← Quay lại trang sách

Chương 5

RỒI CÁI CHUYỆN THOẠI VỚI BƯỚM sang bên quán Cây làng Thượng, bị người ta đánh cho vỡ đầu lại ầm khắp làng Nha. Con trai và con gái trong nhà từng ngõ kháo nhau, cười với nhau. Nhất là người ta lại thấy rõ ràng, ngày hôm sau, ở trán Thoại có một vết đau phải buộc lá nhọ nồi và Thoại kêu nhức tay, không dệt được cửi.

Khi cái câu chuyện kín kia hở ra, Bướm tức lộn ruột. Dù là chuyện thực, nhưng Bướm vẫn muốn lấp liếm đi. Đó là thói thường của các cô con gái, nàng không dám đi chửi rong ngoài đường. Nếu nàng có một bà cô, bà dì như kiểu bà Ba của Ngây, thì hẳn bà ta đã đi khắp bốn xóm chửi tan hoang lên rồi. Ở nhà ông Hội, bọn thợ trước còn nói xa nói xôi để chế giễu, sau chúng sát sạt tận nơi. Tức mình, Bướm chửi um lên mấy bận. Chúng cũng chẳng chịu im. Đằng kia, Thoại cũng bị như Bướm. Nhưng khác Bướm, hễ Thoại nghe thấy đứa nào bảo mình bị đánh vỡ đầu thì Thoại ục liền. Đã xẩy ra mấy vụ thụi nhau rồi.

Thoại đi dệt cửi kiếm ăn, không lụy đến ai. Thoại chỉ ở nhờ ông anh Cả - ông trưởng Phao - một gian nhỏ ở cạnh bếp. Tuy ông trưởng Phao có một vợ và ba con nhưng suốt ngày, nhà vắng như nhà hoang. Bởi vì, từ đứa bé nhất trong nhà là thằng bé lên bảy tuổi cũng đã đi đánh suốt mướn. Cả nhà đi làm trọn ngày, cửa ngõ phải khép lại bằng một cành dong.

Thoại đi dệt cửi, cũng có dành dụm được năm mười đồng. Bấy lâu nay Thoại và Bướm một lời giao kết rằng hai đứa sẽ lấy nhau. Bướm vẫn định sang năm thì dẫn Thoại về quê nhà mình, nói chuyện cho thày mẹ hay. Thoại sẽ đưa ra đồng bạc nộp lệ cheo làng nhà vợ. Cùng nghèo, lấy nhau giản tiện như vậy cũng được.

Bây giờ chúng nó nói ra nói vào, Thoại rất bực mình. Chắc Bướm cũng thẹn lắm. Để cho Bướm thẹn thì không nên. Hay là, nếu có thể, hai đứa lấy quách nhau. Chỉ có thế mới rửa được tiếng cho Thoại và Bướm. Người ta yêu nhau thì người ta lấy nhau, đứa nào nói gì đụng chạm đến là nó thối mồm lắm.

Thoại đem chuyện của mình bàn với Hời, anh bạn tri âm hơn hết, nhất là từ sau khi có cái vè dán nói xấu người yêu của Hời, hai người lại càng thân hơn. Hời rất tán thành lời bạn. Chàng lại khuyên bạn nên thực hành ngay ý kiến ấy đi. Thoại gật gù ra vẻ tư lự.

Một đêm, Thoại dệt xong hai cuốn cửi đầu hôm thì đã quá mười giờ. Thoại đến nhà Hời chơi. Hời đã đi ngủ. Nghe tiếng gọi, Hời trở dậy ra mở cửa và thắp đèn lên. Thoại lấy ở trong túi ra một tờ giấy trắng và một mẩu bút chì. Anh để giấy xuống phản, kề bên ánh đèn, rồi nằm bò ra, vừa hí hoáy viết, vừa nhấm đầu bút chì, ngẫm nghĩ. Hời hỏi:

- Làm gì vậy?

- Viết thư cho Bướm.

- À.

Rồi Hời cũng ngồi cúi xuống, hai bàn tay chống lên má, tròn mắt nhìn những chữ loăng quăng, như hình vẽ những sợi thuốc lào rơi trên mặt giấy, mà ra ý khâm phục cái tài hoa của bạn. Bởi vì Hời dốt đặc cán mai.

Mãi đến quá một giờ đêm, gà đã te te gáy, Thoại mới hì hục nghĩ, viết và chấm bút chì viết xong được bức thư cho người bạn tình.

Thư rằng:

Mợ ơi! Nỗi niềm ngậm đắng nuốt cay. Bây giờ mới tỏ lòng này cho nhau. Đôi ta chung một chữ tình, bấy nay thực là khăng khít. Chẳng hay trẻ mỏ đành hanh, trêu ngươi chi mấy tá, nên đêm hôm nọ mới xảy ra cái chuyện giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha. Mợ ơi, tôi nghĩ lấy làm tức lắm. Cho nên tôi định rằng thôi thời trước sau cũng là một lần thời hôm nào hết cửi, mợ đưa tôi về quê nói chuyện với các cụ để cho đôi trẻ được sum vầy thời tôi lấy làm mãn nguyện lắm. Để cho thiên hạ chúng nó trông vào, biết cho ta là chung thủy hữu tình. Mợ ơi! Tôi thời nghĩ thế, mợ nghĩ ra sao thời trả lời ngay cho tôi được rõ. Tối mai đoạn cửi đầu hôm thời tôi đợi mợ ở ngõ xóm Duối, mợ ra cho tôi nói chuyện.

Giấy ngắn tình dài, bút cùn mực cạn, kể sao cho xiết, nay tạm có mấy lời.

Thoại nay thư.

Viết xong, Thoại đọc cho Hời nghe. Hời thấy chữ nghĩa lý thú quá.

Và Bướm cũng bằng lòng về quê.

Thế là, một buổi sáng, Bướm cắp thúng - tuy trong thúng chẳng đựng gì, nhưng cũng cắp cho ra vẻ - đội chiếc nón Chuông vành to bằng cái mẹt, về làng Giá.

Nàng đi tắt đường đồng vào đến cầu Diễn thì đứng lại để đợi Thoại. Hai người đi chung một chiếc xe tay bánh sắt. Chiếc xe lọc cọc trên con đường đá trắng, ruổi giữa đôi bờ ruộng mạ. Những người đi bên đường, nhìn họ, đoán chắc là một đôi vợ chồng mới cưới. Nghĩ thế, Bướm mủm mỉm cười liếc Thoại và đôi má nàng tự dưng hây hây đỏ.

Mà hai người có vẻ vợ chồng mới cưới thực. Thoại diện choáng lắm. Đầu chàng chít khăn nhiễu tây, nổi cát óng ánh. Tấm áo the La Cả phủ ngoài áo trắng nổi rõ từng sợi dọc sợi ngang, nom tựa như mặc áo sa bóng. Nhưng diện nhất là cái thắt lưng lụa hoa rút dế nhuộm điều mà anh chàng thắt bỏ lửng xuống đến gần đầu gối. Mỗi lần gió thổi bay hai tà áo, lại phơ phất đôi dải lụa đỏ tươi.

Quần của chàng cũng là quần lụa hoa, thứ lụa hoa vân sa trơn nuỗn. Đôi chân mốc đen và to bè bè của chàng được xỏ vào đôi giầy Gia Định. Tuy đôi giầy này mua đã ba năm nay, nhưng chỉ trong những ngày hội hè và Tết nhất, Thoại mới lấy ra đi. Nó lịch sự thật, song Thoại ít ưa diện giầy. Bởi vì chân chàng thô kệch thò vào giầy tựa như chân trâu thò vào guốc, và mỗi khi đi, cứ phải lấy gân bấm năm ngón xuống thì hơi khó chịu một chút. Tay Thoại cầm một cái ô trắng. Ô trắng xanh xanh có cái cán bằng song hun đen, khum khum choãi ra. Người ta gọi ô ấy là ô Tây Cống - chẳng biết vì lẽ gì. Thoại ăn vận ngất ghê. Đủ cả bộ cánh Tết đấy. Mà cũng chưa đủ hẳn: trong túi chàng còn một cái kính gọng đen, hai mắt xanh mầu lơ và cái mùi xoa lụa trắng xung quanh viền chỉ đỏ, một bên góc thêu cành hoa hồng với con bướm. Của này là của Bướm tặng chàng.

Bướm cũng mặc toàn những quần áo xưa nay vẫn cất kỹ trong thúng. Áo the đổi vai Đồng Lầm. Giữa cái thắt lưng lụa bạch dài sum sê lại xen vào một dải lụa mầu hoa đào tươi tắn. Quần lĩnh Bưởi bóng nhoáng. Trong túi nàng có cả một lọ bi-ăng-tin thơm phưng phức mua bốn xu rưỡi ở chợ.

Bướm đem Thoại về quê, lòng chứa chan hy vọng. Chuyến xe ấy là chuyến xe xuân. Và có lẽ là nàng đã nghĩ nhiều đến cuộc đời mới sắp đến. Nàng không bận tâm lo lắm về sự nếu cha mẹ chẳng bằng lòng Thoại. Làng nhà Bướm là một làng quê mùa, hủ lậu. Cả làng không có ai mặc quần áo trắng. Cả làng toét mắt, và nếu không toét nhèm hẳn thì có lông quặm, nhìn hó háy. Các cụ bảo rằng làng vốn có cái đất toét mắt như thế. Con gái thì cô nào cũng váy màu da bò, mặt mũi ngẩn ngơ. Mười bảy, mười tám tuổi đầu mà còn đeo vòng đồng ở cổ và mặc áo có đóng dấu nhà chùa đằng sau lưng. Nếu Bướm không được ra ngoài Bưởi làm ăn có lẽ nàng cũng đến toét mắt và mặc váy da bò như các nàng ấy. Thoại mà về làng, ắt được tôn trọng và nổi đình đám lắm. Chắc ai cũng tấm tắc khen ngợi. Người ở tỉnh, chứ có phải thường đâu.

Mặc dầu bề trong không có gì, bề trong cũng nghèo kiết như mọi người cả, nhưng Bướm nghĩ rằng cái đó chẳng đáng ngại. Vợ chồng ở với nhau, chơi tên phường tên họ, dành dụm bóp chắt ít lâu lấy một cái vốn nho nhỏ rồi dênh lên một khung cửi. Người ta ở đâu lạ nghề, lạ nghiệp còn làm ăn được, huống chi đằng này cả hai vợ chồng cùng thạo và khéo chân khéo tay. Tính trước con đường đi, lòng Bướm nhẹ nhõm, vui vui.

Nhưng cái mộng ấy sụp đổ.

Thoại về nhà Bướm một hôm. Bướm nói dối rằng đấy là cháu ông Hội, chỗ Bướm quay tơ, về chơi. Quê mùa, người ta thường dễ tính và quý người, bố mẹ Bướm coi như thường và vồn vã thân mật với Thoại. Thoại ở đấy một ngày, một đêm thì trở về làng Nha. Khi Thoại đã về khỏi, Bướm thưa thật chuyện mình cùng bố mẹ. Đã nói thật thì Bướm cũng phải nói nốt rằng đất nước nhà người ta quen ăn trắng mặt trơn như thế nhưng cũng tiếng cả nhà thanh, không có gì. Xin cho nộp đủ tiền treo cưới lệ dân, còn cái việc cỗ bàn mời làng xóm thì sau này hẵng hay.

Ông bố sinh ra Bướm vuốt râu, bảo con:

- Không được. Tao đã nhận lời một đám rồi. Nơi này danh giá lắm, con ông phó Nguyên ở xóm dưới. Thôi từ mai ở nhà không được lên Nha nữa, sang Giêng người ta đã xin cưới đấy.

Bà mẹ thì dẽ dàng hơn:

- Trông cái cậu Nha ấy cũng được mẽ người. Con mà lấy người ta thì cũng phải đôi. Nhưng ở nhà đã trót nhận lời rồi. Vợ chồng là cái duyên số, con phải nghe thày mẹ. Vả lại lấy chồng gần thì được năng đi năng lại...

Bướm khóc.

Có một điều cay cực bên trong mà thày mẹ Bướm giấu, không để Bướm biết. Nhà Bướm đã chạy mượn nhiều quá của ông phó Nguyên. Mấy năm nay, mùa màng cấy cày chẳng ra sao cả, công nợ cứ đẻ dần mãi, bám vào cái gia đình nghèo này nhiều như ốc bám vào cọc rêu. Đuối quá, không còn có thể trả được nợ của ông phó Nguyên, bố mẹ Bướm đã nghĩ đến Bướm và nghĩ đến anh trai út nhà lão ta. Mắt có lông quặm, mở chẳng ra nhưng là con nhà danh giá, giàu có. No ấm là được rồi. Bị thúc nợ nhiều, mẹ Bướm thú thực ý định của mình với lão phó. May mà lão bằng lòng. Và con lão thì thích mê, bởi vì Bướm đẹp nhất hàng xã, lấy nó, như lấy được tiên trên trời.

Thày mẹ Bướm mừng hí hửng, đợi Tết thì Bướm về. Hai ông bà cùng chắc công việc xong xuôi mười mươi.

Đùng một cái, xảy ra sự chẳng ai đợi. Bướm ngoay ngoảy khóc rưng rức. Giá như mọi khi, bố Bướm đã đánh cho con gái một trận. Nhưng lần này ông im lặng và mặc hai mẹ con nói năng với nhau. Bướm khóc suốt đêm thì mẹ Bướm cũng khóc suốt đêm. Sau mỗi một câu nói, bà lại rủ rỉ: “Con thương mẹ, thương bố, thương anh, thương cả nhà là hết...”. Lắm lúc Bướm cũng thấy cảm động. Nhưng thực bởi Bướm đi từ thuở bé nên cái tình cha mẹ cũng có phần phai mờ. Hình ảnh đất Hạ Nha, những người con trai con gái ở đấy - nhất là Thoại - làm cho Bướm háo hức, bồn chồn. Chao ôi! Đất làng Nha mới thực là quê hương của nàng. Bởi vì ở cái tuổi hai mươi, ái tình vừa nảy nở thì quê hương của ái tình mới thực đáng là quê.

Một đêm, Bướm bỏ nhà trốn đi. Nàng quên cả. Mặc mẹ. Mặc bố. Mặc anh. Nàng lên Hạ Nha với ái tình.

Nàng nói dối Thoại rằng thày mẹ đã bằng lòng. Thế là hai người về ở với nhau, một buổi chiều dễ dàng như hai người bạn trai rủ nhau ngủ chung một giường.

Nàng đâm liều lĩnh không nghĩ ngợi gì nữa.

Thoại mua hai con vịt về giết thịt. Thoại mời ông trưởng Phao xuống chén. Và bạn thì Thoại rủ cái anh tri kỷ nhất là cu Hời.

Được mươi hôm, có ba người từ trong làng Giá đi bộ ra đầu làng Hạ Nha. Một ông già, một bà già và một người con trai. Đó là bố, mẹ và anh của Bướm. Khi vào đến nhà ông Hội thì Bướm đã lẩn mất. Họ chia nhau đi lùng nháo cả lên. Nhưng không thấy. Bướm và Thoại đã chạy qua cánh đồng, trốn sang tận ấp Hồ.

Hôm sau, bà lão ngồi khóc bù lu bù loa ở ngoài đầu làng. Ông lão đứng cạnh, ai hỏi chuyện thì vừa nói vừa thở dài, mặt ỉu xìu. Mọi người xúm lại xem, ai cũng ái ngại.

Nhưng Bướm vẫn không chịu dàn mặt. Nàng đã liều rồi. Được ba hôm, thế không ở lại được nữa, ba người đành trở về Giá. Và cái gia đình ấy còn khổ cực đến bao nhiêu vì món nợ tiền không trả được, định trả bằng người thì lại hụt, thì cũng không ai biết rõ. Bởi vì sau này Bướm không còn dám về nhà một lần nào.

Câu chuyện của Thoại và Bướm lại được tỏa rộng trên những ghế hàng nước, trong những khung cửi và khung hồ... Người ta reo cười. Và lũ trẻ con, mấy hôm bố mẹ Bướm ra lùng bắt con gái, được một bữa chạy đi xem, vui như xem hội.

Thoại và Bướm không cần. Nhờ hàng đương chạy tay, họ sống với nhau cũng phong lưu. Rằm tháng Bẩy năm ấy, hai vợ chồng đưa nhau ra tận ngoài Hà Nội chụp một cái ảnh.

Cái ảnh ấy khổ to bằng một quân ích xì, xung quanh có vẽ hình cành hoa, cành lá. Họ chụp ở một hiệu khách. Đem ảnh về mà con trai, con gái làng Nha phải trầm trồ khen ngợi là đẹp quá, tài quá. Nước ảnh bóng loáng, màu nâu nâu, trong ảnh Bướm ngồi bên một cái bàn, trên để bốn cái chén và một cái đồng hồ. Bướm mặc quần trắng áo tân thời có lốm đốm hoa trắng. Tay Bướm đeo vòng vàng. Cổ chằng vô khối hạt vàng, nom thấy óng ánh vàng hoe. Đầu vấn khăn nhung có gài con bướm và chân thì đi giầy cườm. Nàng ngồi một tay ghếch lên bàn, một tay để trong lòng, cầm cái khăn mặt. Còn Thoại cũng đặc biệt ra phết. Anh mặc quần áo tây và cái áo bành tô tây. Cổ anh thắt cà-vạt lòng thòng loăn xoăn xuống khỏi thắt lưng. Anh đội mũ dạ lệch về một bên. Mắt đeo kính trắng. Tay đeo đồng hồ, và cái nhẫn ma-dê. Một bên tay cắp quyển sách thực dầy và thực to vừa bằng cái gối xếp. Một tay anh cầm điếu thuốc lá. Anh đứng một bên góc bàn ngang với vợ. Đằng sau hai người là cảnh sơn thuỷ, có chậu hoa, có hình sông, hình núi và mấy con chim đang bay lượn.

Ai cũng tấm tắc khen và hỏi chụp đâu.

Thoại bảo:

- Ở hiệu chú khách chỗ gần bờ hồ “Hàng Gươm”, đến đấy hỏi ai cũng biết.

- Quần áo kia thì làm thế nào?

- Ở đấy người ta khối. Đủ thứ. Cả mũ áo phường tuồng nữa cơ. Muốn chụp thế nào cũng được. Thích lắm.

Thích thật. Bướm, Thoại vui lắm. Tuổi tàn nhẫn, bồng bột và dễ quên.