Chương 1
Thời gian đó tôi đang phung phí cho hết số tài sản tôi được thừa kế ở Vênêduêla. Một số người đã chuyển thái độ sang ca tụng tuổi trẻ tươi đẹp và những lọn tóc quăn màu đen của tôi, trong khi những người khác thì quất lên đầu tôi đủ mọi lời phỉ báng.
Tôi đọc lại lần cuối cùng bài viết của Léon Rabatête viết về tôi trong số ra đặc biệt của báo Ici la France[5]>.
“…Đến bao giờ chúng ta mới hết phải chứng kiến những trò bậy bạ của Raphael Schlemilovitch? Bao giờ thằng cha Do Thái kia mới hết làm những trò điên loạn mà không bị trừng phạt, từ bờ biển Touquet đến mũi Antibes, từ La baule đến Aixles Bains[6]>? Tôi xin hỏi lần cuối cùng: đến bao giờ bọn kiều dân cùng nòi giống với y mới hết lăng mạ các công dân nước Pháp? Đến bao giờ chúng ta mới thôi phải thường xuyên cọ rửa hai bàn tay dính chất xui xẻo Do Thái? …”
Cũng trong tờ báo ấy, bác sĩ Bardamu[7]> quất vào tôi như sau:
“…Schlemilivitch ư?...Đó là bãi nhơ bẩn thối hoăng của những xóm Do Thái!... thứ làm đến loài chó cũng phải ngất xỉu!...Quân đầu buồi!...Tên du đãng đất Libăng Gana!... Alê…Hấp!.. Các vị hãy xem thử tên Do Thái ấy!... đứa chuyên điên cuồng vò xé những cô gái mang dòng máu Aryen[8]>… thằng oắt con mặt mũi đen xì!.. tên nòi Abixi mới tí tuổi ranh đã định làm ông lớn!.. Hãy cứu chúng tôi!.. Hỡi các đạo quân Saint Denis!...Phèng-phèng-phèng!... Đâm lòi ruột hắn ra… thiến hắn đi!.. Hãy giải thoát cho người bác sĩ này khỏi phải nhìn cảnh tượng ấy… Vì Chúa, hãy đóng đanh câu rút nó… Tên tiến hành những bữa tiệc bẩn thỉu… tên trác táng tại khắp các khách sạn quốc tế… những cuộc làm tình tập thể made in Haifa[9]>… Cannes!... Davos!... Capri và tutti quanti[10]>… những nhà chứa cực kỳ xấu xa!... Hãy giải thoát cho chúng tôi khỏi phải nhìn thấy thằng công tử đã bị cắt da quy đầu[11]> kia! Thằng cha vương giả hoang dâm đất Muscadi!... Những du thuyền kiểu Tiberiadel… Những cà vạt Sinai của hắn!... những cô gái mang dòng máu Aryen hiện phải làm nô lệ cho hắn hãy dứt buồi của hắn ra khỏi thân thể hắn đi!... bằng những hàm răng tuyệt đẹp của dân chúng ta… Những bàn tay mĩ miều của các cô hãy chọc mù mắt hắn đi!... Hãy tự giải thoát bản thân các cô!... Hãy can đảm lên, hỡi các nữ chiến sĩ!... Nếu các cô không vùng lên chống lại hắn, người bác sĩ này sẽ phải khóc đấy!... Phải uất hận mà chết đấy!... Một sự bất công ghê tởm!... Bọn Sanhedrin đang âm mưu!... Chúng đang định giết người bác sĩ này!... Tôi không nói sai đâu!... Hội nghị giáo sĩ Do Thái!... Nhà băng Rothschild!... Cahen d’Anvers!... Schlemilovitch!... Hãy cứu Bardamu này, hỡi các cô gái!... Hãy cứu tôi!...”
Ông bác sĩ không tha thứ cho bài nghiên cứu của tôi nhan đề “Bardamu bị vạch mặt” mà tôi gửi từ thành phố nghỉ mát Capri cho ông ta. Trong bài nghiên cứu đó, tôi bộc lộ niềm thán phục của một thanh niên Do Thái hồi mười bốn tuổi đã đọc một mạch cuốn “Cuộc ngao du của Bardamu” và cuốn “Những tuổi thơ của Louis Ferdinand[12]>”. Tôi không bỏ qua những bài thơ ngắn đả kích mang tính bài Do Thái của ông ta, việc mà những người chân chính theo đạo Cơ-đốc đều làm.
Tôi đã viết về vấn đề ấy như sau:
“Bác sĩ Bardamu dành phần lớn công trình của ông ta cho vấn đề Do Thái. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên: bác sĩ Bardamu là một người trong chúng ta, đó là nhà văn Do Thái vĩ đại nhất tự cổ chí kim. Chính vì vậy mà ông đã say sưa khi viết về những người anh em cùng chủng tộc với ông. Trong những tác phẩm của ông mang tính thuần tuý tiểu thuyết, bác sĩ Bardamu giống người anh em cùng chủng tộc của chúng ta Charlie Chaplin[13]> ở chỗ cả hai người đều thích thú với những chi tiết nhỏ nói lên sự thảm hại, thích thú với những hình tượng nhân vật bị hành hạ rất đáng thương… Câu nào của bác sĩ Bardamu còn “Do Thái” hơn cả câu văn rườm rà của Marcel Proust: “Một nét nhạc trìu mến, mủi lòng, hơi ăn may, hơi tầm thường một chút xíu…””
Cuối cùng tôi kết luận:
“Chỉ người Do Thái mới thực sự hiểu được một người thuộc cùng giống nòi. Chỉ người Do Thái mới có thể nói một cách hiểu biết về bác sĩ Bardamu”
Để trả lời, bác sĩ Bardamu gửi cho tôi một lá thư nhục mạ: theo ông, tôi đã chỉ đạo cuộc âm mưu mang tính quốc tế của người Do Thái, bằng những cuộc dâm loạn tập thể và bằng những triệu bạc. Tôi bèn lập tức gửi cho bác sĩ bài “Phân tích tâm lý Dreyfus[14]>” trong đó tôi khẳng định không chút mập mờ tội lỗi của viên Đại uý đó: điều này quả là hiếm thấy ở một người Do Thái. Tôi đã phát triển lập luận sau đây: Đại uý Alfred Dreyfus tha thiết yêu nước Pháp của Saint Louis, của nữ anh hùng Jeanne d’Arc, của những người Chouan khởi nghĩa, bằng chứng là ông đã chọn con đường binh nghiệp. Nhưng nước Pháp lại không muốn nhận tình yêu ấy[15]> của chàng trai Alfred Dreyfus. Thế là Dreyfus bèn phản bội, như đàn ông thường trả thù người đàn bà có đinh thúc ngựa mang hình bông hoa bách hợp[16]> khinh rẻ họ. Barrès, Zola và Déroulède[17]> đều không hiểu gì về mối tình đau khổ ấy.
Chắc kiểu lý giải như trên hẳn đã làm bác sĩ Bardamu nổi khùng, bởi sau đấy ông ta thôi không thèm nhìn mặt tôi nữa.
Những lời hò hét của Rabatête và của Bardamu bị những lời ca ngợi tôi của một số nhà báo ăn chơi đàng điếm lấn át. Đa số những người này dẫn ra Valery Larbaud và Scott Fitzgerald: người ta so sánh tôi với Barnabooth, người ta gọi tôi là “The Young Gatsby[18]>”. Những tấm ảnh in trên các tạp chí bao giờ cũng chụp tôi đầu hơi nghiêng, cặp mắt đăm đăm nhìn ra xa tắp, tận chân trời. Nỗi u sầu của tôi đã thành thứ luôn được nhắc đến trong các cột báo nói về tình cảm. Khi được các nhà báo phỏng vấn trước cửa các khách sạn Carlton, Normandie hay Miramar, tôi tuyên xưng không biết mệt mỏi nguồn gốc Do Thái của tôi. Không những thế, việc làm và cử chỉ của tôi trái ngược với những phẩm hạnh mà người Pháp coi trọng: sự kín đáo, tính tiết kiệm và lòng yêu lao động.
Do tổ tiên là người phương Đông[19]>, tôi có cặp mắt đen, thói thích phô trương thân thể loã lồ và thói huênh hoang, khoe mẽ, cũng như bệnh lười biếng đã thành cố tật. Tôi không phải gốc gác ở nước Pháp này. Tôi không có bà nội bà ngoại làm mứt hoa quả cho ăn, cũng không biết đến những bức ảnh chụp chung gia đình và những cuốn sách dạy lễ giáo. Tuy nhiên tôi không ngừng mơ tưởng đến tuổi thơ ở tỉnh nhỏ. Tuổi thơ của tôi luôn bên cạnh những cô gia sư người Anh, và tẻ nhạt trôi trên những bãi biển hư đốn: ở thị trấn nghỉ mát Deauville, cô gia sư Evelyn dắt tay tôi. Mẹ tôi bỏ mặc tôi tha thẩn với những cầu thủ bóng nước. Bà thường hôn tôi vào buổi tối, lúc tôi đã lên giường, nhưng đôi khi bà cũng không buồn bỏ công làm chuyện đó. Thế là tôi ngóng chờ mẹ đến, không nghe cô gia sư Evelyn nói và cũng không nghe những chuyện phiêu lưu của cậu bé David Copperfield cô kể. Sáng sáng, cô Evelyn dẫn tôi đến Câu lạc bộ đua ngựa Poney. Ở đấy tôi học cưỡi ngựa. Tôi sẽ thành cầu thủ nổi tiếng nhất thế giới của môn bóng nước để làm mẹ tôi hài lòng. Trẻ con Pháp thuộc lòng mọi đội bóng đá. Tôi thì lại chỉ nghĩ đến bóng nước. Tôi nhắc đi nhắc lại những từ thần bí: “Laversine”, “Cibao la Pampa”, “Silever Leys”, “Porfirion Rubirosa”[20]>. Ở câu lạc bộ Poney người ta chụp rất nhiều bức ảnh tôi cùng với Quận chúa Laila, vị hôn thê của tôi. Buổi chiều, cô gia sư Evelyn mua cho chúng tôi những chiếc dù bằng sôcôla ở hiệu “Nữ Hầu tước Sévigné” hình bầu dục và có một cái que cầm xinh xắn.
Có lần tôi trốn cô gia sư Evelyn trên đường cô dẫn tôi ra bãi biển, nhưng cô biết cách tìm lại được tôi; hoặc tôi đến với Cựu hoàng Firouz, hoặc với Bá tước Truffaldine, hai nhân vật danh giá và đều là bạn tôi. Cựu hoàng Firouz cho tôi ăn kem nước đá pha rượu ngâm quả hồ trăn tử rồi kêu lên: “Cậu bé Raphael ơi, cậu tham ăn hệt ta!”
Bá tước Truffaldine bao giờ cũng ngồi một mình buồn bã ở Quán Soleil. Tôi thường đến bàn ông và đứng trước mặt ông. Ông già quý tộc ấy bèn kể tôi nghe những câu chuyện bất tận, trong đó các nhân vật chính đều là các cô gái quý phái: Cléo de Mérode, Otéro, Emilienne d’Alencon, Linana de Pougy, Odette de Crécy. Tất nhiên đấy là những nàng tiên giống như trong truyện cổ Andersen.
Những vật khác chen chúc trong tuổi thơ của tôi là chiếc dù che nắng màu da cam dựng trên bãi biển, tiếng Tây Ban Nha cổ; dòng sông Hattemer, nhân vật David Copperfield, nữ Hầu tước Ségur, căn hộ của mẹ tôi trên phố cảng Conti và ba bức ảnh của Lipnitzki chụp tôi đứng bên cạnh cây Noel.
Đấy là những trường trung học Thụy Sĩ và những cuộc tán gái đầu tiên của tôi ở thành phố Lausanne. Dinh cơ Duizenberg mà bác tôi, người Vênêduêla tên là Vidal, tặng tôi nhân dịp tôi tròn tám tuổi hiện ra trong ánh sáng buổi tối màu lam. Tôi vào cổng ngoài, qua khu vườn chạy thoai thoải xuống dòng sông Léman rồi đỗ xe ô tô trước thềm một toà biệt thự thắp đèn sáng choang. Vài cô gái mặc áo liền váy màu nhạt đã đợi tôi trên bãi cỏ. Nhà văn Scott Fitzgerald đã miêu tả giỏi hơn tôi nhiều những cuộc “vui chơi” ấy, khi ánh hoàng hôn quá nồng nàn và những tiếng cười cũng như ánh đèn quá mạnh mẽ đến mức khó tiên đoán một thứ gì đúng đắn. Do đó tôi xin các bạn hãy đọc nhà văn này và các bạn sẽ hình dung được chính xác những cuộc vui chơi của tôi thời niên thiếu. Cùng lắm thì các bạn đọc cuốn “Fermina Marquez” của Larbaud vậy.
Tuy tôi chia sẻ những cuộc vui chơi đàng điếm với bạn bè tứ xứ của tôi ở thành phố Lausanne, nhưng tôi không hoàn toàn giống họ. Tôi hay đi Genève. Trong không khí lặng lẽ của khách sạn Bergues, tôi đọc những bài thơ đồng quê Hi Lạp và tự bắt mình phải dịch cho thật hay bản trường ca Enéide. Trong một chuyến đi ẩn như vậy, tôi làm quen được với một thanh niên quý tộc quê thành phố Tours tên là Jean Francois Des Essarts. Hai chúng tôi cùng tuổi và trình độ kiến thức của anh ta làm tôi kinh ngạc. Ngay buổi gặp nhau đầu tiên, anh ta đã khuyên tôi đọc liền một lúc Délie của Maurice Scève, những vở hài kịch của Corneille, các Hồi ký của Hồng y Giáo chủ Retz. Anh ta còn dạy tôi cả cách làm duyên và kiểu nói năng bóng bẩy của Pháp.
Tôi khám phá ra ở Essarts nhiều phẩm chất quý giá: tính tế nhị, hào hiệp, rất nhạy cảm và một kiểu giễu cợt sâu cay. Tôi còn nhớ Essarts đã ví tình bạn của chúng tôi với tình bạn giữa Robert de Saint-Loup với nhân vật kể chuyện trong Đi tìm thời gian đã mất[21]>. “Cậu cũng dòng dõi Do Thái như nhân vật kể chuyện kia, Essarts bảo tôi, còn mình thì là người có họ hàng với Noailles, gia đình Roschouart Mortemart và gia đình Rochefoucauld, cũng như với Robert de Saint-Loup. Cậu đừng sợ; từ một trăm năm tại đây, giới quý tộc Pháp đã thích người Do Thái. Mình sẽ đưa cậu đọc vài trang của Drumont, trong đó ông ta chê trách chúng ta một cách chua cay”
Tôi quyết định không quay về thành phố Lausanne nữa và đổi một cách không thương tiếc những bạn bè tứ xứ của tôi lấy chàng trai Essarts.
Tôi vét đáy các túi. Còn một trăm đô la. Essarts thì không có lấy một xu dính túi. Tuy nhiên tôi vẫn khuyên anh ta bỏ công việc bình luận viên thể thao trên tờ tuần báo Thụy Sĩ La Gaxette de Lausanne. Tôi vừa sực nhớ là trong một kỳ nghỉ cuối tuần theo kiểu Anh, vài bạn bè đã kéo tôi đến một trang viên ở gần Bournemouth để cho tôi xem một bộ sưu tập xe hơi. Tôi nhìn thấy họ tên tác giả bộ sưu tập, Huân tước Allahabad, bèn bán cho ông ta chiếc Duizenberg của tôi lấy mười bốn bảng Anh. Số tiền đó có thể giúp chúng tôi sang trọng trong một năm, không cần đến những bức điện chuyển tiền của ông bác tôi Vidal.
Chúng tôi thuê phòng ở khách sạn Bergus. Thời gian đầu của tình bạn đã để lại cho tôi một kỷ niệm tuyệt đẹp. Buổi sáng, chúng tôi lang thang trong những hiệu bán đồ cổ ở khu phố cổ của thành phố Genève. Essarts lôi kéo tôi vào thú chơi đồ đồng năm 1900. Chúng tôi mua vài chục cái đem về chất đầy phòng, đặc biệt có bức tượng thần Cần Lao màu xanh lục và hai con mang tuyệt đẹp. Một buổi chiều, Essarts báo tôi biết là anh ta đã kiếm được một bức tượng cầu thủ bóng đá bằng đồng đen.
- Chẳng bao lâu nữa, đám dân ăn chơi Paris sẽ bỏ ra ối tiền vàng để cướp lấy những thứ này. Mình báo trước cho cậu biết điều đó, Raphael thân mến! Nếu mình có quyền quyết định thì kiểu cách của Albert Lebrun sẽ được khôi phục lại giá trị.
Tôi hỏi anh ta tại sao lại rời khỏi nước Pháp, anh ta giải thích:
- Phục vụ trong quân đội không hợp với sức khoẻ kém cỏi của mình. Vì vậy mình đảo ngũ.
- Chúng ta sẽ sửa chữa điều đó, - tôi nói - Mình hứa với cậu tìm ở Genève một tay nhà nghề thành thạo chuyên làm giấy tờ giả: lúc nào cậu muốn cậu có thể trở về Pháp mà không phải lo lắng gì hết.
Người thợ in có mái tóc đen mà chúng tôi đến liên hệ đã làm cho chúng tôi một bản khai sinh và một thẻ thông hành Thụy Sĩ mang tên Jean Francois Lévy, sinh tại Genève ngày 30 tháng Bẩy năm 194…
- Bây giờ mình thành đồng bào với cậu rồi, Essarts nói, mình ngán làm goye[22]> rồi.
Tôi lập tức quyết định gửi một bản tuyên bố nặc danh cho các báo cánh tả Paris. Tôi soạn nội dung như sau:
Từ tháng Mười Một vừa rồi, tôi can tội đảo ngũ nhưng cơ quan quân sự Pháp đã thận trọng giữ im lặng về trường hợp của tôi. Tôi xin báo họ biết rằng hôm nay tôi tuyên bố công khai. Tôi là DO THÁI, và một quân đội đã khinh rẻ sự phục vụ của Đại uý Dreyfus sẽ không được tôi phục vụ. Người ta kết tội tôi là đã không làm tròn nghĩa vụ quân sự. Ngày xưa, cũng toà án ấy đã kết tội Alfred Dreyfus bởi ông ta, gốc DO THÁI, đã dám chọn con đường binh nghiệp. Trong khi chờ đợi người ta giải thích rõ ràng cho tôi mối mâu thuẫn trên, tôi từ chối phục vụ với tư cách binh nhì trong một quân đội, cho đến ngày hôm nay, chưa chịu chấp nhận một Thống chế Dreyfus. Tôi kêu gọi các chàng trai Pháp hãy làm theo tôi.
Tôi ký tên: JACOB X.
Cánh tả Pháp, lâu nay đang thoi thóp, vội vã khai thác trường hợp đụng đến đạo đức của Jacob X. đúng như tôi mong muốn. Đấy là vụ án Do Thái thứ ba của nước Pháp sau vụ Dreyfus và vụ Finaly. Essarts tham gia vào cuộc chơi và chúng tôi thảo chung một bài văn xuất chúng “Sám hối của Jacob X.” in trên một tuần báo Paris: Jacob X. đã được một gia đình Pháp tiếp nhận, gia đình này yêu cầu giữ kín tên tuổi của họ. Gia đình này gồm có một Đại tá theo phái Pétain, bà vợ ông, cựu nữ cấp dưỡng quân đội, và ba người con trai: người con cả đã chọn binh chủng không quân, người con thứ hai hải quân và người con út được nhận vào Học viện Hàn lâm Quân sự Saint Cyr.
Gia đình này sống tại Paray-le-Monial và Jacob X. đã sống tuổi thơ ấy của anh ta dưới bóng đại giáo đường. Trên tường phòng tiếp khách treo các bức chân dung của các Thống chế Pháp: Gallienni, Foch, Joffre[23]>, huân chương quân công của Đại tá X. và rất nhiều huân chương của chính quyền bù nhìn Vichy dưới thời quân Đức chiếm đóng. Do ảnh hưởng của những người thân, chàng cũng đang chuẩn bị thi vào Học viện Saint Cyr và sẽ thành Thống chế như Pétain.
Tại trường trung học, ông Giáo sư C., dạy môn lịch sử có giảng đến vụ án Dreyfus. Ông Giáo sư này, hồi trước chiến tranh đã đảm nhiệm một chức vụ quan trọng trong Lực lượng Cảnh sát Pháp. Ông không phải không biết rằng Đại tá X. đã tố cáo với chính quyền chiếm đóng Đức cha mẹ của Jacob X. và việc tiếp nhận cậu bé Do Thái này chính là nhằm khôi phục lại sự đúng đắn sau khi nước Pháp được giải phóng.
Do khinh bỉ chủ nghĩa Pétain theo kiểu Saint-Sulpice của gia đình X., Giáo sư rất sung sướng thấy đã gây được sự bất hoà trong gia đình này. Sau bài giảng, ông ra hiệu của Jacob X. đến gặp riêng và ông nói vào tai chàng:
“Thầy biết chắc là vụ án Dreyfus đã làm em rất phiền lòng. Một thanh niên Do Thái trẻ tuổi như em tất rất quan tâm đến nỗi bất công kia.”
Jacob X. hoảng sợ nhận thấy chàng lại có gốc Do Thái. Trước đây chàng vẫn tự đánh đồng mình với Thống chế Foch, Thống chế Pétain, vậy mà bây giờ bỗng nhiên chàng lại giống Đại uý Dreyfus! Nhưng Jacob X. không tiến hành báo thù bằng cách phản bội như Dreyfus đã làm. Chàng nhận hồ sơ quân đội và thấy không có con đường nào khác ngoài đảo ngũ.
Bài sám hối trên đã gây ra mối bất hoà trong những người Do Thái có quốc tịch Pháp. Những người theo chủ nghĩa xiônit khuyên Jacob X. di cư sang Israel. Ở bên đó chàng đủ tính hợp pháp để ôm mơ ước nhận cây gậy Thống chế. Những người Do Thái ô nhục và đã chịu đồng hoá thì vu cho Jacob X. là kẻ khiêu khích làm thuê cho bọn quốc xã mới. Cánh tả lại hăng hái bảo vệ chàng trai đảo ngũ.
Bài báo của J-P Sartre: “Saint Jacob X., diễn viên và người tử đạo”[24]> đã làm bùng lên cuộc công kích. Người ta nhớ mãi đoạn đúng đắn nhất:
“Từ nay anh ta muốn là Do Thái, nhưng Do Thái trong sự nhục nhã. Dưới những cặp mắt nghiêm khắc của các Thống chế Galliéni, Joffre, Foch, những vị có chân dùng treo trên tường phòng khách, anh ta sẽ bị coi là một kẻ đảo ngũ thảm hại, trong khi chính anh ta từ thuở thơ ấu cho đến nay, vẫn không ngừng ngưỡng mộ quân đội Pháp, chiếc mũ lưỡi trai của ông già Bugeaud và những tấm huân chương Quân công của Pétain. Tóm lại, anh ta sẽ cảm thấy một nỗi xấu hổ êm dịu được thấy mình là Kẻ Khác, tức là Cái Ác”.
Rất nhiều bản tuyên ngôn được chuyền tay, đòi sự quay lại đắc thắng của Jacob X. Một cuộc mít tinh được tổ chức tại Hội Tương tế. Sartre năn nỉ Jacob X. đừng giấu họ tên thật nữa mà ra công khai, nhưng thái độ im lặng một cách bướng bỉnh của kẻ đảo ngũ đã làm nhụt chí những người có thiện ý nhất.
Chúng tôi thường ăn tối ở khách sạn Bergues. Ban đêm, Essarts ngồi soạn một cuốn sách về điện ảnh Nga trước cách mạng. Còn tôi thì dịch các nhà thơ Hi Lạp tinh tế của xứ Alexandrie. Chúng tôi chọn quầy giải khát của khách sạn làm nơi tiến hành những việc vụn vặt ấy. Một ông trán hói, mắt đỏ như hai hòn than hồng thường đến ngồi bàn bên cạnh bàn chúng tôi. Một buổi chiều ông ta bắt chuyện và chăm chú nhìn chúng tôi. Đột nhiên ông lấy trong túi ra một tấm thông hành cũ kỹ đưa chúng tôi. Tôi sửng sốt khi đọc thấy họ tên của ông ta: chính là Maurice Sachs. Rượu làm ông ta thích nói. Ông kể chúng tôi nghe những chuyện gian truân của ông khởi đầu từ năm 1945, năm mà ông tung tin ông mất tích. Ông đã lần lượt làm nhân viên cho cơ quan mật vụ phát xít Gestapo, làm nhà buôn súc vật ở xứ Bavìere, người môi giới ở Anvers, chủ nhà chứa ở thành phố Barcelone, diễn viên hề trong một gánh xiếc ở thành phố Milan dưới biệt danh Lola Montès. Cuối cùng ông định cư ở thành phố Genève, làm chủ một hiệu sách nhỏ. Chúng tôi uống rượu cho đến ba giờ sáng để ăn mừng cuộc hội ngộ này. Từ hôm đó trở đi, hai chúng tôi không rời ông Maurice kia nửa bước và chúng tôi long trọng thề là sẽ giữ bí mật chuyện ông ta vẫn còn sống.
Ngày này sang ngày khác chúng tôi ngồi sau những chồng sách ở gian bên trong cửa hiệu sách, nghe ông Maurice thuật lại những chuyện xảy ra vào năm 1925. Giọng khàn đặc vì rượu, Maurice kể về các nhà văn nổi tiếng thời đó: Gide, Cocteau, Coco Chanel. Chàng trai của “Thập niên rồ dại[25]>” còn ở tuổi thiếu niên thì nay đã là một ông già to béo, hoa tay múa chân gợi lại kỷ niệm về những diễn viên Hispano Suize và tiết mục “Con bò trên mái nhà”. Ông tâm sự với chúng tôi:
- Từ 1945 tôi chỉ là sống thừa. Lẽ ra tôi phải chết vào đúng lúc như Drieu la Rochelle[26]>. Chỉ có điều tôi là gốc Do Thái, tôi có khả năng nhẫn nhục chịu đựng của loài chuột.
Tôi ghi vào sổ điều suy nghĩ đó và hôm sau tôi đem đến cho Maurice bài nghiên cứu của tôi “Drieu và Sacks: Những con đường tội lỗi dẫn đến đâu?” Trong bài đó tôi nêu lên rằng hai thanh niên của năm 1925 đó đã lạc đường vì tính nhu nhược của họ: Drieu, chàng trai cao lớn của Học viện Chính trị, một người tiểu tư sản Pháp, đã bị mê hoặc bởi những chiếc xe hơi hạ mui được, những cà vạt Anh, những cô gái Mĩ, và tự cho phép mình là một anh hùng của chiến tranh 14-18; Sachs, chàng trai Do Thái đẹp trai và ăn chơi trác táng, sản phẩm của những năm hậu chiến sống gấp. Vào khoảng 1940, tấn bi kịch đổ ập xuống châu Âu, hai cậu công tử ăn chơi kia sẽ phản ứng ra sao đây? Drieu nhớ lại ông ta sinh ra trong vùng Cotenin và bốn năm liền đã gào lên bản Horst Wessel Lied bằng cái giọng the thé. Còn với Sachs, thành phố Paris bị Đức chiếm đóng là cõi thiên đường để ông ta tha hồ lao đầu vào hoan lạc. Paris lúc đó cung cấp những cảm giác còn mãnh liệt hơn cả Paris năm 1925. Tại đây người ta có thể buôn vàng, thuê những căn hộ rồi lập tức bán lại cả toà nhà, chỉ cần đổi mười kilô bơ là lấy được một viên ngọc xaphia, rồi lại đổi viên xaphia thành sắt thép, vân vân. Đêm tối và sương mù hỗ trợ cho họ quỵt các món nợ. Nhưng thú nhất là được mua tính mạng của mình ngoài chợ đen, được nghe rõ từng tiếng đập của trái tim, được cảm thấy mình là con mồi trong một cuộc săn đuổi. Người ta đã hình dung sai con người của Sachs trong thời Kháng chiến chống Đức. Tưởng ông đấu tranh với những viên chức cấp thấp người Pháp để vãn hồi đạo đức, pháp luật và sự công khai. Vào khoảng 1944, khi Sachs cảm thấy đàn chó săn và những cái bẫy chuột đe dọa mình, ông ta liền xin gia nhập tổ chức S.T.O, rồi sau đó thành nhân viên tích cực của cơ quan mật vụ phát xít Gestapo. Tôi không muốn làm mích lòng Maurice: tôi để ông chết vào năm 1945 và không nói gì đến các kiểu “hoá thân” của ông ta từ năm 1945 đến nay. Tôi kết luận như sau: “Ai ngờ được rằng chàng trai hấp dẫn năm 1925 hai chục năm sau lại phó mặc bản thân cho những con chó xâu xé thân xác ông ta trên một bãi đất hoang ở xứ Poméranie?”
Sau khi đọc xong bài nghiên cứu của tôi, Maurice nói:
- Cậu viết khá lắm, Schlemilovitch! Cậu so sánh tôi với Drieu, nhưng rốt cuộc tôi lại thú hơn nếu cậu so sánh Drieu với Brasillach. Cậu thừa biết so với hai người đó, tôi chỉ là một thằng hề. Cậu hãy viết một bài gì nữa đi và sáng mai đưa tôi, tôi sẽ bình phẩm.
Maurice thích được khuyên bảo một người trẻ tuổi. Hẳn ông ta nhớ lại những cuộc viếng thăm đầu tiên của ông đến nhà Gide và Cocteau. Bài “Drieu và Brasillach” của tôi được ông rất thích. Trong bài đó tôi thử giải đáp câu hỏi: động lực nào đã đẩy Drieu và Brasillach đến chỗ cộng tác với chính quyền phát xít chiếm đóng?
Phần đầu của bài nghiên cứu lấy tên là: “Pierre Drieu La Rochelle hay cặp nhân tình muôn thuở giữa bọn S.S và ả Do Thái”. Một đề tài luôn được Drieu lặp lại trong các cuốn tiểu thuyết của ông ta: đề tài cô gái Do Thái. Gilles[27]> Drieu, con người Viking[28]> kiêu hãnh ấy, đã không ngần ngại làm chân dắt khách cho những ả gái điếm Do Thái, một ả Myriam nào đó chẳng hạn. Cũng có thể cắt nghĩa việc ông ta bị hút vào những ả Do Thái theo cách như sau: từ thời Walter Scott[29]>, ai cũng mang định kiến gái Do Thái là những ả chuyên làm tiền xinh đẹp, sẵn sàng chiều chuộng mọi yêu cầu oái ăm của các ông chủ và lãnh chúa thuộc nòi giống Aryen. Bên cạnh các ả Do Thái, Drieu có ảo tưởng ông ta là một Thánh chiến, một hiệp sĩ của nước Đức cổ xưa. Cho đến chỗ đó, bài phân tích của tôi vẫn chưa có ý gì độc đáo, các nhà bình luận về Drieu đã từng nhấn mạnh chủ đề cô gái Do Thái trong sáng tác của nhà văn này. Nhưng còn Drieu cộng tác với chính quyền phát xít chiếm đóng? Tôi cắt nghĩa được khá dễ dàng: Drieu có tính sùng bái chất cứng rắn đàn ông của người Cổ Hi Lạp. Tháng Sáu 1940, những người mang dòng máu Aryen thuần khiết, những chiến binh thực thụ[30]> ào ào đến Paris: Drieu vội vã trút bỏ bộ quân phục Viking ông ta đã thuê để mặc và để giày vò, hành hạ các cô gái Do Thái ở Passy. Ông ta lấy lại được bản chất thật của mình: trước cặp mắt xanh biếc lạnh như thép của những tên S.S ông ta mềm oặt, tan ra thành nước và đột nhiên cảm thấy mình từ bao giờ đã nhiễm thói uể oải chậm chạp của người phương Đông. Sau đó không lâu, ông ta ngất xỉu trên đôi cánh tay của kẻ chiến thắng. Sau khi bọn phát xít bại trận, ông ta tự huỷ hoại bản thân[31]>. Một thái độ thụ động như vậy, một niềm khao khát Nát Bàn như vậy ở một người sinh trưởng tại miền Normandie làm chúng ta ngạc nhiên. Drieu vốn có thiên hướng quan thị. Ông ta chính là kỹ nữ Do Thái, là Esther Gobseck của chính quyền chiếm đóng.
Phần thứ hai bài nghiên cứu của tôi lấy tên là “Robet Brasillach hay nàng tiểu thư thành phố Nuremberg ”. Một số trong chúng tôi đã ăn nằm với nước Đức, ông ta thú nhận, và chuyện đó đã để lại cho chúng tôi những ấn tượng êm đềm. Thái độ hồn nhiên của ông ta giống như của những cô gái thành Vienne trong thời gian nước Áo sáp nhập vào Đức. Lính Đức diễu hành trên quảng trường, và các cô gái kia đã mặc những bộ y phục hết sức khiêu dâm để ném hoa hồng cho chúng. Sau đấy các cô khoác tay các chàng thiên sứ tóc vàng dạo chơi trên đại lộ Prater. Tiếp đó là buổi tối thần tiên trong công viên Stadtpark, nơi mỗi cô ôm hôn một chàng trai S.S, khẽ hát những câu tình yêu của nhạc sĩ Schubert. Lạy Chúa, tuổi thanh xuân mới đẹp làm sao bên kia dòng sông Rhin!.. Làm sao người ta không mê đắm được chàng Quex theo chủ nghĩa Hitler? Đến thành phố Nuremberg, Brasillach không còn tin vào mắt mình nữa: những bắp thịt rám nắng như hổ phách, cặp mắt trong sáng, cặp môi run rẩy của những đoàn viên thanh niên Hitler và những dương vật của chúng mà người ta đoán là đang cương cứng lên trong ban đêm ấm áp, một đêm trong vắt như đêm mà người ta đã thấy toả xuống Tolède từ đỉnh cao của rặng núi Cigarrales…
Tôi biết Robert Brasillach từ khi ông ta còn học trường Cao đẳng Sư phạm. Bấy giờ ông ta gọi tôi là “chàng Moise[32]> đẹp trai của ta” hoặc “chàng Do Thái đẹp trai của ta”. Hai chúng tôi đã cùng với nhau khám phá ra thành phố Paris của văn hào Pierre Corneille và của René Clair. Đây đó có những quán rượu đáng mến, và chúng tôi la cà đến đó uống vài li vang trắng. Hồi đó Robet Brasillach từng láu lỉnh nói với tôi về thầy giáo dễ mến. André Bellessort và chúng tôi cùng nhau dựng lên những câu chuyện bịa đặt lý thú. Buổi chiều, chúng tôi trốn học, đóng cửa chơi bời với một vài sinh viên Do Thái lười biếng, hư hỏng và huênh hoang. Buổi tối, chúng tôi đi xem phim hoặc cùng bè bạn nếm món cá thu nấu với dầu ôliu ngon tuyệt. Và cho đến nửa đêm, chúng tôi ngồi uống nước cam chai ướp lạnh là thứ Robert rất mê bởi nó làm ông ta nhớ lại đất Tây Ban Nha. Tất cả những thứ đó là tuổi trẻ của chúng tôi, là buổi sáng của cuộc đời mà chúng tôi không bao giờ còn được hưởng lại nữa. Robert Brasillach bắt đầu thành công xuất sắc trong nghề làm báo. Tôi còn nhớ một bài ông ta viết về Julien Benda.
Chúng tôi thường dạo chơi trong công viên Montsouris, và chàng Meaulnes cao lớn của chúng tôi giọng rắn rỏi tố cáo chủ nghĩa trí tuệ của Benda, thói dâm dật Do Thái của ông này, cả tính già nua kiểu học giả Do Thái của ông nữa. “Cậu tha lỗi, đột nhiên Robert nói với tôi. Khéo vừa rồi mình đã làm cậu mếch lòng. Mình quên bẵng mất, cậu là người gốc Israel.” Tôi đỏ rừ mặt. “Không đâu, Robert, mình là một goye danh dự! Cậu không biết rằng một Jean Lévy, một Pierre Marius Zadoc, một Raoul Charles Leman, một Marc Boasson, một René Riquier, một Louis Latzarus, một Tené Gross tất cả đều gốc Do Thái giống như mình, và họ đều nhiệt tình tán thành Maurras hay sao? Riêng mình, Robert ạ, thì mình muốn vào làm cho báo Je suis partout[33]>. Cậu hãy giới thiệu mình với các bạn cậu, mình tha thiết nhờ cậu đấy! Mình sẽ đảm nhiệm mục bài Do Thái thay cho Lucien Rebatet! Cậu thử hình dung câu chuyện sẽ om sòm đến mức nào: “Schlemilovitch gọi Blum[34]> là đồ Do Thái”. Robert Brasillach rất khoái triển vọng đó.
Sau đấy không lâu tôi kết thân với P.A. Cousteau, “Bordelais tóc đen và đầy chất nam tính”, với hạ sĩ Ralph Saupault, Robert Andriveau, “con người phát xít cứng rắn đồng thời là giọng nam cao tình cảm trong các bữa tiệc của chúng ta”, chàng trai vui tính ở Toulouse Alain Laubreauz, cuối cùng là với tay săn bắn trên núi Alpes Lucien Rebatet (Đó là một người cầm bút giống như sẽ cầm súng sau này, đến lúc cần.) Tôi lập tức cung cấp cho chàng nông dân Thái tử này một số ý tưởng thích hợp để đưa vào mục chuyên đề Do Thái của anh ta. Sau đấy Rebatet luôn đến hỏi ý kiến tôi. Tôi luôn nghĩ rằng các goye đi guốc quá to nên không hiểu được người Do Thái. Ngay đến kiểu bài Do Thái của họ cũng quá vụng về. Chính nguyên nhân đó khiến báo Je suis partout rất biết ơn tôi.
Chúng tôi sử dụng nhà in của báo Action Francaise[35]>. Tôi ngồi lên đầu gối của Maurras và vuốt chòm rây của Pujo. Maxime Real del Sarte cũng không hề khó tính. Toàn những ông già tuyệt vời! Từ nhỏ tôi đã mơ ước có được những người ông như thế. Ông tôi chỉ là một ông già Do Thái thất học ở Odessa, thậm chí không biết nói tiếng Pháp.
Nếu tôi cho rằng Léon Daudet là người làm tôi dễ chịu thì tôi lại thấy Đại tá De La Roque làm tôi chán ngán. Horace de Carbuccia và Bérand đôi lần mời tôi đến nhà để nói về âm mưu liên minh Do Thái - Anh. Maurois thèm có được bè bạn phát xít như tôi. Tôi bèn mách cho anh ta một cách: bỏ hẳn thói e thẹn thanh cao của một người Do Thái tự ti. Lấy lại tên thật, và giống như tôi, Raphael Schlemilovitch, trở thành một người Do Thái bài Do Thái.
Tháng Sáu 1940. Tôi bỏ nhóm Je suis partout, trong lòng rất tiếc những cuộc gặp nhau trên quảng trường Denfert Rochereau. Tôi đã chán nghề làm báo và ôm tham vọng làm chính trị. Tôi quyết định làm một người Do Thái cộng tác với phát xít, trong khi Maurois và Daniel Halévy vẫn theo đà trượt, hài lòng với việc theo Pétain.
Thoạt tiên tôi dấn thân vào kiểu cộng tác thượng lưu: dự những buổi tiệc trà của Bộ Tuyên truyền[36]>, những bữa ăn tối của Jean Luchaire, những bữa ăn đêm trên phố Lauriston, và tạo tình bạn bè thân thiết một cách thận trọng với Brinon. Tôi tránh gặp Céline và Drieu La Rochelle, theo tôi họ quá Do Thái hoá. Tôi nhanh chóng trở thành người họ không thể thiếu: tôi là người Do Thái duy nhất, người “Do Thái tốt” của phái Cộng Tác[37]>. Luchaire giới thiệu tôi làm quen với Abetz. Chúng tôi thoả thuận gặp nhau tại khách sạn Majestic. Tôi đề ra cho ông ta những điều kiện của tôi: 1) Thay chân Darquier de Pellepoix ở Uỷ ban các vấn đề Do Thái, y là một người Pháp nhơ bẩn; 2) Được hoàn toàn tự do hành động. Mục tiêu của tôi: lập một tổ chức S.S Do Thái Vũ Trang và một Binh đoàn Tình nguyện Do Thái chống Cộng. Tôi cho rằng thật phi lý đi diệt 500.000 người Pháp gốc Do Thái trong khi chỉ cần tẩy não họ để họ có thái độ tốt hơn đối với nước Đức. Abetz có vẻ rất thích thú nhưng chưa trả lời ngay. Tuy nhiên tôi vẫn có quan hệ tối với ông ta và Stulpnagel. Họ khuyên tôi xin gặp Doriot hoặc Déat. Tôi không thú Doriot lắm, do trong quá khứ ông ta đã từng là đảng viên cộng sản và do kiểu dùng dây đeo quần của ông ta. Tôi đánh hơi thấy ở Déat chất của một giáo viên theo phát xã hội - cấp tiến.
Một người mới quen đã gây ấn tượng mạnh cho tôi do chiếc mũ nồi ông ta đội. Tôi muốn nói đến Jo Darnand là người Pháp tốt của tôi mang hình ảnh Epinal “với gương mặt chiến binh đang hỏi đường xuống đồng bằng”. Tôi trở thành cánh tay phải của ông ta và có quan hệ thân thiện vững chãi với giới cảnh sát: tôi cam đoan rằng những chàng trai mặc đồng phục màu xanh nước biển kia rất khá.
Hè 1944, sau nhiều cuộc hành binh tiến hành tại vùng Vercors, chúng tôi lui về náu ở Sigmarigen cùng với các vệ binh. Tháng Mười Hai, trong chiến dịch công kích Rundstedt, tôi bị một lính Mỹ hạ, tên anh ta là Lévy[38]> và anh ta giống tôi như hai anh em ruột.
Tôi tìm thấy trong hiệu sách của Maurice tất cả các số của báo la Gerbe, báo Pilori,báo Je suis partout cùng một số cuốn sách của phái Pétain nói về cách đảo tạo các “chỉ huy”. Ngoài các sách báo thân Đức, Maurice còn đầy đủ tác phẩm của những nhà văn đã bị quên lãng. Trong khi tôi đọc say sưa những tác giả Do Thái Montandon và Marques-Rivìere, thì Essart mê mải đọc những tiểu thuyết của Edouard Rod, của Marcel Prévost, của Estaunie, của Boylesve, của Abel Harmant. Anh ta còn soạn một tiểu luận nhan đề: “Văn học là gì?” đề tặng Jean- Paul Sartre.
Essarts có thiên tư về đồ cổ, anh ta đề xuất ý kiến khôi phục lại danh dự cho những nhà viết tiểu thuyết thập niên 1880 anh vừa phát hiện ra. Essarts còn bảo vệ cả văn phong thời Louis Philippe hoặc Napoléon Ш. Chương cuối cùng trong tiểu luận của anh ta lấy tên “Cách thức sử dụng một số tác giả” và nói với những thanh niên khao khát nâng cao trình độ văn hoá như sau: “Đọc Edouard Estaunité, anh ta viết, cần phải ngồi trong một ngôi nhà nông thôn vào khoảng năm giờ chiều, vừa đọc vừa nhấm nháp ly rượu Armagnac. Người đọc nên mặc một bộ âu phục may ở hiệu O’Rosen hoặc Creed, thắt cà vạt Club và túi pô- sét bằng xoa đen. Tác giả René Boylesve thì tôi khuyên các bạn nên đọc vào mùa hè, ở Cannes hay Monte Carlo, khoảng tám giờ tối, mặc một bộ âu phục bằng bải alvaga. Những tiểu thuyết của Abel Hermant khó tính hơn: cần phải được đọc trên một thuyền buồm Panama, hút thuốc lá bạc hà…”
Còn Maurice, ông ta đang biên tập cuốn thứ ba trong bộ Hồi ký của mình: Bóng ma, tiếp theo hai cuốn trước là Lễ hội Sabbat và Cuộc săn đuổi.
Về phần tôi, tôi quyết định sẽ trở thành nhà văn Pháp gốc Do Thái lớn nhất, sau Montaigne, Marcel Proust và Louis Ferdinand Céline.
Hồi ấy tôi đúng là một trai trẻ, hay giận hờn và say mê đủ thứ. Ngày nay nghĩ lại, tôi bật cười thấy hồi đó sao mình ngây thơ đến thế. Tôi tưởng như trách nhiệm về tương lai của nền văn học Do Thái đè lên đôi vai tôi. Tôi ngoái nhìn lại phía sau và vạch ra những con bài bịp: Đại uý Drieu, Maurois, Daniel Halévy. Tôi cho rằng Proust quá lệ thuộc vào kỷ niệm thời thơ ấu sống ở tỉnh nhỏ, Edmond Fleg quá làm duyên làm dáng, Benda thì quá trừu tượng: Tại sao ông phải làm ra vẻ như tinh thần ông tinh khiết lắm, Benda? Những thiên sứ của môn hình học chăng? Những bậc thoát xác vĩ đại? Những người Do Thái vô hình?
Spire có nhiều câu thơ thật đẹp:
Hỡi nồng ấm, hỡi u sầu, hỡi bạo lực, hỡi cuồng điên,
Những sức mạnh ta hiến thân vào đó.
Ta sẽ ra sao nếu thiếu các vị? Xin hãy đến che chở cho ta.
Chống lại lý trí khô cằn của trái đất hạnh phúc này.
Và còn:
Ngươi muốn ca tụng sức mạnh, can trường?
Ngươi chỉ yêu những ai mơ mộng, bất lực trước cuộc đời?
Ngươi kiếm tìm để nghe bài ca tươi vui của nông dân,
Bước chân thô bạo của binh lính, điệu múa duyên dáng của các thiếu nữ
Ngươi chỉ có đôi tai tinh tường khi nghe tiếng than khóc…
Nhìn sang phương Đông, người ta thấy những nhân cách mạnh mẽ hơn: Henri, Franz Kafka… Tôi yêu bài thơ của Heine nhan đề Dona Clara; tại Tây Ban Nha, con gái một pháp quan lại yêu chàng hiệp sĩ đẹp trai rất giống thánh Georges. “Chàng không có gì giống bọn Do Thái vô đạo”, nàng nói với chàng. Nghe thấy thế chàng hiệp sĩ đẹp trai bèn lộ ra lai lịch thật của mình:
Ich, Senora, eur Geliebter,
Bin der Sohn des vielbelobten
Grossen, shriftgelehrten Rabbi
Israel von Saragossa. [39]>
Người ta đã làm rùm beng xung quanh Franz Kafka, người anh cả của Charlie Chaplin. Một số kẻ hợm hĩnh nòi Aryen đã xỏ chân vào giầy đế sắt để giẫm đạp lên tác phẩm của ông: họ phong Kafka làm giáo sư triết học. Họ đem so sánh ông với Emmanuel Kant người Phổ, Soeren Kierkegaard, người Đan Mạch hứng cảm, với người phương Nam Albert Camus, với J. - P. Sartre, người viết đủ thể loại, nửa dân Alsace nửa dân Périgourdie. Tôi tự hỏi làm sao Kafka, con người quá yếu ớt, quá nhút nhát, chống lại được trò thô bạo kia?
Essarts, từ khi chuyển quốc tịch sang Do Thái, đã phụng sự lý tưởng của chúng tôi không chút ngần ngại. Còn Maurice thì lo lắng thấy tư tưởng phân biệt chủng tộc của tôi quá trầm trọng.
- Cậu cứ nhắc lại mãi chuyện cũ kỹ, ông nói với tôi. Chúng tôi đâu còn ở năm 1942, cậu ơi? Nếu thế, tôi tha thiết xin cậu noi gương tôi, gia nhập Gestapo, để thay đổi tư tưởng! Cậu nên biết, con người rất nhanh chóng thay đổi nguồn cội! Chỉ cần linh hoạt một chút thôi. Thậm chí tha hồ thay da đổi thịt nữa! Thay màu da! Loài kỳ nhông muôn năm! Cậu xem này, tôi biến thành người Trung Hoa ngay bây giờ! Người da đỏ Bắc Mĩ! Người Na Uy! Người Patagon! Chỉ cần làm một trò ảo thuật nhỏ là xong! Abracadabra! [40]>
Tôi không nghe ông ta. Tôi vừa quen được với Tania Arcisewska, một cô gái trẻ Ba Lan gốc Do Thái. Cô gái này tự huỷ diệt bản thân một cách chậm chạp, không co giật giãy giụa cũng không gào thét, mà như để cái chết tự nó đến.
Nàng dùng một bơm tiêm Pravaz để chọc vào cánh tay trái.
- Tania ảnh hưởng tai hại đến cậu đấy, ông Maurice nói với tôi. Tốt hơn, cậu hãy kiếm một cô gái Aryen xinh đẹp, con bé sẽ hát cho cậu nghe bài hát ru của địa phương.
Tania hát cho tôi nghe bài Cầu hồn những nạn nhân ở Auschwitz[41]>. Nửa đêm nàng đánh thức tôi dậy, trỏ tôi dòng chữ số tù nhân không thể phai mờ trên vai nàng:
- Anh hãy xem chúng đã làm gì em, Raphael. Anh nhìn đây này!
Nàng loạng choạng lê ra cạnh cửa sổ. Trên phố Bờ sông Rhône, những đoàn quân mặc áo đen bước rầm rập và tụ tập lại trước cửa khách sạn với một trận tự đáng phục.
- Anh hãy nhìn tất cả bọn S.S, Raphael! Có ba tên mặc áo capốt da, kia kìa, bên trái ấy, Gestapo đấy, Raphael! Chúng đang đi về phía cửa khách sạn! Chúng đang tìm chúng ta! Chúng sẽ dẫn chúng ta đến thánh đường!
Tôi vội trấn an nàng. Tôi có nhiều bạn bè ở cấp rất cao. Tôi không cần giao du với những thằng hề của Gestapo Paris. Tôi mày tao với Goering, Hess, Goebbels, và Heydrich[42]> rất thú tôi. Có tôi, nàng không phải lo gì hết. Bọn cảnh sát sẽ không dám động đến một sợi tóc của nàng. Còn nếu chúng vẫn ngoan cố, tôi sẽ chìa cho chúng xem các huân huy chương của tôi: Tôi là người Do Thái duy nhất được đích thân Hitler gắn tấm Huân chương Chữ thập Quân công.
Một buổi sáng, lợi dụng lúc tôi đi vắng, Tania cắt tĩnh mạch. Mặc dù tôi đã giấu hết lưỡi dao cạo của tôi. Bởi tôi cảm thấy một thứ chóng mặt rất lạ lúc tôi nhìn vào những vật nhỏ bé bằng kim loại ấy; tôi chỉ chực muốn nuốt chúng!
Hôm sau, một thanh tra cảnh sát từ Paris đến chỉ cốt để thẩm vấn tôi. Thanh tra La Clayette, nếu tôi nhớ không sai.
- Người phụ nữ có tên là Tania Arcisewska, y nói với tôi, là tội phạm đang bị cảnh sát Pháp săn lùng, Chuyên chở và tiêu thụ chất ma tuý. Với bọn ngoại quốc ấy, ta không thể tin được thứ gì đâu. Những tên Do Thái ấy. Những tên tội phạm Trung Âu đấy. Cuối cùng, nó đã chết, và thế càng hay.
Sự mẫn cán của thanh tra La Clayette và mối quan tâm đặc biệt của y đến cô bạn tình của tôi làm tôi ngạc nhiên: chắc hẳn y đã từng là nhân viên Gestapo.
Tôi vẫn giữ lại bộ sưu tầm con rối của Tania để làm kỷ niệm. Đó là các nhân vật của Commedia dell’arte[43]>: Karagheuz, Pinocchio, Guignol, người Do Thái lang thang, Người Mộng Du. Nàng đã bầy chúng xung quanh trước khi tự sát. Tôi tin rằng chúng là những bạn đồng hành duy nhất của nàng. Trong tất cả những con rối đó, tôi thích nhất con rối Người Mộng Du, với hai tay duỗi thẳng ra phía trước, mắt nhắm lại. Bị lạc lối trong cơn ác mộng đầy những dây thép gai và chòi canh, Tania rất giống con rối ấy.
Đến lượt Maurice cũng lại chuồn khỏi bọn tôi. Từ lâu ông ta đã mơ ước sang Phương Đông. Tôi hình dung ông hiện đang sống ẩn dật ở Macao hay Hồng Kông. Cũng có thể ông đang lặp lại thí nghiệm của ông ta về S.T.O trong một công xã nào tại Israel. Giả thiết này của tôi xem chừng có lý hơn cả.
Trong một tuần lễ, Essarts và tôi rất bối rối. Chúng tôi hoảng sợ nhìn về tương lai: chúng tôi chỉ còn sáu mươi frăng Thuỵ Sĩ. Nhưng ông nội của Essarts và ông bác Vidal ở Venêduêla của tôi cùng qua đời một ngày. Essarts thừa kế tước Công và danh hiệu Huân tước. Tôi thì tạm bằng lòng với cả một gia tài kếch xù bằng tiền bolivar[44]>. Di chúc của bác Vidal làm tôi ngạc nhiên: rõ ràng là chỉ cần năm năm chịu ngồi trên đầu gối của một ông già là đủ được ông cho hưởng thừa kế toàn bộ.
Chúng tôi quyết định trở lại Pháp. Tôi quả quyết với Essarts: cảnh sát Pháp đang truy tìm một Công tước kiêm Huân tước đảo ngũ, nhưng không phải tên là Jean Francois Lévy, công dân Genève. Vượt qua biên giới xong, chúng tôi làm nổ tung nhà băng của sòng bạc ở Aixles Bains. Tôi tổ chức cuộc họp báo đầu tiên ở khách sạn Splendid. Người ta hỏi tôi, sẽ dùng làm gì số bolivar kia: Lập một hậu cung nhiều mĩ nữ? Xây những toà lâu đài bằng cẩm thạch hồng? Bảo trợ văn chương và nghệ thuật? Làm những công việc từ thiện? Tôi có lãng mạn không, có bất cần mọi thứ không? Tôi có thế chân Rubirosa không? Hay Farouk? Hay Ali Khan[45]>.
Tôi sẽ đóng vai theo kiểu một thanh niên tỉ phú. Tất nhiên tôi đã đọc Larbaut và Scott Fizgerald, nhưng tôi sẽ không mô phỏng những đau khổ tinh thần của A.W. Olson Barnabooth cũng như chủ nghĩa lãng mạn trẻ con của nhân vật Gatsby. Tôi muốn mọi người yêu tôi vì tôi có tiền cho họ.
Tôi hoảng sợ nhận thấy rằng tôi mắc bệnh lao. Tôi cần phải giấu kín cái bệnh xuất hiện chẳng đúng lúc chút nào, cái bệnh giúp cho tôi một sự hồi lại danh tiếng trong tất cả các túp nhà tranh ở châu Âu. Các cô gái nòi Aryen sẽ bộc lộ thiên hướng của nữ thánh Blandine[46]> chịu hiến thân cho một chàng trai giàu có, tuyệt vọng, điển trai và mắc bệnh lao. Để những người có hảo tâm ấy bớt đi niềm hy vọng, tôi nhắc lại với các nhà báo rằng tôi là DO THÁI, do đấy tôi chỉ quan tâm đến tiền bạc và giàu sang. Người ta ca ngợi tôi rất đẹp trai: tôi bèn liên tục nhăn nhó mặt mày, tôi sẽ làm bộ mặt của tôi giống như con khỉ orang-outang và tôi tuyên bố tôi là khuân mẫu của người Do Thái mà người nòi Aryen đã nô nức đến xem, khoảng 1941, tại cuộc triển lãm loài vật ở cung Berlitz. Tôi đánh thức lại những kỷ niệm của Rabatête và Bardamu. Những bài thoá mạ của họ bổ sung cho những cố gắng của tôi. Không may cho tôi là ngày nay người ta không đọc hai tác giả ấy nữa. Các tạp chí sang trọng và báo chí tình cảm vẫn một mực ca ngợi tôi đủ điều: tôi là một người thừa kế trẻ tuổi, tính nết khác thường và vô cùng đáng yêu. Do Thái ư? Thì đã sao? Cũng như Chúa Jesus Chirst và bác học Albert Einstein thôi.
Thất vọng vì không thực hiện được ý định, tôi bèn tậu một chiếc du thuyền, Le sanhédrin, rồi tôi biến nó thành nhà chứa thượng hảo hạng. Tôi thả neo nó ở Monte Carlo, Cannes, La Baule, Deauville. Ba loa điện treo trên mỗi đỉnh cột buồm phát đi lời những bài viết của bác sĩ Bardamu và của Rabatête, những cuộc giao du thích nhất của tôi: đúng thế, tôi đang chỉ huy âm mưu của chủng tộc Do Thái toàn thế giới bằng những cuộc làm tình đông người và những triệu bạc. Đúng, cuộc chiến tranh 1939 đã bùng nổ là do lỗi của tôi. Đúng, tôi là một thứ Yêu-Râu-Xanh, một giống ăn thịt người chuyên xâu xé những cô gái Aryen sau khi hiếp dâm họ. Đúng, tôi mơ ước làm cho toàn bộ nông dân nước Pháp lụn bại và biến vùng Cantal thành đất của người Do Thái.
Chẳng bao lâu tôi đâm chán tất cả những trò ấy. Tôi bèn cùng với cậu bạn Essarts trung thành rút lui đến khách sạn Trianon ở Versailles để đọc ở đó tác phẩm của nhà xã hội không tưởng Saint Simon. Mẹ tôi lo lắng thấy nét mặt rầu rĩ của con trai. Tôi bèn hứa sẽ viết một vở bi hài kịch, trong đó bà đóng vai chính. Sau đấy bệnh lao sẽ đem tôi đi một cách nhẹ nhõm. Hoặc khi đó tôi có thể tự sát. Sau khi cân nhắc kỹ càng, tôi quyết định không kết thúc bằng cái đẹp. Họ sẽ so sánh tôi với con Đại bàng hoặc chàng Werther thất tình của thi hào Goethe.
Tối hôm đó Essarts muốn kéo tôi đến dự một dạ hội hoá trang.
- Trước hết cậu đừng cải trang thành nhân vật Shyloch hay anh chàng Do Thái Suss như mọi khi. Mình đã thuê cho cậu một bộ triều phục lộng lẫy thời vua Henri III và thuê cho mình một bộ sĩ quan kị binh Thổ Nhĩ Kỳ.
Tôi khước từ lời mời của anh ta, viện cớ tôi đang phải viết cho xong vở kịch. Essarts chia tay tôi ra khỏi cổng khách sạn, tôi cảm thấy một nỗi hối hận mơ hồ. Lát sau anh bạn tôi chết trên xa lộ Tây. Một tai nạn không sao lý giải nổi. Anh mặc bộ sĩ quan kị binh Thổ Nhĩ Kỳ. Khuôn mặt anh ta vẫn nguyên vẹn.
Ít lâu sau tôi hoàn thành kịch bản. Bi hài kịch. Gồm những lời chửi rủa bọn goye. Tôi tin rằng vở kịch sẽ làm công chúng Paris phẫn nộ. Người ta sẽ không tha thứ cho tôi cái tội đưa những trò điên rồ và chủ nghĩa chủng tộc của tôi lên sân khấu một cách đầy gây sự như vậy. Tôi đặt hy vọng rất nhiều vào đoạn hò hét kết thúc vở: trong một phòng quét vôi trắng, nhân vật cha và nhân vật con chạm trán nhau: con mặt một bộ đồng phục S.S. đã vá lại và khoác bên ngoài tấm áo mưa của Gestapo, cha thì đội mũ ca lô, áo thắt đai ngang lưng và để bộ râu theo kiểu giáo sĩ Do Thái. Họ nhại một cuộc hỏi cung, anh con trai đóng vai đao phủ, ông bố đóng vai nạn nhân. Bà mẹ chạy vào, tiến về phía hai cha con, hai tay bà chìa ra phía trước, cặp mắt điên dại. Bà gào lên bản truyện thơ về Cô gái điếm Do Thái Marie Sanders. Anh con trai bóp cổ ông bố, đồng thời khẽ hát bài Horst Wessel Lied nhưng không sao át được tiếng gào của bà mẹ. Người cha ngạt thở rên rỉ bài Kol Nidre, bài kinh về Đại Xá. Cửa phía trong xịch mở: bốn nam y tá bao vây các nhân vật chính[47]> và phải vất vả lắm mới trói họ vào được. Màn hạ. Không một tiếng vỗ tay. Mọi người nhìn tôi bằng con mắt hồ nghi. Người ta đinh ninh một người Do Thái sẽ phải biết điều hơn. Quả là tôi vô ơn. Đúng, tôi là một thằng mất dạy. Tôi đã ăn cắp của họ thứ ngôn ngữ trong sáng và mạch lạc để biến nó thành những lời hò hét điên cuồng.
Họ đã hy vọng thấy ở tác giả kịch bản một Marcel Proust mới, một gã Do Thái được nền văn hoá của họ khai sáng, họ đã hy vọng được nghe một bản nhạc êm ái, nhưng họ bị điếc tai vì những tiếng trống đầy đe nẹt. Bây giờ họ đã hiểu cần nghĩ gì về tôi. Và tôi có thể bình thản nhắm mắt được rồi.
Các bài bình luận sáng hôm sau làm tôi vô cùng thất vọng. Tất cả đầy khoan dung. Tôi buộc phải nhìn thấy sự thật. Không một ai chịu ghét tôi trừ vài bà bảo trợ và vài ông già trông giống như Đại tá La Rocque. Báo chí tỏ vẻ thông cảm và thương tình trước tâm trạng của tôi. Tất cả những người Pháp kia đều có cảm tình quá mức với những ả gái điếm khi họ viết hồi ký của họ, những nhà thơ đồng tính luyến ái, những tên ma cô Ả Rập, những gã da đen nghiền xì ke và những tên Do Thái chuyên gây sự. Vậy đã rõ ràng là không làm gì còn đạo đức nữa. Người Do Thái đã thành một thứ hàng có giá. Người ta quá tôn trọng chúng tôi. Tôi có thể vào học trường võ bị Saint Cyr và trở thành Thống chế Schlemilovitch: sẽ không bao giờ xảy ra vụ án như vụ án Dreyfus trước kia nữa.
Sau thất bại bất ngờ đó, tôi chỉ còn cách biến đi mất tăm như Maurice Sachs, là vĩnh viễn bỏ đất Paris. Tôi để lại một phần tài sản cho mẹ tôi. Tôi chợt nhớ tôi còn cha ở bên Mĩ. Tôi năn nỉ ông sang thăm tôi nếu như ông muốn được thừa kế ba trăm năm mươi ngàn đôla. Thư trả lời đến ngay lập tức: cha tôi hẹn ngày giờ gặp tôi ở Paris, khách sạn Continental. Tôi muốn chữa bệnh lao của tôi. Trở thành một thanh niên khôn ngoan và thận trọng. Một thanh niên Aryen thực thụ. Nhưng tôi lại không nằm bệnh viện. Tôi thích ngao du. Tâm hồn kiều dân trong tôi cứ đòi tôi luôn luôn phải tha hương.
Tôi cảm thấy hình như thôn quê nước Pháp làm tôi khuây khỏa hơn là đất Mêhicô hoặc các hòn đảo vùng Sonde. Thế là tôi từ bỏ quá khứ quốc tế của mình. Tôi vội vã tìm đến đất đai, đến những ngọn đèn dầu hỏa, những bài hát đồng ruộng và núi rừng.
Thế rồi tôi nghĩ đến mẹ tôi, bà thường đi các vùng thôn quê. Những chuyến đi lưu diễn của gánh Carinthy, một đoàn kịch đại chúng đang hoạt động một cách bảo đảm. Vì mẹ tôi nói tiếng Pháp vẫn có chút lơ lớ âm sắc vùng Balkan, nên bà chuyên đóng vai những công chúa Nga, nữ Công tước Ba Lan và những cô gái táo tợn Hunggari. Công chúa Berezovo ở Aurillac. Những Công tước Tomazoff ở Béziers. Nữ Bá tước Gevatchaldy ở Saint Brieuc. Gánh kịch Carinthy liên tục đi khắp các địa phương nước Pháp.
[7]> Ám chỉ tên nhân vật chính trong tác phẩm của nhà văn bài Do Thái LF.Céline
[8]> Tên một chủng tộc cổ xưa được một trùm phát xít Hittle tuyên bố đó là tổ tiên của người Đức, là chủng tộc cao quý nhất, ưu việt nhất, xứng đáng thống trị thế giới.
[9]> Chế tạo tại Haifa (Tiếng Anh)
[10]> Mọi chốn (Tiếng La - tinh)
[11]> Người Do Thái có tục cắt bao quy đầu cho trẻ trai.
[12]> Cũng là tên của nhà văn Céline
[13]> Nghệ sĩ điện ảnh vĩ đại người Hoa Kỳ gốc Do Thái
[14]> Viên sĩ quan tình báo Pháp gốc Do Thái đã bị xử tội oan, gây làn sóng phẫn nộ của giới tri thức Pháp và làm đổ một nội các Pháp thời đó
[15]> Chữ nước Pháp thuộc giống cái
[16]> Ý nói phụ nữ quý tộc châu Âu
[17]> Những nhà văn đã phản kháng vụ xử oan đối với Dreyfus.
[18]> Chàng Gatsby: tên một nhân vật của nhà văn Mỹ nổi tiếng Ftizgerald
[19]> Quê hương của người Do Thái ở Cận Đông
[20]> Tên các câu lạc bộ bóng nước
[21]> Kiệt tác của văn hào Pháp Marcel Proust
[22]> Từ khinh miệt người Do Thái dùng để gọi người theo đạo Cơ- đốc hoặc mọi người không thuộc nòi Do Thái
[23]>Các Thống chế Pháp
[24]> Nhại cuốn “Thánh Genêt, diễn viên và người tử vì đạo” của Sartre
[25]> Chỉ mười năm sau đại chiến I (1919-1929) các phong trào giải phóng khỏi sự gò bó bùng lên ở Pháp, mọi người đua nhau sống phóng túng.
[26]> Nhà văn Pháp nổi tiếng đã cộng tác với chính quyền Phát xít Đức chiếm đóng, và sau khi Paris được giải phóng, ông bị kết tội phản quốc và tự tử trước khi phải ra toà.
[27]> Ám chỉ tên chuyên hiếp dâm và giết trẻ em
[28]> Viking: bộ tộc theo truyền thuyết là tổ tiên của người Bắc Âu, rất khoẻ mạnh và dũng cảm, chuyên làm nghề cướp biển.
[29]> Văn hào Anh chuyên viết tiểu thuyết lịch sử.
[30]> Ám chỉ quân đội phát xít Đức
[31]> Drieu La Rochelle tự sát trước khi bị xét xử
[32]> Nhân vật Do Thái trong Kinh Thánh
[33]> Tôi ở mọi nơi (Báo Pháp thân Đức)
[34]> Léon Blum, thủ tướng Pháp dưới thời Mặt trận Bình dân cầm quyền, bị Đức bắt năm 1940 đầy sang Đức
[35]> Hành động Pháp
[36]> Của chính phủ bù nhìn Pétain Lavale
[37]> Từ để chỉ những người cộng tác với chính quyền phát xít chiếm đóng
[38]> Ám chỉ cũng là gốc Do Thái.
[39]> Nàng ơi, ta là con trai của giáo sĩ quang vinh Ngài Iscac Ben Israel, đại giáo sĩ của nhà thờ Do Thái ở Saregossa. (Chú thích của P.Modiano)
[40]> Tiếng niệm chú
[41]> Trại tập trung khủng khiếp nhất của phát xít Đức.
[42]> Tên các trùm phát xít Đức
[43]>