Chương 6
NHƯNG TÌNH BÈ BẠN CỦA CÔ BƯỚM VÀ CÔ Ngây bị một cơn gió bấc trái tiết. Bởi vì sau khi đã lấy Thoại, sau cả cái hôm mà bố mẹ Bướm từ Giá ra Hạ Nha tìm Bướm, một ngày phiên, Bướm đến chơi nhà Ngây. Ông Nhiêu đương ngồi quay cửi thừa ở trước cổng tán. Bướm đon đả chào, nhưng ông Nhiêu lầm lầm nét mặt. Bướm vào nhà ngang, thì ông Nhiêu cũng lừ lừ đi vào và ông chửi ngay Ngây. Ông cứ chửi vung lên rất tự nhiên. Coi như không biết có Bướm ngồi đấy. Bướm hiểu ngay là ông Nhiêu mượn cớ chửi con để đuổi mình. Người ta chẳng muốn con gái người ta ngồi nói chuyện với một đứa con gái hư hỏng, đi theo không một thằng con trai.
Bướm bùi ngùi về. Ông Nhiêu bảo Ngây:
- Ông cấm mày từ giờ không được chơi bời trò chuyện gì với con đĩ Bướm. Rồi mà bắt chước nó nhé! Bố mẹ nuôi con bằng ngần ấy tuổi đầu, để cho con vác xác đi theo trai. Ông cấm chỉ đấy!
Bà Ba cũng chép chép miệng:
- Con gái bây giờ tân thời hư quá.
Bướm lại biết rằng chẳng những một mình lão Nhiêu Thục không ưa nàng mà tất cả mọi đứa ở làng Hạ Nha đều đem lòng ghét guổng và xa lánh nàng. Từ đấy, nàng không đến nhà Ngây nữa.
Kể cũng chẳng ích lợi gì cho Bướm cái sự đến chơi nhà Ngây. Nhưng thực là thiệt hại lớn cho anh Hời. Hời ta bị cắt mất đường chim xanh. Bướm không đến nhà Ngây thì Hời không tin tức đi lại được với tình nhân. Bởi vì từ cái ngày có cái “cáo bạch” ác hại kia, và từ sau những trận phải đòn, Hời không được gặp Ngây trong những đêm dệt cửi khuya nữa. Song hôm nào Hời cũng vác gậy lần mò lên xóm Giếng, đi qua sau nhà Ngây để được nghe tiếng nàng dệt cửi lạch cạch.
Trời! Còn gì bứt rứt và băn khoăn bằng yêu nhau mà không thể gặp nhau. Dù là Hời ít hay nghĩ ngợi, cũng thấy lòng mình sầu não vô cùng. Ngày dệt cửi, cứ nhắm mắt lại mà đưa thoi. Để cho khỏi phải tư lự bơ vơ. Nhưng chân tay anh cứ mỏi rời ra thôi. Đêm đến, anh lấy cây đàn bầu xuống, gẩy chơi mấy khúc tiêu khiển. Tự nhiên, tiếng đàn càng não nùng thêm. Chán đàn, anh lại đến nhà Thoại. Bởi vì chỉ có thể đến chơi đấy, Hời mới nói ra được những tâm sự u buồn của mình. Rặt những chuyện Ngây. Và có lẽ anh cũng chỉ muốn người ta gẫu lại với mình độc một mặt chuyện ấy.
Một chiều tối, Hời đến nhà Thoại. Thoại đi dệt cửi về, đương ăn cơm.
Bướm ngồi phản bên quay tơ. Ban ngày nàng đi làm hồ, tối đến lại lấy tơ về quay cho thêm việc. Vừa thấy Hời vào, Bướm đã nhoẻn cười:
- Anh đến chơi. Tôi đương mong.
Hời hấp tấp:
- Có chuyện gì thế chị? Lạ không?
- Cũng lạ vừa vừa thôi. Anh ngồi xuống đây.
Bướm buông vầy tơ, với tay lấy ấm nước. Nàng dịch cái khay, trong đựng bốn chiếc chén hoa xanh, về phía Hời rồi nghiêng ấm - cái ấm bình tích mới, cũng có loăng quăng những đường vẽ hoa xanh - rót một chén đầy. Toàn những đồ mới sắm. Từ ngày có vợ, Thoại ăn ở ra lối có nền nếp. Những thứ đồ lặt vặt, Thoại cũng để ý mua sắm. Mọi khi có bao giờ Thoại biết đến. Muốn uống nước, Thoại chỉ việc chạy ra sân, lấy cái gáo dừa vỡ vục vào cái vại đựng nước giếng lẩn vẩn rêu xanh lẫn những con nòng nọc đen. Lại có khi thằng Họa nhà ông Cả Phao thả mấy con săn sắt vào vại nuôi. Thoại vẫn ngửa cổ ra uống ừng ực cái thứ nước có đựng săn sắt, đựng nòng nọc và đựng rêu xanh đó.
- Mời anh xơi nước. Nụ vối nấu ban chiều, ngon lắm.
Thoại cũng đã ăn cơm xong. Chàng vào ngồi một bên góc phản, xỉa tăm quèn quẹt lên răng. Bướm bảo Hời:
- Hôm nay tôi gặp chị Ngây ngoài cổng xóm. Chị ấy rủ tôi ra đồng.
- Thế hả?
- Chị ấy bảo rằng cũng định gặp anh để nói cho hết chuyện. Cái việc tối đến anh chị vẫn ra đứng với nhau ở góc vườn, cũng có người biết.
Hời giật mình - và có lẽ anh đã đỏ mặt:
- Quái nhỉ?
- Thằng trưởng Khiếu gọi chị ấy ra ngõ, bảo vào tận mặt thế rồi đánh cho chị một trận, kịch liệt. Ông Nhiêu cũng choảng luôn một trận nữa đau quá. Hai cánh tay chị ấy hãy còn lằn vết gậy thâm tím lại. Ông xé của chị ấy cái áo cánh, lại chặt mất cả đôi guốc mới. Chị ấy nhắn tôi rằng những điều gì chị ấy đã nói với anh từ trước thì anh liệu đi.
Hời ra vẻ nghĩ ngợi. Thoại chiêu một ngụm nước, nói mủm mỉm:
- Thế là chị ấy muốn giục anh phải lo việc mối lái đi đấy.
- Ra cái ý thế!
Hời buồn buồn ngước nhìn ngọn đèn Hoa Kỳ, ánh đèn lung lay theo làn gió thoảng từ ngoài hiên vào. Trên nhà trên, nhà ông Cả Phao đã ngủ yên tờ. Lồng tơ của Bướm lóc cóc chạy. Tiếng vang lên lanh lảnh. Hời khe khẽ thở dài:
- Lo. Tiền đâu mà lo!
- Như thế là cả nhà chị Ngây đã biết chuyện kia rồi. Phải liệu trước đi, kẻo có ai dòm thì ông Nhiêu ông ấy gả phăng đấy. Ông ấy đang bực mình mà.
Hời buồn. Rồi Hời lại còn buồn hơn nữa.
Cách mấy hôm, Hời đến chơi, Bướm bảo:
- Có người đồn là nhà lý So bên làng Thượng cho người sang hỏi chị Ngây cho thằng Khói.
Thoại nói:
- Thôi chết! Nó trả thù cánh mình.
- Ừ, cũng có lẽ. Nhưng chị Đôi (Hời gọi cho ra vai vế của Bướm) có biết đích xác không? Ai bảo thế?
- Đích. Mấy đứa bên Thượng nói.
Thế đủ cho Hời choáng người.
—★—Ông thân sinh ra Hời mất từ ngày chàng còn nhỏ lắm, độ lên ba. Cái Nghiên thì mới đương ẵm ngửa. Hời có ba anh em: anh Từ, Hời rồi đến cái Nghiên. Bà Vạng góa chồng từ năm hai mươi tám tuổi. Bà ở vậy, nuôi ba con. Cái gia đình gái góa ấy nghèo. Nhưng bà chỉ vất vả nhiều trong những năm mà các con còn bé. Chúng lớn dần dần và dần dần làm đỡ bà, nuôi bà nữa.
Cách đây năm năm, tháng Giêng ấy hàng ế gạo kém quá. Thằng Cả Từ đua anh đua em nô nức nhau đi Sài Gòòng làm ăn. Bà Vạng cản ngăn thế nào cũng không được. Từ vào Sài Gòòng làm được hai năm thì có về chơi nhà một lần. Người ta thấy hắn khác, lạ hẳn cái thằng Cả Từ ngày trước. Da hắn đen sạm, nhưng khỏe. Hắn mặc một bộ quần áo lụa đen nhánh. Và có một sự mới mẻ nữa, là khi hắn nhếch mép cười, nhìn thấy trong miệng hắn có hai chiếc răng vàng chóe. Hắn rất hay cười, để cho người ta trông thấy răng vàng luôn luôn. Hắn đi với một người đàn bà cũng mặc quần áo đen như hắn, mặt dài ngoẵng, cái búi tóc chon chỏn, thê lễ xuống gáy, mà tiếng nói thì líu ríu như tiếng chim chích chòe hót kể chuyện. Đấy là vợ hắn. Và hắn bảo vợ hắn gọi bà Vạng bằng má. Khi mọi người làng đã biết những công việc của hắn làm ở Sài Gòòng thì người ta gọi hắn là bác sếp Từ. Hời và Nghiên thấy anh về mừng quýnh. Từ mang về khối quà, hai anh em đi chia cho bà con hàng xóm. Bà Vạng cũng mừng, nhưng lại cũng buồn. Bà thấy con bà bây giờ bướng bỉnh và văn minh quá. Có lẽ nó chỉ về chơi nhà. Mà nó chỉ về chơi nhà thực. Chưa được nửa tháng sếp Từ đã mang vợ đi. Hẹn sang năm thong thả lại về. Nhưng từ ngày ấy không thấy về nữa. Chỉ thỉnh thoảng nhận được thư và tiền - hoặc để đóng sưu, hoặc cho mẹ. Ai hỏi thăm, bà cũng nói chưa chắc con bà về được. Bởi đi vào tận Sài Gòòng mà lấy người nước ấy, khó lòng mà trở lại quê. Cũng như nhiều người lên mạn ngược lấy Thổ, lấy Mán làm vợ, chúng giữ ngay lại, chúng bỏ thuốc bỏ bả làm cho đầu óc u mê chằng chịt không còn nhớ ông bà ông vải ở đâu nữa! Song bà chỉ ôm một mình cái điều đau khổ ấy, không dám đem nói với ai.
Từ vào lại Sài Gòòng được một năm thì cái Nghiên lấy chồng. Nó lấy chồng làm chân thư ký hội đồng ở một làng bên tỉnh Bắc. Cái tiền của người ta dẫn cưới Nghiên ấy, bà Vạng định để cưới vợ cho Hời. Chẳng may, bà Vạng lại bị một trận đau mắt nặng. Thuốc thang hết mấy chục bạc mà vẫn chưa khỏi hẳn. Hôm mùng mười tháng Bẩy, cái Nghiên về thăm mẹ. Dạo đó nước sông Hồng đương cữ lớn. Chuyến đò ngang ấy chở tham khách quá, đắm lỉm ngay ở giữa sông. Chết tất cả hai chục người sang đò, chỉ thoát có mỗi một anh lái. Cái tin Nghiên chết đắm đò ở bến Hối đưa về đến Hạ Nha thì bà Vạng khóc ngất đi. Bà thương con gái, khóc đến nỗi sưng húp cả hai mắt. Nó lấy chồng chưa được một năm. Tội nghiệp, đôi mắt của bà Vạng, từ ngày ấy díp hẳn lại không khỏi được. Cho đến bây giờ thì lòa hẳn. Ở hai bên con ngươi, nổi lên một cái màng trắng. Trông cái gì cũng tối ngòm ngòm.
Hời là một đứa ngoan. Anh đi dệt cửi mướn nuôi mẹ. Hai mẹ con sống như thế, với thỉnh thoảng có một món tiền của sếp Từ gửi về, cũng có thể gọi là tạm đủ. Và Hời lại chí thú chơi được một bát họ tám chục. Mỗi tháng góp hơn hai đồng, ba mươi tháng thì dốc ống. Hời đã đóng được gần hai mươi tháng rồi. Nếu nói đường ngay, rồi tất Hời cũng lấy được Ngây. Tháng Chạp sang năm đóng hết họ, là chàng đã đủ tiền để cưới một con vợ hẳn hoi. Nhưng chàng yêu Ngây mà Ngây lại đương có người hỏi. Chàng tin Ngây sẽ chẳng bằng lòng lấy thằng Khói. Song chàng lại ngài ngại mường tượng như sẽ có một sự gì rẽ duyên của chàng, nếu chàng không hỏi Ngây ngay bây giờ. Ấy là cái tâm lý của một gã có người yêu nhất đời đương bị có kẻ dòm ngó. Anh lo. Anh sợ. Anh tính toán. Anh băn khoăn. Và cuối cùng những nỗi lo sợ bối rối ấy đưa đến cho anh sự mạnh dạn, khiến anh dám ngỏ nỗi niềm tâm sự của mình cho mẹ rõ.
Nghe con nói, bà Vạng mỉm cười như mếu:
- Việc nhân duyên của mày, bầm đã nghĩ đến từ lâu. Chẳng may, vận hạn trong nhà mấy năm nay đấy thôi. Nhà ta thì nghèo; anh mày thì đi làm xa đồng đất nước người; con em mày ăn cướp công mẹ, bầm không muốn nói đến nữa. Bây giờ có mỗi mình mày ở với bầm. Cửa nhà vắng vẻ. Không phải là kén, nhưng bầm phải suy kỹ. Chỉ sợ lấy phải chỗ cành cao cành thấp, nó về nó lại ỏe họe nhà mình.
- Nhưng nhà ông Nhiêu Thục cũng...
Bà Vạng ngắt lời con:
- Nhà ông Nhiêu Thục với nhà ta thì cũng được. Cùng chỗ sàn sàn cả. Mắt mũi bầm bây giờ kém cỏi, nhưng ngày trước bầm trông cái Ngây cũng đầy đặn phúc hậu đấy. Chỉ hiềm nỗi thằng trưởng Khiếu nhà nó hư hỏng.
- Ông Nhiêu đã đem trầu cau ra đình từ nó rồi.
- Phải, con cái gì ngữ ấy.
- Bầm đừng ngại...
Bà Vạng cười:
- Là bầm nói thế thôi. Việc của nhà ta lại đi một nhẽ khác. Hôm nào, mày qua nhà ông Nhượng bảo mời ông lại chơi xơi nước.
Mỗi khi có việc gì cần, bà Vạng thường cho con đi mời ông Nhượng đến chơi “xơi nước”. Nói thế ông Nhượng đủ hiểu. Ông Nhượng là em ruột ông Vạng. Khi ông Vạng mất thì ông Nhượng hãy còn trẻ tuổi và nhàn vi lắm. Nhờ cái tính thật thà cẩn thận, chắt bóp của ông, bây giờ ông cũng khá. Trong nhà cũng có được mấy chục bạc vốn, một khung cửi và nuôi được đôi lợn. Ông hàn gắn đến nỗi, mỗi khi ông ra ngõ, thấy có sợi tơ vương ở bụi cúc tần, ông cũng vội chạy ngay về nhà, lấy cái lồng ra quay sợi tơ vào ống. Làm việc gì, ông cũng mở lịch. Ra cửa đi đâu, ông dừng bước lại, trông ngược trông xuôi, xem có phải là gặp đàn ông thì mới đi. Tháng tháng, cứ sáng ngày mồng một, ông lại gọi thằng bé con bên nhà hàng xóm sang “xông” nhà. Mỗi lần thế, ông cho thằng bé một trinh. Có cái bổng ấy, sáng mồng một tháng nào nó cũng hí hởn sang. Đó mới chỉ là những cẩn thận rất thông thường. Một lần kia, chẳng biết có việc đi đâu ra đồng, ông trông thấy một toán lính tập đội mũ vàng, đi giầy kệt kệt, có dắt cả ngựa, cả xe đạp, sắp trảy qua làng Nha. Ông nhớn nhác đi rất nhanh - đi nhanh chứ không dám chạy - về nhà, đóng sập cửa lại, ngồi hút thuốc lào, nghe ngóng. Khi tiếng giầy cộp cộp, tiếng nói bi bô đi đã xa, ông mới mở cửa.
Bà Vạng tin ông Nhượng lắm. Hời bảo, ông đến ngay. Hôm ấy, Hời đi dệt cửi vắng. Bà Vạng đem chuyện bà định hỏi cái Ngây cho thằng Hời ra nói.
- Nó đã nhớn. Xem ý ra con trai nhớn có vợ con thì mới đứng đắn, chăm chỉ làm ăn được. Mà nhà neo người, mắt tôi kém, chẳng nói tất ông cũng rõ. Tôi muốn lo cho nó đám ấy, ông nghĩ sao?
Ông Nhượng rít một hơi thuốc lào, đờ đẫn nhìn khói thuốc, rồi chiêu một ngụm nước. Đoạn ông nói:
- Cũng được đấy. Món ấy kháu. Làng ta, không phải mấy cô con gái nhà giàu đỏng đa đỏng đảnh, thì món ấy vào bậc khớ rồi. Nhưng chỉ hiềm nỗi thằng trưởng Khiếu hư.
- Ấy, tôi cũng đã nghĩ đến chỗ ấy. Nhưng nó cũng đã có vợ con, ở riêng ra rồi. Vả lại, nó còn ít tuổi, ngông ngáo.
- Cái ấy cũng được. Cái giấy “cáo bạch” dạo nọ cũng của nó dán.
- Giấy gì?
- Cái vè nói xấu ông Nhiêu Thục.
- Chết chửa! Tôi chẳng biết gì.
- Ông Ba Cấn bảo với tôi rằng chính thằng trưởng Khiếu dán cái giấy ấy.
- Con nhà trời đánh nhỉ!
- Tôi nghĩ nên hỏi cái Ngây cho nó là phải. Những điều kia khác thì cũng nên bỏ đi. Nếu có kể thì phải kể cả rằng ngày xưa, ông cụ hai đời nhà ông Nhiêu đi ăn trộm bị đâm chết ngay trên nóc nhà. Thời buổi Tây Tầu bây giờ cái gì cũ là nhàm rồi. Bà thì già, mắt mũi không có. Việc này tôi vẫn định bảo bà từ lâu. Thế chẳng biết thằng Hời có bằng lòng không?
Bà Vạng tủm tỉm:
- Xem ý cu cậu thích mê.
- Phải, đời bây giờ có thỏa thích đôi bên mới hay. Thời các cụ ta ngày xưa khác. Bà cứ lo đi, tôi chả có nhưng cũng xin đỡ cháu ít nhiều.
- Được thế thì còn gì bằng. Nhưng tôi lo nhất cái chuyện tiền. Định mới nói qua loa với ông là chỗ người trong nhà đấy thôi.
- Định gì nữa? Có ai lấy vợ cho con lại để dành tiền sẵn bao giờ. Cứ lo đi. Rồi mai mốt vợ chồng chúng nó bảo nhau làm ăn. Bây giờ tôi hãy làm cái việc đánh tiếng trước, xem sao đã. Rồi mới đến hỏi han so đôi tuổi tác, việc nọ việc kia chứ.
Bà Vạng sung sướng bùi ngùi:
- Trăm sự nhờ ông. Tôi mặc ông đấy. Chú cứ lo thế nào cho cháu đẹp nhà đẹp cửa thì lo.
Ông Nhượng vừa khẽ gõ điếu, vừa nói:
- Tôi bạn với ông Ba Cấn. Ông Ba Cấn lại là người thân nhất của ông Nhiêu Thục. Nhờ trời, có nhẽ được.
Ông Nhượng hút một điếu thuốc nữa, rồi mới đứng dậy ra về.
Giá Hời mà ở nhà, nghe lỏm được câu chuyện của chú với mẹ mình hẳn sướng phổng mũi.
Dù nhà không có tiền sẵn, nhưng cũng cứ lo. Nhà nghèo lo được việc gì thì lo dần, chứ ngần ngại trù trừ thì chẳng bao giờ xong được. Ông Nhượng nghĩ thế tất nhiên là Hời đồng tình ngay, và đến cả bầm Hời cũng nghĩ như vậy.
Ông Nhượng đến chơi nhà ông Ba Cấn nói ướm câu chuyện trăm năm của cháu mình thì được ông này hoan nghênh ngay. Ông bằng lòng giúp ông Nhượng, nói hộ với ông Nhiêu Thục. Và ông bảo rằng chẳng cần mối lái gì nữa. Vì đổi địa vị, ông cũng có thể ví là một ông Nhượng đáng tin cẩn của bà Vạng, đối với ông Nhiêu Thục. Ông Ba Cấn nói với ông bạn:
- Cháu Hời hử? Được, được. Tôi nói vào một câu là được. Chỗ ông với tôi, với bà Vạng, với ông Nhiêu Thục, cùng như anh em chị em cả.
Rồi ông ngửa cổ lên cười ha hả:
- Chúng mình cứ được đánh ngã vài chai bố là đủ thích rồi!
Ông Nhượng dặn:
- Ông nhớ hỏi rón trước hộ cái tuổi của cháu Ngây đằng ấy để tôi về so xem.
- Cái ấy là cần nhất, tôi nhớ rồi.
Mươi hôm sau, ông Ba Cấn đến chơi nhà ông Nhiêu Thục. Ông Nhiêu đánh đụng được một đùi thịt chó bên hàng xóm. Hai ông ngồi nhắm rượu với nhau. Rượu đã ngà ngà, ông Ba Cấn khơi mào:
- Cái Ngây năm nay nhớn rồi...
- Còn gì nữa! Hai mươi đấy. Ông xem có đám nào, tôi tống khứ.
- Được rồi. Tôi đương định nối đuôi thằn lằn đây.
Rồi ông nói chuyện về ông Nhượng, về bà Vạng, về Hời. Ông Nhiêu ngồi xoe quần lên tận bẹn, vừa tợp rượu, vừa nhai thịt chó luộc chấm muối... Ông cứ gật lia gật lịa:
- Xong! Xong! Tôi tống khứ ngay! Tống khứ ngay!
Bữa ấy, ông Nhiêu say rượu. Hôm sau, lúc ông Ba Cấn đến để nói lại câu chuyện hôm qua cho chắc chắn, thì ông Nhiêu đã tỉnh, và ông ngần ngừ:
- Thằng Khiếu nó nói bô bô với làng nước rằng con Ngây tằng tịu...
Ông Ba Cấn gạt đi:
- Tôi đã bảo ông là nó muốn ông giết cái Ngây để ông mất làm ăn nên nó mới đặt điều ra thế. Cái “giấy” cũng ở nó. Mà cái câu xấu xa kia cũng ở nó. Con ông chí tình hại ông. Tôi biết rõ thế.
Thực tình, ông Nhiêu cũng khôn chán. Từ khi có cái “cáo bạch” dán ở cổng đình, và từ hôm thằng trưởng Khiếu nói loạn lên rằng con Ngây hư hỏng thế nọ, con Ngây hư hỏng thế kia, thì ông sợ lắm. Ông chỉ sợ con gái ông ế chồng. Rồi ông đâm ra ngại cả sự có một đứa con gái lớn ở trong nhà. Miệng tiếng của thiên hạ bây giờ ghê gớm lắm. Ông đã phải một đứa không ra gì rồi. Bởi vậy, nghe ông Ba Cấn nói, ông cũng xuôi xuôi lòng. Nhưng ông còn băn khoăn:
- Có mỗi mình nó là đầu sai chợ búa, cơm nước.
- Thì khó đâu. Ông lấy vợ cho thằng Toản đi. Cao tầy cột đình rồi đấy, còn bé bỏng gì nữa!
Ông Nhiêu ngẫm nghĩ và phục lời ấy là phải. Ông nói:
- Thôi được. Hôm nào ông mời ông Nhượng lại tôi chơi.
Ông Ba Cấn về rồi, ông Nhiêu xuống nhà ngang, nói chuyện với bà Ba. Bà Ba nói:
- Nên, ông ạ. Thằng ấy hiền lành mà ngoan đáo để. Gặp tôi đâu cũng chào. Nghe nói nó cũng chịu khó làm ăn. Con trai cứ hay làm là biết thương vợ thương con. Bà Vạng, chỉ phải nỗi mắt mũi trời bắt tội, chứ bà ta cũng là người khá.
Thế là ông Nhiêu bằng lòng trọn cả mười phần. Lúc ấy, Ngây cũng ngồi quay tơ gần đó. Nhưng tuyệt nhiên, ông không nói một lời nào với con gái. Như là ông nói câu chuyện với bà Ba không bận gì đến Ngây vậy. Ông cho rằng cái bổn phận của nàng là bổn phận phải vâng lời. Mai kia, chốc nữa lúc nào ông muốn nói thì ông nói, không lúc nào là muộn.
Song nàng Ngây đã nghe lỏm được tất cả. Và tất cả những việc quan trọng giữa những người lớn của hai nhà, nàng cũng đã biết hết. Do Hời nói chuyện với Bướm, và Bướm thuật lại cho nàng nghe. Nhưng chẳng lần nào Bướm nói lại chuyện trưởng Khiếu đánh Ngây và lời đồn bên Thượng nhà lý So có đánh tiếng sang hỏi con gái ông Nhiêu, chẳng biết là thực hay là Bướm đã nói dựng đứng lên thế.
—★—Một hôm, có một đám ăn hỏi đi vào xóm Giếng. Một thằng bé con mặc áo chùng thâm, bưng cái khay, trên để hai chai rượu trắng. Sau lưng thằng bé ấy có một thằng bé lớn hơn, cũng mặc áo dài đội một cái mâm gỗ sơn đỏ, trên đặt một buồng cau to và hai lọ chè. Một mảnh vải điều phủ lên trên các lễ vật đó. Có hai người đàn bà ăn vận tề chỉnh và một ông đứng tuổi che ô đen đi theo. Những người trong xóm thì thào với nhau:
- Đám hỏi cái Ngây đấy.
- Lão Nhượng đi dẫn hỏi cho cháu.
Có người độc miệng:
- Ăn nằm với nhau rồi, việc quái gì phải vẽ vời hỏi hiếc che mắt thế gian!
Chiều hôm ấy, Ngây và Toản đã chia cau cho các nhà bà con quen thuộc trong xóm. Toản cắp thúng, cầm cái gậy đánh chó, tung tăng đi trước chị. Ngây bước nhẹ nhàng. Trời không nắng, trời cũng không hanh, mà đôi má nàng hồng hồng.