờ tới ngày giỗ ông. Nói để các anh biết rằng trong một năm, ngày lễ tốn kém ngang với Tết Nguyên Đán là ngày giỗ ông nội tôi. Ngày đó, ít ra cũng mười lăm, mười bảy mâm cỗ đầy vật mặt. Bánh trái, xôi chè, trà thuốc, không thiếu thứ gì. Anh em tôi chỉ biết ngày đó là ngày trọng đại nhất trong năm. Thứ mới tới giỗ bà nội. Còn ông ngoại, bà ngoại của chúng tôi không được cúng. Bố tôi vẫn bảo: "Mẹ mày đã đi lấy chồng, dòng họ Lê giả về cho ông chú ông bác bên ấy. Phải lo lễ nghĩa dòng họ Đậu cho phải phép". Chúng tôi lớn lên, tuân theo lề luật ấy, như những thằng lính tuân theo quy chế của nhà binh. Tới ngày giỗ, tôi thức dậy sớm. Dì tôi đang ngồi thổi cơm dưới bếp, tôi nói với bà: "Con đi đây. Dì ở lại cho mạnh khỏe". Dì tôi ngơ ngác: "Ở đây với dì, đi đâu nữa?". Tôi nói: "Con về qua nhà, rồi mới đi". Dì tôi giẫy nảy: "Chết, bố mày đánh chết mất. Vừa rồi đi chợ phiên, dì gặp chị dâu mày, nó khóc lóc sụt sùi, bảo mấy lần trốn đi tìm cháu đều bị bố chồng và chồng chửi mắng". Tôi hỏi dì: "Chị ấy có khỏe không dì?" Dì tôi lắc dầu: "Bụng chửa vượt mặt rồi, mà da xanh như da nhái". Tôi đứng lên: "Con phải đi cho kịp dì ạ...Bao giờ con trở thành người, con sẽ về...Nếu không, kể như dì không có con nữa”. Dì tôi nắm vạt áo tôi khóc: "Em mày chết trẻ, dì còn ai nữa đâu?...ở đây cơm muối cơm mắm cũng có nhau. Bước chân đi, đường xa dặm mỏi..." Tôi mủi lòng, nhưng chí đã quyết, tôi gỡ tay dì ra: "Con không sống ở vùng quê được, xin dì cho con đi.." Dì tôi ém đám lửa, lên nhà lật nắp chiếc rương gỗ đếm cho tôi một nắm tiền. Những đồng tiền bà đã dành dụm từ năm trước. Tôi chào dì lần nữa, rồi đi cho kịp.
Từ nhà dì về nhà tôi bảy cây số, nhưng đường eo óc, lúc leo đồi, lúc lội qua ngòi nên hơn hai giờ sau tôi mới tới cổng làng. Tôi ngồi ở quán nước cho ráo mồ hôi, uống một bát nước vối ủ và ăn hai tấm bánh chưng. Bà hàng nước biết chuyện, bảo: "Hôm nay họ Đậu tới nhà chú ăn giỗ. Sớm tinh mơ đã nghe chày giã giò giã chả rồi. Chắc ngày có việc, ông Khánh sẽ tha tội cho chú thôi". Tôi đáp: "Tha hay không thì cũng thế." Đoạn tôi trả tiền bánh tiền nước rồi về nhà. Từ ngoài cổng đến trong sân người nườm nượp. Người thấy tôi, bật tiếng kêu như gặp ma. Người vỗ vai tôi, gật gù: "Thằng này giỏi, chọn đúng ngày về mà tạ tội". Tim tôi đập thình thình, nhưng tôi không đáp lời họ, tôi đi thẳng vào sân. Lúc ấy, người ta chỉ còn chờ phút so đũa, rót rượu. Mâm trên, mâm dưới đã sắp đặt sẵn sàng. Hai bà chị dâu tôi chắc ở trong bếp, còn năm sáu người đàn bà trong họ đang tất tưởi đi lại, đếm các đĩa các bát trên mâm cỗ, xem còn thiếu đĩa xôi hay bát miến, thiếu món măng hầm hay món gà luộc để bưng lên. Ở nhà quê, sắp có mâm nào thiếu là người ta để bụng thù mãi, vì nghĩ sự sơ ý đó là do sơ tình. Tôi đưa mắt tìm bố tôi, ông đã ăn mặc tươm tất, đứng giữa đám người cao tuổi, cao bậc nhất dòng họ. Muốn tới chỗ ông, phải qua năm mâm bầy ngoài sân, năm mâm bày dọc hàng hiên. Trong đám người bậc sang nhất họ ấy, ai đó đã thấy tôi. Ông giơ tay chỉ cho bố tôi biết. Bố tôi quay phắt lại, và chừng như rình rập một cơ hội đã lâu, để chứng tỏ quyền uy, ông trỏ vào mặt tôi, quát: "Thằng lộn đầu quay cổ kia ai cho phép mày bước chân vào đây? Gia thế nhà tao trong họ ngoài làng đã rõ, không dung thứ cho thứ con mất dậy như mày." Tôi đứng im. Một ông già lớn tiếng kêu: "Hôm nay ngày giỗ ông, cháu nó biết lỗi quay về, xin ông anh rộng lòng tha thứ, cổ nhân đã có câu: "Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại." Đoạn ông bảo tôi: "Đính, vào xin lỗi cha cháu đi" Bố tôi, tới đó cao giọng nói: "Nể tình anh em, chú bác trong họ, tao sẽ giơ cao roi cho mày bước vào. Nhưng mày phải cúi đầu xin lỗi các bậc cao niên trong họ. Mày phải vái ba vái trước bàn thờ, xin hứa với vong linh tiên tổ dòng họ Đậu từ rày trở đi cải hối, tu sửa cho thành người..." Tôi đứng trân trân nhìn ông, vừa uất nghẹn vừa hoang mang. Tại sao ông tự tin đến thế, đường bệ đến thế? Người đàn ông không tạo dựng được cư nghiệp. Gã thầy đồ dốt nát và hợm mình. Người chồng thô lậu, lười biếng. Người cha thiếu trách nhiệm, tàn bạo...giá trị gì đắp điếm thành một ông chủ đầy quyền uy?...Phải chăng, giá trị ấy là tấm hình lộn ngược cùa dám nô lệ mù lòa là ba anh em tôi bây giờ và mẹ tôi ngày xưa?...Tôi nhìn bàn thờ nghi ngút khói hương, bày từng từng lớp lớp những mâm bát, bình hoa giấy, những chai rượu màu, những đĩa ngũ quả... Bàn thờ dòng họ Đậu, đám giỗ ông nội tôi, tất cả những nghi lễ và tốn kém này được đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt của mẹ tôi và anh em tôi. Dưới mái nhà do người đàn bà họ Lê tạo dựng, trên bàn thờ do người đàn bà họ Lê mua sắm không bao giờ có một nén nhang thắp cho tổ tiên họ Lê. Ông bà ngoại tôi không có con trai, việc cúng giỗ dành cho người cậu con ông em thúc bá. Sau này, dì tôi đổi lệ, tự lo lễ thờ phụng bố mẹ mình. Có một cái gì đó thật độc ác, thật phi lý trong những Luật lệ lưu hành từ đời này qua đời khác mà chúng tôi đã cúi đầu tuân thủ như đàn bò ngoan ngoãn tuân thủ ngọn roi của gã mục đồng...Những ý nghĩ ấy dồn dập xô đến, làm quay đảo, Làm nhức nhối cái đầu nhỏ bé của tôi. Thấy tôi đứng im, bố tôi quát lần nữa: "Thằng kia, mở mồm ra, sao mày câm như hến thế hả?.." Sợi dây mỏng manh ở trong tôi bị dứt đứt. Cảm giác hoang mang tan biến, tôi chỉ thấy cơn uất nghẹn trào từng đợt như nước lũ giữa lồng ngực. Tôi nhìn thẳng vào bố lôi, đáp: "Làm gì mà bố hét to như thế?...Chẳng khác gì ông tướng giữa ba quân. Giá một người đàn ông khác mà phách lối như thế còn có lý. Nhưng bố thì chớ nên..."
Cả dám giỗ im phăng phắc. Cái việc một thằng bé mười lăm dám ăn nói như tôi quả là việc động trời. Bố tôi há miệng như miệng cá nấu riêu, không nói được một câu. Hai ông anh tôi - bấy giờ thấy họ, đang bưng khay chén vào gian nhà thờ. Cả hai cùng sững sờ như bị sét đánh. Không khí lặng lẽ đến nỗi nghe rõ tiếng vo ve của lũ ruồi. Tôi đưa mắt nhìn mọi người, và một nỗi thích thú không tả xiết kích thích tôi như rượu. Tôi vừa từ dám người ngu muội và nhẫn nhịn kia thoát ra, tôi sẽ nói vào mặt bọn họ những ý nghĩ đã nung nấu tôi suốt những ngày qua. Tôi sẽ quất vào tim họ những ngọn roi đau buốt như chính sự thật đã quất vào tim tôi đau buốt. Tôi sẽ chỉ ra sự lầm lạc, mê lú. Tôi sẽ phanh phui sự thực bị chôn vùi dưới bùn đất cùa tòng phục và ngu xuẩn. Họ, là quá khứ của chính tôi, giờ đang hiển hiện lên dưới những gương mặt đờ dẫn kinh hoàng, những cái miệng há hốc, những con mắt trợn trạo, những cái cổ đỏ ửng trên cổ áo sơ mi cáu ghét hoặc áo cánh nâu. Tôi nói từng tiếng, dõng dạc, lưu loát không ngờ: "Ngày trước, một tay mẹ con đã dựng nên cơ nghiệp này, từ ba sào ruộng hồi môn, từ gánh hàng xay hàng xáo. Ruộng nông, ruộng sâu, vườn trên, vườn dưới, nhà thờ nhà ngang đều là người đàn bà họ Lê tu tạo. Vậy, lẽ ra bàn thờ kia phải thờ phụng họ Lê. Lẽ ra, mẹ con mới là người được ngẩng mặt, cao đầu với xóm làng chứ không phải bố. Ngày trai trẻ, bố nuôi móng tay dài đi xoa mạt chược tối ngày, về già, bố chắp tay sau lưng rong ruổi khắp xóm trên thôn dưới bàn chuyện thế sự chán rồi chơi cờ, từ rạng đông tới lặn mặt trời. Mọi người có nhiệm vụ cung phụng cho bố. Bố có quyền yêu sách họ. Ai ai cũng coi đó như luật đời. Chưa một ai thử hỏi xem luật lệ đó từ đâu mà ra, có lý hay không có lý.."
Tôi dừng lại. Và tôi thấy đám người ngồi từ trong gian thờ, qua hàng hiên, xuống sân gần như hóa đá. Họ nhìn chằm chằm vào miệng tôi, và trên những gương mặt ngây thộn của họ, có cả sự tò mò thèm khát lẫn nỗi lo âu. Tôi nghĩ: "Nói nốt một câu rồi mình sẽ cút". Đấy sẽ là khoảnh khắc cuối cùng ở làng quê. Tôi tiếp: "Nếu bây giờ có người hỏi: "Đời ông, ông đã làm được việc gì?.." Bố sẽ trả lời họ ra sao?... Bố học chữ nho, ba năm trời không thuộc nổi một bài phú. Bố chưa trồng được một cây lúa xuống đồng. Mẹ đẻ anh cả, bố ngồi ngoài đình chuyện gẫu vì sợ về nhà có mùi đàn bà ô uế...Vậy mà bố nghiễm nhiên coi mình là ông chủ ở đây. Vì mọi người quá ngu dốt nên họ chấp thuận điều đó. Còn tường vách này, cột kèo kia mà có mắt có môi, nó sẽ lên tiếng rằng: Ông là kẻ vô giá trị, ông là kẻ ăn chạc, kẻ sống thừa". Mặt bố tôi tím như tụ huyết. Những người ngồi trong đám thầm đưa mắt nhìn nhau. Bầu không khí đã tích điện. Tôi nói tiếp: "Con về đây không phải để xin bố tha thứ. Con về đây để nói rõ cho bố tự hiểu bố là ai. Đã tự biết mình thì bố sẽ bớt hạch sách, bớt đàn áp mọi người, nhất là những người đàn bà làm dâu trong nhà này."
Nói xong, tôi không chào ai, chạy vụt ra cổng. Một lúc, mới nghe liếng hét: "Bắt nó lại...tao bắt nó lại sẽ cho nó ra tế sống trước cổng làng...bắt nó.." Tôi cắm cổ chạy như tên bắn, thu hết sức bình sinh để vượt khỏi cơn nguy hiểm. Tiếng chân đuổi thình thịch phía sau. Tối hôm đó, tôi bám theo một chiếc xe tải chờ gỗ của bộ đội về phố huyện. Ăn cơm quán, ngủ nhờ một bà hàng bán nước chè. Ngày thứ ba, một người đàn bà gầy gò, chửa vượt mặt tới tìm tôi. Trời nhá nhem, lát sau, tôi mới nhận được đó là người chị dâu tôi yêu quý. Chị khóc, và kể: "Chú đi rồi, bố trói tôi đánh một trận. Đổ tội là chú yêu tôi, xót tôi bị chửi nên mới đổ đốn ra như thế. Con trai bị bùa yêu nên mất hết phần hồn. Anh ấy cũng chửi hùn với bố, không dám bênh...Anh cả nhờ người tìm, bắt được chú sẽ trói đem về làng, nọc chú ra đánh trước cả họ...Thôi, có lẽ số chú phải ly hương, không còn cách nào gỡ..." Tôi đáp: "Ly hương thì ly hương. Thiết đếch gì cái xó ấy?...Chỉ.." Tôi định nói:" Chỉ thương chị ở nhà bị đầy dọa" nhưng tôi không dám mở miệng. Lúc ấy tôi vẫn là thằng bé nhà quê. Hai cổ tay, hai cánh tay, cả hai vai chị tôi chi chít lằn roi. Bụng chị căng ra giữa hai vạt áo mỏng. Món tóc xòa xuống cái cổ gày, trắng như bột gạo. Tôi cầm tay chị khẽ nói: "Thôi chị về đi không ông ấy lại nghi". Chị bảo: "Tôi phải nhờ người em họ đi cùng, nói là xuống huyện khám thai. Hôm bố đánh tôi bị ra huyết mãi". Tôi mới là niên thiếu, không hiểu chị nói điều gì. Nhưng lòng đau xé. Tôi biết không bao giờ chúng tôi còn gặp mặt nhau. Chị dâu tôi dúi vào túi tôi một gói tiền, rồi ôm mặt khóc: "Chú đi đi..." Tôi ôm chị, tự dưng cắn vào vai chị để khỏi bật lên tiếng nức nở. Rồi tôi bỏ chạy...Từ bấy đến nay tôi không trở về làng. Thỉnh thoảng gặp người quen, biết tin tức gia đình. Ông bố và hai anh tôi căm ghét tôi. Ông bố ghét tôi còn có lý...Nhưng hai người anh trai tại sao họ cũng thâm thù lôi đến thế?..Sau này, lăn lộn nhiều tôi mới hiểu, khi con người đã quen sống kiếp mù lòa, ai vạch ra sự ngu dốt tối tăm trong kiếp sống của họ sẽ bị họ coi là quỷ dữ, vì điều đó chứng tỏ cái hèn kém của bản thân họ, và đặt ra những lời thách đố nguy hiểm. Mà chắc chắn họ không đủ khả năng vượt qua...
Đính ngừng lời. Đám thủy thủ cũng im lặng. Chỉ còn tiếng động cơ nổ và tiếng gió thổi phần phật trên lá cờ hiệu cuối tàu.
Bá định châm điếu thuốc, chợt thấy Cường nhắm nghiền mắt, ngả đầu vào chiếc thùng gỗ sau lưng. Mặt chàng trai xanh mét như trúng gió. Bá vỗ vai Cường:
- Làm sao thế?
Chàng trai mở mắt nhìn anh:
- Không sao cả... có lẽ em bị lạnh..
Giọng nói của Cường hổn hển như hụt hơi. Anh đứng lên:
- Em phải về phòng.
Nói đoạn, Cường đi luôn. Bá rút điếu thuốc khác, vào phòng lớn. Còn Cường trở về buồng, nằm vật ra giường. Đầu óc choáng váng như vừa bị ai giáng cho một búa. Chàng trai nhìn trân trân lớp ván lót trần với đôi mắt bất động như mắt kẻ thong manh. Óc não anh vang lên giọng nói lạnh lùng và rành rẽ của Đính. Gã thủy thủ độc ác ấy, đã trở thành phù thủy phù phép tâm hồn anh. Câu chuyện của gã như một cú tầm sét đánh tróc cái thân cây trường thụ trong trái tim hiền lành, nhu nhược:
- Người ta nói rằng chân lý thường được đặt trên lưỡi của những thằng hề và của loài quỷ dữ?...Đúng thế chăng?.. Một sự thực khủng khiếp? Liệu con người có thể chạy trốn được những tai họa như thế? Và quên lãng có giúp họ xóa đi những sự thực độc địa trong cõi đời?..
❆❆❆
Trọng nằm dài trên giường, hút thuốc. Bích đang nấu cơm, cô mới khóc nên hai mí mắt sưng húp, gương mặt càng phũ và xấu. Từ buổi đi chơi Thác Đen về, Trọng thường sang văn phòng huyện ủy trò chuyện với cô đánh máy xinh đẹp. Tên cô là Kim Lan. Có tối, cô rủ anh đi xem ca nhạc. Hai người điềm nhiên sóng đôi bước vào câu lạc bộ của huyện đoàn. Ngay sáng hôm sau, dư luận đã lan truyền khắp phố như làn sóng: Hai người ấy đã bắt bồ với nhau...Thêm nữa, đám các cô gái thì thào: "Con Lan đá đít hai thằng bồ trẻ đi theo ông Trọng. Ông ấy sắm cho nó bộ bò hoa mới tinh đấy, cả chiếc bờ-lu-dông bằng si giấy hồng khuy đồng nữa.." - "Bà Thanh Hường phen này đến mất chồng thôi, sao bà ấy không dọn quách về đây mà ở. Báu giá gì thành phố?... Bà ấy mà đọ gươm với con Lan thì thua đứt đuôi..." vân vân và vân vân...Lan nghe mọi lời đàm tiếu, cười sằng sặc. Với cô, thứ đó chỉ là trò mua vui. Trọng cũng lắng nghe mọi tiếng xì xào, với vẻ điềm nhiên lạnh lẽo. Cơ quan anh không ai dám chọc ghẹo, khích bác. Bà trưởng cửa hàng thỉnh thoảng liếc mắt nhìn trộm. Còn anh, anh im lặng theo dõi họ. Anh đoán chừng, nhiều lắm cũng chỉ vài ba tuần Bích sẽ biết chuyện.
Quả nhiên, mười lăm hôm, sau ngày anh đi xem ca nhạc với Kim Lan, Bích phóng xe máy từ thành phố về nhà lúc đang trưa, cả mặt lẫn hai mắt đỏ ngầu. Lúc ấy, Trọng đang nghỉ, anh nằm trên ghế tựa chiếc áo khoác trùm ngang ngực. Người đàn bà xấn xổ bước tới, lột chiếc áo khoác ném xuống sàn:
- Anh lừa dối tôi...anh lừa..
Cô gào lên, bằng cái giọng khàn như mèo đực gào cái đêm đêm, anh chưa từng nghe thấy bao giờ. Ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Trọng, cô chiếu đôi mắt rực lửa thù vào mắt anh:
- Tôi đã biết mọi chuyện...Đừng hòng che dấu...
Trọng ngồi thẳng lên, nhặt chiếc áo cô vừa ném xuống sàn. Anh không thấy bực, anh chỉ thấy buồn cười và ý muốn trêu cợt nảy sinh. Anh hỏi Bích giọng bình thản:
- Em bình tĩnh. Có chuyện gì thế nhỉ?...
Người đàn bà rít lên:
- Đừng vờ...
Trọng bảo:
- Cứ thong thả nói chuyện xem sao?
Bích đáp:
- Không thong thả được... Anh làm tôi điên lên rồi đây.
Trọng mỉm cười:
- Nếu em điên lên được thì đó là điều đáng mừng... Anh chỉ sợ rằng em vờ điên.
- Tại sao?
- Để màn kịch thêm hấp dẫn.
- Màn kịch nào?
- Màn kịch đang diễn giữa em và anh.
- Anh đừng nói nhảm.
- Đàn bà là thế. Cái gì nghiêm chỉnh họ cho là trò nhảm. Còn những thứ nhảm nhí nhất họ lại coi là chuyện nghiêm chỉnh.
- Anh có cái giọng bất mãn như thế từ bao giờ?.. Xưa nay, anh chẳng nói giọng điệu ấy.
- Anh mới có gần đây thôi. Từ ngày anh biết rõ về em.
- Em sống với anh. Có gì mà anh không biết?...
Trọng ngừng lời, anh nhìn đôi mắt cô, chúng không còn mơ màng như buổi đầu anh gặp. Chúng bắn ra những tia sáng hung dữ, và đục ngầu như dòng sông mùa mưa. Cô đưa lưỡi liếm môi, cặp môi dầy và mọng bóng như được xoa mỡ. Những nốt trứng cá điểm lấm tấm trên hai má, vòng tóc xoăn buông cạnh trái tai...Phút chốc, gương mặt người đàn bà trở nên nhức nhối. Anh thấy khô họng, anh rót cốc nước uống rồi mới lên tiếng:
- Trước kia, anh đã tưởng mọi chuyện êm đềm. Chúng ta sống bên nhau, chờ đợi một điều kiện để hợp pháp hóa gia đình, vượt qua cái trở lực cuối cùng đạt tới hạnh phúc. Tất cả giản đơn, tất cả không có gì để ngờ vực...Rồi, đột nhiên, anh được biết mình là một gã đàn ông khốn khổ, một thương phế binh của chiến tranh, mắc chứng bệnh tâm thần. Anh yêu em với một tình yêu đơn phương và bệnh hoạn, nếu không được em chấp thuận anh sẽ phải treo cổ hoặc nhảy xuống sông chọn tìm một cái chết nhục nhã để giải thoát sự sống quẫn bách: một tên nhân tình hèn mạt, một gã đàn ông không xứng đáng được mặc quần...tóm lại cái chân dung tồi tệ ấy đã làm anh sực tỉnh...Anh tự trách mình hiểu mình quá muộn. Anh tự trách mình vì em phải chịu quá nhiều hy sinh để cứu vớt sinh mạng anh...
Trọng dừng lại. Một ý tưởng chợt đến: "Thế là vở kịch đã hạ màn. Quá ngắn ngủi. Mình là một thằng đàn ông kém bản lĩnh. Mình không biết cách mặc tấm áo giấy cho hết đêm...Hỏng...thế là mọi sự hỏng bét... Cứu làm sao bây giờ?.." Anh thầm mắng anh dữ dội.
Trong khoảng thời gian đó, mặt người đàn bà dần dần ngả sang màu xám. Những suy đoán, những toan tính chạy qua cặp mắt hẹp, còn mọng lên vì nước mắt. Khi Trọng lặng im cô bỗng khóc nức lên:
- Trời đất, sao anh lại tin vào những lời lẽ ấy...Chẳng qua vì Nghĩa là một người yếu đuối lại ưa sĩ diện, em không muốn anh ấy phá hỏng mọi chuyện của chúng mình nên mới nói vậy...Đã sống với nhau, đầu ấp má kề mà anh còn chấp nê? Lời nói chỉ là lời nói, người ta sống với nhau bằng tình thực chứ có bằng nước bọt đâu.
Trọng nhìn Bích, nước mắt cô tuôn như mưa, chảy trên chóp mũi đỏ huẩy. Chóp mũi cô rất to, người ta bảo ai có chóp mũi ấy sẽ giàu. Bích giàu thật, dạo này cô sắm vàng luôn luôn. Vài tuần lại thấy đeo một chiếc nhẫn mới. Người đàn bà này đủ khôn ngoan để nhặt nhạnh cho mình cả thế gian...Lý lẽ của cô cũng hợp lý đấy chứ?...thật dễ lọt tai...
Được rồi, tấm màn đã lại kéo lên, và vở diễn sẽ tiếp tục...
Bích đặt bàn tay lên bàn tay Trọng:
- Anh nghe em không?...Lời nói gió bay...từ xưa người ta đã dạy.
Trọng cười:
- Thôi, em hãy rửa mặt rồi đi nghỉ. Sắp tới giờ làm...
Anh chải đầu, thay áo đi làm buổi chiều. Cô ngủ vùi.
Khi anh tan tầm trở về nhà, cô mới tung chăn ngồi dậy. Hai mí mắt vẫn sưng húp. Trọng bỏ áo ngoài nằm hút thuốc trong khi Bích làm cơm. Người đàn bà đang rán một con gà trên chảo. Mỡ sôi sèo sèo. Vừa trông chảo gà Bích vừa cuốn nem. Mỗi lần họ va chạm mất mát về phương diện tình cảm, Bích lại chăm sóc anh hơn về mặt bếp núc. Người đàn ông thở làn khói lên, ngắm chúng tan lãng đãng trong không gian và khẽ nhếch môi cười: "Một mối tình được gia cố bằng thực phẩm, tuyệt làm sao?..." Trong ký ức anh hiện rõ một vành trăng trong suốt... Đêm cuối hạ đầu thu, đơn vị anh đóng trong một cánh rừng miền Trung cách biển mười lăm cây số đường chim bay. Quân, chàng lính trẻ cùng tiểu đội mà Trọng vẫn coi như em trai thì thào gọi anh ngoài cửa hầm: "Anh Trọng đi với em" - "Đi đâu?" - "Đi với em, em sẽ nói cho anh rõ". Trọng vớ khẩu súng, nhoài khỏi hầm: "Độ năm giờ đồng hồ, được không anh?...Đơn vị đang tập huấn mà" - "Nhưng cũng phải xin phép. Đi liều, bỗng dưng có báo động hoặc trên xuống kiểm tra đột xuất thì toi" - "Không đâu, em đã hỏi dò anh Hùng, mười hôm nữa cũng chưa có lệnh di động" - "Nhưng cậu định đi đâu?..." - "Xuống biển - cái xã bữa trước mình nhận thực phẩm, anh nhớ không?.." Trọng sực nhớ cái làng ven biển, lô nhô những nóc nhà hầm trên cát trắng. Không có cây cối gì ngoài những đám cỏ mặt trời và gai trinh nữ. Và những nấm mộ người bị bom B52 chôn rải rác giữa những đám sỏi, những đám vỏ hầu vỏ hến.
Đơn vị anh nhận mắm tôm, ruốc cá và cá phèn khô ở cửa hàng xã, cũng là một căn nhà ngầm với những dẫy kho lợp tôn có ngụy trang ở phía sau. Những cô gái miền Trung mập mạp, da đỏ au dù ăn uống thiếu thốn, trông coi cửa hàng. Họ đã vét hết thực phẩm dự trữ cho bộ đội.
Hôm ấy, Trọng hỏi đùa: "Bộ đội lấy hết, dân ăn cơm với muối à?" Các cô cười, trỏ tay ra làn nước xanh nhấp nhô ngoài khơi: Thức ăn ở ngoài nớ". Các cô đãi anh món khoai khô hầm đậu đen. Anh đã ăn ngon lành hơn các thứ cao lương mĩ vị của vua chúa được tả trong các tiểu thuyết dã sử. Anh tặng cô trưởng cửa hàng một chiếc lược làm bằng mảnh đuya-ra. Cô tặng lại anh hai cây kim và một cuộn chỉ. Rồi cô nói: "Lần sau về, có dù pháo sáng cho em một mảnh nhé". Trọng đáp: "Vâng, nếu không chết thì thể nào tôi cũng kiếm được cho cô một mảnh dù". Với các cô gái thời ấy, tấm khăn dù quàng cổ là thứ quà ao ước...Trọng nhìn đôi mắt hau háu của Quân, hỏi: "Xuống tìm ai?" - Tụi em thương nhau...Anh có nhớ Phức không?" - "Phức nào, có trời mà nhớ được". - "Cái cô thâm thấp quàng tấm khăn dù trắng ấy...đội viên đội văn nghệ xã" - "A, vậy thì cậu giỏi...Có lẽ cả tỉnh này chỉ có cô ta là xinh nhất". Trọng nói, anh nai nịt gọn gàng rồi cùng Quân đi.
Họ ra cửa rừng lúc trăng vừa nhú. Phải men theo đường mòn tới binh trạm. Từ binh trạm, vượt qua con suối cạn tới trục đường chính. Cứ bám theo đường chính mà đi cho tới ngã ba Sao Kim, một thung lũng có hai đại đội nữ thanh niên xung phong trấn ngự. Qua ngã ba Sao Kim, còn sáu cây số nữa mới tới biển. Đồng hồ đeo tay của Trọng chỉ chín giờ ba mươi bảy phút họ mới đến nơi. Những mái hầm lô nhô dưới trăng. Biển cách họ chừng ba mươi buớc chân, trắng bạc. Bên trái, những vạt dương còn sót lại sau các trận na-pan rì rào. Bên phải, vài chiếc thuyền hỏng nằm nghiêng nghiêng theo cồn cát. Trọng hỏi: "Cô ta ở đâu". Quân đáp: "Tụi em đã hẹn nhau, cô ấy ra bây giờ" - "Thế các cậu đã gặp nhau nhiều lần rồi à?" - "Vâng khá nhiều" - "Cậu lẻn đi, không cho ai biết?" "Vâng...Nhưng hôm nay em thấy không yên tâm. Em muốn anh cùng đi với em". - "Liều thật" - "Vâng. Nhưng biết làm sao hả anh...Chúng em yêu nhau...Và cô ấy.." Chàng lính chấm dứt câu nói bằng tiếng thở dài. Từ phía rừng dương, có một chấm đen xuất hiện. Chấm đen đó tiến về phía họ đứng, mỗi lúc mỗi lớn dần. Trọng bảo: "Cô Phức, đến phải không" - "Vâng, cô ấy đã đến" - "Tôi ra chỗ đám thuyền hỏng kia chờ cậu nhé?" - "Vâng, anh chịu khó chờ em" - "Lúc nào về?" - "Tùy anh, anh gọi thì em về..." Trọng đi tới đám thuyền hỏng, vừa đi vừa hình dung lại gương mặt cân đối, linh động của cô gái xứ biển. Một gương mặt ngời sáng, thanh sạch với cặp mắt không vẩn bụi cát, trong như nước mưa. Chàng lính trẻ của anh mê say cô cũng là phải lẽ.
Anh ngồi xuống cát, dưới bóng con thuyền. Trên bãi biển, cặp tình nhân đã gặp nhau. Họ dắt nhau đi tới gần mép sóng, xa nơi anh ngồi. Ở đó, có những đụn cát nhỏ mọc đầy rau muống biển. Bóng hai người hòa nhập lại dưới ánh trăng. Dưới chân họ, xa một chút, những con sóng ồn ào không ngưng nghỉ. Biển tan với trời đêm, rộng khôn cùng, yên tĩnh khôn cùng mặc dù cứ nửa giờ hoặc bốn mươi phút, những trái đạn pháo của giặc từ ngoài khơi câu vào, bay đỏ lừ qua khung trời, và tiếng nổ từ một góc nào đó trên mặt đất vọng đến. Chắc chắn rằng ở nơi ấy, sẽ có những con người lìa bỏ sự sống hoặc có những đàn gia súc bị thiêu hủy...Trọng bó gối, lơ đãng nghe tiếng pháo. Chiến tranh làm cho người ta quen với hiểm nguy. Anh nhìn mặt nước lay động dưới trăng, ao ước một cái gì đó không rõ hình hài, khao khát một cái gì đó mà anh không gọi tên ra được....Bốn giờ sau, đúng lúc hai giờ kém mười phút, anh vỗ tay ra hiệu gọi Quân. Chàng lính trẻ đứng lên. Cô gái đứng theo.
Trọng nhìn rõ họ ôm nhau vội vàng, hôn nhau thêm lần nữa, lần nữa...Rồi hai người thong thả đến với anh. Cô gái cười, mắt sáng rỡ, tràn trề hạnh phúc. Anh bắt tay cô, rồi cùng Quân ra về. Dọc đường, chàng lính trẻ im lặng, không luôn miệng trò chuyện như lúc đi. Có lẽ vì sự im lặng giúp cho anh ta giữ được lâu bền hơn những giây phút ngây ngất. Hai người đã đi được quá nửa quãng đường bình an. Nhưng qua ngã ba Sao Kim chừng ba cây số, họ gặp tụi OV10. Hai con chuồn chuồn độc vãi bom hú họa. Những trái bom hú họa ấy đã giết chết chàng lính trẻ, lúc anh nằm bên ta-luy đường đối diện với Trọng. Hai người chỉ cách nhau chiều dài tám mét, vừa đúng bề mặt của con đường trục. Trọng không chờ máy bay bay xa, đã vượt qua lớp khói bom chạy sang tìm Quân. Chàng trai còn ấm và mềm như con thỏ trong tay anh. Gương mặt bình thản tươi tắn phơi dưới ánh trăng. Làn môi cong lên như chưa dứt khỏi nụ cười. Dường như gương mặt đó nói với anh: "Tôi đã yêu. Tôi đã hạnh phúc..." Một niềm kiêu hãnh không gì thay thế được.
Những vòng khói thuốc cuộn lên, lơ lửng giữa căn phòng trước khi tan hết. Vàng trăng đêm ấy hiển hiện trong đám khói. Trong suốt, ngời như thỏi bạc. Những tia sáng chúng tỏa ra reo như chuông. Và sóng biển đẫm ánh trăng, xáo động không ngừng Trọng thở hơi khói cuối cùng, ném mẩu thuốc vào gạt tàn. Giờ đây, anh đã hiểu nỗi ước ao mơ hồ, niềm khát khao vô hình trên bãi biển đêm hôm ấy. Nỗi ao ước tình yêu, niềm khao khát tình yêu, thứ tình yêu mời gọi và mãi mãi ám ảnh con người độc chiếm mọi tâm hồn và trái tim giàu nhân tính, chế ngự con người với một quyền lực mãnh liệt và ban phát cho con người những niềm vui không một niềm vui trần thế nào thay thế được...Không, anh không đáng bị tước bỏ niềm ao ước ấy. Anh không có lỗi khi chọn cho mình nỗi khát khao một giá trị tinh thần...
Người đàn bà bước vào phòng, cười với nụ cười thuần phục:
- Anh ra ăn cơm đi. Xong cả rồi.
Anh chống tay nặng nề ngồi lên. Nụ cười của cô giống miếng bánh nặn băng đất sét. Mâm cơm bày ngồn ngộn trước mặt anh, các món ăn nóng sốt, bốc mùi thơm nức mũi như những món ăn nơi tửu quán. Bích cúi xuống so đũa, chiếc cằm đầy thịt của cô in thành hai ngấn. Làn da được bổ dưỡng bóng loáng như xoa dầu. Cô rót rượu cho anh:
- Nào, anh uống đi.
Trọng đáp:
- Ta cùng uống.
Họ chạm cốc như thường lệ. Người đàn ông dốc tuột chất nước cay vào họng, thầm nghĩ: "Trời đây những kẻ phải sống chung dưới một mái nhà khi trái tim họ đã trở thành độc dược đối với nhau. May sao, mình đã không chọn nghề làm điệp viên. Nghề ấy, đôi khi người ta phải kết hôn với cả kẻ thù..."
- Anh xem xem, gà ướp húng lìu theo kiểu quay gà của người Hoa. Em vừa học mụ Tán...
- Ừ rất ngon..
Anh đáp, nhìn cô xé miếng thịt ngon lành. Khi ăn, cô mải mê, để toàn tâm toàn ý vào việc ăn, như đứa bé phàm ăn hoặc loài mãnh thú. Một giọt mỡ rớt xuống cầm Bích. Trọng chìa cho cô chiếc khăn:
- Lau đi.
Họ ăn xong, hãy còn nguyên nửa con gà quay chưa chặt. Trọng chợt nẩy ra một ý nghĩ. Anh bảo Bích:
- Gói dùm anh miếng thịt gà.
Cô ngẩng lên:
- Làm gì cơ?
T