← Quay lại trang sách

Chương 7

HỜI NÉM ĐÔI GUỐC TRE BÊ BẾT BÙN vào một xó nhà. Mới mưa xong, con đường sang bên lão lý Chi lội quá, bùn ngập đến mắt cá chân. Bà Vạng ngồi ở đầu hiên nghe tiếng con về, hỏi:

- Thế nào? Ông Nhượng đâu?

- Ông Nhượng đi ăn cỗ hàng tròm. Không xong, bầm ạ.

- Giá cứ như một mình lão lý thì ông Nhượng nói cũng xuôi. Nhưng vợ lão nhất định bắt bầm hay con phải ký giấy gán đất làm tin thì nó mới cho vay năm chục.

Hời nhìn mẹ, cắn môi. Việc chạm ngõ, việc hỏi thế là xong. Bây giờ đến lo cưới.

Bởi vì ông Nhiêu ngỏ ý muốn cho cưới ngay. Ông thách một thúng gạo nếp, một thúng gạo tẻ, một con lợn và hai mươi đồng bạc mặt. Phần nhà trai thì phải lo sắm sửa cho cô dâu. Ông Nhượng cũng bảo nên cưới năm nay. Ông đã so đôi tuổi, và mở sách ra xem, Ngây lấy Hời hợp lắm. Nhưng chỉ hợp tuổi cưới năm nay, nếu không, để hai năm nữa mới lấy nhau được. Chẳng ai muốn hỏi vợ rồi để lâu như thế mới cưới.

Các cụ nói chẳng câu nào bỏ đi. Cưới vợ thì cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ gièm pha.

Đáng lẽ cứ theo ý ông Nhiêu thì ông cho cưới vào tháng Mười một. Bởi tháng Mười thì ông cưới vợ cho thằng Toản. Ông giữ ý như thế, khỏi để người ta nói rằng nhờ tiền cưới con gái mới lấy được vợ cho con trai. Song ông Nhượng lại bảo cưới tháng Mười một không được, tháng Mười một là tháng tuổi của Hời. Phải cưới vào tháng Mười. Bởi vậy, ông Nhiêu Thục định lại rằng cưới thằng Toản đầu tháng, cho cưới cái Ngây cuối tháng.

Hời lo tiền cưới. Cứ kể ra anh có cái món tiền họ tám chục ấy nhưng anh không muốn mua non. Anh là người hay lo xa. Anh định cái món tiền đóng đó để làm vốn về sau của hai vợ chồng. Tiền của anh dành dụm, cóp nhặt cũng được một chục bạc. Tiền của bà Vạng giữ lại, mỗi khi anh sếp Từ gửi về cho, bây giờ cũng được ngót một chục bạc. Ông Nhượng lại hứa cho cháu đúng một chục. Nhưng ông kiêng, không cho trước khi cưới, mà sẽ đưa lúc hai vợ chồng cần tiền làm vốn. Bởi vẫn có cái hèm rằng đưa tiền cho đám cưới thì sái. Có như thế, chỉ cần độ vài ba chục nữa là vừa. Và ông Nhượng định bầu chủ cho cháu vay tiền nhà lý Chi. Song cứ như cái tình hình lúc nãy, thì không xong.

Lý Chi thuộc vào hạng những mặt khá trong làng. Làng Nha không có ai giàu, chỉ có ít người khá giả thôi. Lý Chi mới độ năm mươi. Nhưng cứ thích người ta gọi mình bằng cụ, cụ lý hào.

Vợ lão là người đàn bà tài đảm, chỉ ra đời bằng cách đi quay tơ mướn, như cô Bướm. Mụ quay tơ. Chồng mụ dệt cửi. Để dành được ít vốn, hai vợ chồng làm một khung lĩnh. Gặp năm đắt hàng, vợ chồng phất to. Mụ làm nhà, cưới vợ cho con, mua lý hào cho chồng. Mụ cho vay lãi, nhưng ai vay, mụ cũng bắt người ta viết gá là cầm nhà, cầm đất cho mụ. Những món tiền nhỏ, nếu chậm trả, lãi nẩy ra chóng như sen Nhật nở. Lãi lại đập vào gốc. Chẳng bao lâu, cái gốc to lên lù lù. Nặng quá, không thể trả được. Do đấy, mụ có nhiều nhà, nhiều đất trong làng.

Lão lý Chi vốn là người hiền lành và cổ quái. Cái đức sợ vợ với cái đức ở bẩn của lão ngang nhau. Lão sợ vợ là vì thói quen, là vì cái tước “lý hào” của lão do vợ mua. Thường vợ lão vẫn túm râu lão, nhốt vào buồng cầm phất trần đánh chơi. Cả làng ai cũng biết. Bởi sự đã nhàm, nên khi nghe ông lý Chi, ở trong buồng tối, rên ấm ứ và khóc hu hu, cũng chẳng ai ngạc nhiên. Ông khóc rồi ông lại nín, có làm sao và có hề gì ai đâu. Cho nên ông có một tên nữa là ông lý Quặp. Còn cái đức ở bẩn của lão thì có lẽ do tính trời phú cho.

Lão thường kể rằng từ năm vua Khải Định ra Hà Nội chơi đến giờ, lão chỉ mới tắm có vài bận. Không hiểu vì lẽ gì mà cứ mỗi lần tắm, lão lại ốm một trận tưởng chết. Mười mấy năm nay thì lão chừa hẳn tắm. Những ngày mùa hè có nắng to, lão chỉ rấp cái khăn mặt ướt lau mình. Có một điều kỳ là trông người lão cũng trăng trắng, chứ không vân ám lên những đất. Nhưng một đôi khi, ngồi nói chuyện với người ta, buồn tay lão gãi gãi thường xoe được những viên đất to bằng hạt ngô nếp. Lão co móng tay, gẩy tách đi một cái. Còn lão có hôi nách không thì ít ai rõ. Vợ lão cũng chỉ chửi và đánh lão những tội lỗi đâu đâu, chứ không hề hạch đến tội ở bẩn. Bà lão cũng cho là cái việc trời sinh ra thế. Bởi bà vẫn nói: “Lão nhà tôi mà giở chứng ra tắm là giở chứng chết đấy!”.

Ông Nhượng có quen thuộc buôn bán với bà lý Chi. Ông đã hỏi vay hộ Hời từ hôm nọ. Nhưng bà lão nhắn ông bảo Hời đến. Hôm nay Hời đến thì bà lão nói:

- Tôi cho bác vay năm chục. Nhưng bác phải làm giấy đoạn mại cho tôi chỗ đất nhà bác. Gọi là làm giấy cho phải phép với nhà nước thôi, chứ đến cuối năm bác tính toán trả tôi cả gốc lẫn lãi, hay là bác trả góp tháng cho đến hết, thì tôi lại viết sang trả bác.

Ai đi vay cũng biết rằng đấy là một cái bẫy. Anh Hời và ông Nhượng đành cáo thoái. Hẹn rồi sẽ đến trả lời sau. Nói cho có cớ thế chứ, Hời còn đến cửa nhà ấy làm gì nữa, khi Hời không muốn mất nhà.

Từ lúc con về nói như vậy, bà Vạng không bàn thêm một câu nào. Ăn cơm chiều xong, bà mới bảo Hời:

- Bầm nghĩ thế này, có nhẽ tiện hơn.

- Bầm nghĩ sao?

- Mai mày thử sang bên anh thơ Bảy.

- Sang Bắc hử?

- Có nhẽ được đấy. Mà lại nhẹ mình, chẳng phải nói khó với ai.

Bà Vạng đã nghĩ đến nhà chồng người con gái xấu số của bà ở bên kia sông. Nó làm thư ký trong làng, nhà nó có hai trâu cày. Nó lại tử tế, thỉnh thoảng vẫn sang chơi với bà. Vả, tiện hơn nữa là, nó vẫn chưa tục huyền. Vì hết trở vợ, thơ Bảy lại phải chịu ngay tang ông bố.

- Hôm nay đã là hai mươi bảy tháng Chín. Phải liệu viện phiên phiến đi thì vừa. Mày sang bên ấy, có thế nào, sáng ngày kia về sớm, đừng có ở nấn ná như mọi khi mà nhỡ cả công việc đấy.

Hời cũng thấy rằng công việc của mình sắp đến nơi rồi, nếu không mau mau tay thì nhỡ bét. Đến cuối cùng mới đi chạy tiền thì làng nước người ta cười cho. Mùng năm này là cưới thằng Toản. Thằng Toản lấy cái Lụa. Toản mười bốn, cái Lụa hơn Toản đúng năm tuổi. Nếu Ngây về nhà chồng thì ở nhà cần người làm lắm. Cưới là cưới người về làm đấy chứ. Vả lại, Lụa là bạn Ngây, Ngây biết tính nết nó.

Song Ngây chẳng biết Lụa đã yêu anh Thìn, người bên xóm Lẻ. Cái chuyện tình ấy vừa chớm lên, chưa mấy ai rõ. Thìn mới chỉ rủ được Lụa ra đồng nói chuyện có một buổi trưa. Đồng vắng mà lúa tháng Chín thì cao ngập đầu người. Hai người ngồi ở vệ ruộng tay tẩn mẩn bứt cỏ nói chuyện bâng quơ. Mới có thế, và Lụa mới chỉ cười tít hai mắt lại. Thế rồi bỗng nhiên làng nước người ta nói rằng ông Nhiêu Thục sắp lấy cái Lụa cho thằng Toản. Đến đầu tháng Mười này thì cưới. Thìn choáng người, cơ hồ như có ai giội cả một chậu nước lạnh vào cổ. Thìn đón Lụa để hỏi. Nàng bùi ngùi mà rằng:

- Thày u em bắt buộc.

- Thằng Toản bé bằng cái nhép ranh mà em cũng bằng lòng à?

- Thưa anh, chỉ vì thày u em bắt buộc.

Thìn im, không hỏi nữa. Hai người bạn yêu chia tay nhau lần cuối. Anh chàng biết ngay thôi thế là mình thất vọng vì tình rồi. Giá có gặng nữa, chắc nàng cũng chỉ nói độc một câu buông lửng ấy. Mảnh tình nhỏ bé của anh Thìn bay nhẹ lên trời. Thìn buồn lắm. Mấy bữa sau, nhân có giấy sức về làng gọi lính khố xanh, Thìn liền vào phủ đi tuyển và được trúng cách ngay. Người ta đem chàng lên tỉnh tập vác súng và đi ắc ê. Chàng cũng đương muốn được đi đâu khỏi làng Nha cho khuất mắt.

Thìn cũng là bạn của Hời. Nhưng khi Thìn đi vào lính, Hời vội, chẳng chạy lại hỏi thăm được. Chàng còn vội bao nhiêu việc nóng. Đại khái như cái việc mẹ bảo anh sang nhà anh thơ Bảy bên Bắc để hỏi vay tiền.

Sáng hôm đi sang Bắc, Hời tạt lại đằng nhà ông Nhượng, để nói chuyện cho ông rõ. Và để bảo con bé nhà ông Nhượng lại ngủ và thổi cơm cho bà Vạng.

—★—

Bác trạm tráng lò khò dắt cái xe đạp đi vào làng Nha. Ấy là người đưa thư của hàng tổng. Bác mặc áo vải vàng, quần nâu, đầu đội chiếc nón chóp đã rách tơi, như đính những lông gà, lông vịt. Đôi guốc gỗ mộc ở chân, có hai cái quai đen bằng lốp xe đạp cao tới gần một gang tay. Những xỏ vào chân cũng đã nặng. Mặt, và hai mu bàn tay bác đen sạm. Ở tất cả người bác tiết ra một cái màu gì mốc trăng trắng. Đó là màu bụi đóng, màu nắng dãi và màu mồ hôi kinh niên.

Bác dắt cái xe đạp và đeo trên lưng chiếc bì khố tải, trong đựng các thư từ giấy má. Chiếc xe đạp ấy cũng như bác, đen đủi và ngẩn ngơ. Có nhiều thứ đồ máy móc ở trên xe đã được thay cẩn thận. Ví như hai miếng cao su ở phanh thì là hai mảnh lõi rễ. Cái ghi đông ngòng ngoèo không còn là cái ghi đông bằng sắt ngòng ngoèo, mà là một cành duối rất cằn được đẽo, gọt, hun bóng lên rồi cắm thực chặt vào cái nõ xe. Có sao đâu! Ngồi lên xe, bác vẫn có thể dễ dàng lái sang bên phải, lái sang bên trái như chơi. Cũng vì cái xe đạp ấy mà bác đưa thư đã làm cho một cô con gái ấp Đông tương tư lăn lóc. Hồi bấy giờ, xe đạp còn hiếm lắm, ở vùng này. Có ông chánh tổng lý trưởng, bác trạm tráng, ngoài ra chẳng một ai có xe đạp. Mỗi khi nghe tiếng chuông kính coong lanh lảnh ở ngoài vệ đê, hàng đàn trẻ con chạy theo xem. Bác trạm ghếch cái xe ở đâu, cũng có người đứng ngắm nghía. Lũ trẻ thì quay cái bê đan trở lại để được nghe những tiếng kêu tạch tạch. Ai cũng tấm tắc khen ngợi và phục bác trạm, ngồi trên cái xe có hai bánh dựng đứng một chiều, chỉ đạp đạp có mấy đạp mà đã chạy ve ve biến bóng đi rất xa. Thuở ấy, bác trạm còn trẻ. Bác làm việc đưa thư cho nhà nước hơn mười năm rồi. Mỗi hôm, bác ra trạm phủ lĩnh thư rồi đi phát khắp hàng tổng. Bác làm việc từ khi những người trong làng còn ngơ ngác về sự làm ăn của bác. Bây giờ thì đã thường. Bác chỉ là anh phu trạm đi đưa thư cho những người đi xa, nhờ nhà nước mang hộ. Thế thôi.

Ngày trước mỗi lần bác phu trạm đi vào trong ấp Đông qua một ngõ xóm có nhiều rặng cúc tần, nghe véo von có tiếng con gái hát:

Thương nhớ ai ra ngẩn, vào ngơ

Đêm quên giấc ngủ, ngày mơ trận cười.

Đêm năm canh, ngày sáu khắc, chàng ơi!

Chàng cười nửa miệng, thiếp tôi vui nửa lòng.

Đầu tiên, bác cũng không để tâm. Sau, thấy câu hát buổi nào cũng láy lại một cách mải mê như thế, bác mới để ý. Và một hôm, bác nhìn qua lũy cúc tần xanh rờn giăng mắc những sợi tơ hồng vàng óng thì thấy có đôi mắt đen lay láy nhìn ra. Từ ấy hai đôi mắt thường gặp nhau. Cũng từ ấy, người ta thấy bác trạm tráng hay chải đầu mượt và mỉm cười. Năm sau, bác cưới người con gái ấp Đông. Vợ chồng ở với nhau được ba năm, đẻ hai lần nhưng đều bỏ cả. Rồi bác trạm gái theo người nhà ngược lên Chũ buôn củ nâu. Và bác trạm gái lấy chồng khác trên ấy, không về với bác trạm tráng nữa. Bác trạm trai biết vậy, do những người quen về kể chuyện, nhưng bác cũng chẳng có dịp nào lên tìm tận Chũ, bác bận việc quan luôn luôn. Rồi bác cũng lấy vợ khác. Người đàn bà này sinh với bác một thằng con trai. Hiện bác gái đang ốm tê liệt giường liệt chiếu từ tháng Hai tới giờ. Ấy là những đoạn tình buồn của bác phu trạm làng Nha.

Hôm nay, bác dắt xe đạp vào làng Nha và rẽ về xóm Duối. Chó ở trong xóm nghe tiếng xe ranh rách tạch tạch, cắn inh lên. Bác đi ngoặt vào một cái ngõ trồng dừa, lá xanh lủa tủa, qua gốc cây đề, qua lạch nước trên bắc một hòn đá tảng xanh lớn. Bác vượt cái cổng tán, vào trong sân nhà anh Hời. Con chó đen thấy người lạ, xổ ra cắn ăng ẳng. Nhưng người ta tiến thì con chó lùi. Sau cùng nó thụt và lỗ gạch tối om, chỉ thò cái mồm có hai hàm răng trắng tởn nhe ra chửi mắng người ta. Như đã quen lệ, bác trạm tráng bóp chuông. Cái chuông xe đạp kêu lọc cọc. Bởi cái chuông ốm bệnh rỉ và cái lá mía gẫy.

- Có ai trong nhà không?

Cái Nhi - con ông Nhượng - thò đầu ra nhòm. Bà Vạng nghe thấy tiếng chuông xe đạp, run run hỏi Nhi:

- Ai thế hử cháu?

- Bác trạm tráng.

Bà Vạng chớp chớp mắt, thở mạnh ra.

Chắc bà cảm động lắm. Bà chào vọng ra:

- Chào bác trạm. Mời bác vào chơi trong này.

Bác trạm cúi đầu khom khom qua cửa. Bác ngồi xuống phản, cởi cái bao vải ở lưng xuống. Bác nhìn quanh, hỏi:

- Bác cả có nhà không, cụ?

- Cháu nó đi vắng.

- Có lơ-com-măng-đê Sài Gòòng.

- Thư của cháu cả nhà tôi?

- Phải. Nhưng lơ-com-măng-đê cơ.

Và bác cắt nghĩa:

- Lơ-com-măng-đê là măng-đa, măng đa là tiền. Măng-đa năm kia cũng có đấy mà.

Nghe tiếng măng-đa, bà Vạng choáng người, chớp mắt liền liền:

- Thế hử? Cháu lại đi chơi sang nhà em nó ở bên Bắc.

- Chốc nữa có về không?

- Chắc là mai mới về được. Cháu vừa đi ban sáng.

- Thôi thì mai tôi đến. Com-măng-đê phải lên phủ lĩnh thư, rồi lên tỉnh lĩnh tiền đấy.

Trong khi bà Vạng và bác trạm nói chuyện, cái Nhi đã chạy tót về gọi bố. Ông Nhượng lật đật đến thì bác trạm đã dắt xe đạp ra đến đầu ngõ. Ông hỏi:

- Gì thế, bác trạm?

- Lơ-com-măng-đê Sài Gòòng.

Rồi bác lại cắm cúi đi, cái nón lông gà ngật ra đằng sau. Bác lên nhà ông lý để giao thư. Phàm những thư từ gởi cho người làng đều do bác trạm đưa ông lý, rồi ông lý phát chuyển cho mọi người. Hôm nay bác đến nhà Hời trước, vì đấy là cái thư có măng-đa. Tiền của người ta, bác cũng hy vọng được chấm mút chút đỉnh.

Cả đêm ấy, bà Vạng trằn trọc ngủ không yên. Bà mong Hời và nghĩ đến hai chữ măng-đa. Măng-đa là những đồng bạc trắng tròn tròn, những chiếc giấy bạc thơm thơm của sếp Từ gửi nhà nước đem về cho bà.

Hôm sau, Hời về. Anh đi bộ từ lúc gà gáy tan canh đến lúc mặt trời lên khỏi ngọn tre thì tới nhà. Chú thơ Bảy đã hứa cho Hời vay mười đồng. Nhưng nửa tháng nữa thì hắn mới sắp được tiền thóc và bấy giờ sẽ mang sang tận nơi. Hời vừa về đến nhà, bà Vạng đã thì thầm khoe:

- Có măng-đa Sài Gòòng, mày ạ!

Chắc Hời cũng sung sướng ngang như mẹ... Bởi vì mắt anh sáng lên:

- Thế ạ?

- Hôm nay, bác trạm lại đến. Thế thì có tiền nhỉ?

Hời giảng cho mẹ:

- Bác trạm mang tờ giấy đến thôi. Ta phải đem giấy lên trạm phủ cùng với một người có giấy căn cước và ông lý. Bấy giờ mới lấy được măng-đa ra, lại phải đem măng-đa đi lên tỉnh với ông lý. Ông lý đóng triện, tôi điểm chỉ. Rồi sở Kho Bạc mới phát tiền, bầm ạ.

- Việc nhà nước, quái nhỉ? Cũng may, đương lúc nhà ta lo tiền. Nói lạy trời, thày mày thiêng lắm. Thày mày giục thằng cả gửi tiền về cho đấy.

Hời mỉm cười. Trưa hôm ấy, bác trạm lại dắt xe đạp, đeo bì thư, lò dò đến.

Bác đưa cho Hời một tờ giấy chi chít chữ nho và quốc ngữ. Hời lại nhờ ngay bác trạm đọc. Hời nói pha:

- Biết chữ sướng thật. Đọc thoắt một cái xong.

- Dễ lắm. Bác học đi. Chỉ có một tháng chịu khó là đã đọc được Truyện Kiều vanh vách rồi.

Bác trạm đọc rằng anh Hời phải lên trạm phủ lĩnh thư cùng với lý trưởng, cùng với hai người có giấy căn cước. Đại khái cũng như Hời đã biết và đã giảng nghĩa cho mẹ nghe.

Ngay hôm ấy, Hời cùng với ông lý Kha và bác bếp Trạch - một ông binh mãn khóa - ngồi xe tay lên phủ Hoài. Mấy lần lĩnh thư, Hời đều nhờ hai người ấy nên đã quen. Ông lý Kha đi xe đạp trước. Hời ngồi cùng một xe tay với bếp Trạch. Đường xa chừng mấy cây số. Giá đi một mình tất Hời lẽo đẽo đi đất.

Vào trạm phủ, ông lý Kha áp triện, bác bếp Trạch đưa căn cước ra cho ông cai trạm xem. Ông này xem thực cẩn thận, biên lại rồi đưa ra một cái thư cho Hời sau khi Hời đã điểm chỉ vân ngón tay rất rõ ràng vào hai quyển sổ. Ông cai trạm bảo Hời:

- Bác lấy một cái căn cước có phải nhẹm việc không?

Hời khúm núm, lúng túng:

- Bẩm...

Trở về đến làng, Hời biếu bác bếp Trạch năm hào. Bác bếp nhăn nhở cười, nói: “Vẽ chuyện!”, nhưng cũng cầm tiền, bỏ tõm vào cái túi áo bành tô vàng. Tối hôm ấy, Hời mời Thoại đến chơi. Anh đi mua chè mạn, pha một ấm đầy. Hời đưa phong thư ra cho Thoại. Cái phong thư, ngoài bì đề là tên ông Bùi-Văn-Từ, surveillant N.217, plantation Lộc-ninh, Thủ-dầu-một, gửi cho ông Bùi-Văn-Hời, xóm Duối, Hạ-nha thôn, tổng Vọng, phủ Hoài, tỉnh Hà-đông.

Thoại kề thư vào ánh đèn trịnh trọng đọc cho Hời và bà Vạng nghe. Thơ rằng:

Lộc-ninh le 3 tháng Chín năm 193...

Thưa bầm,

Nay vợ chồng con cái nhà con là Từ có vài lời về thăm bầm với chú Hời được bình yên mạnh khỏe, làm ăn buôn bán phát tài thì vợ chồng nhà con lấy làm mừng lắm. Còn chúng con ở trong này nhờ ơn thánh tổ cũng được như thường. Sau con lại có nhời hỏi thăm ông Nhượng, bà Nhượng, các em con, vợ chồng chú Ba Ty, ngoài nhà bà Hiệt, đồng nội ngoại gia quyến trong họ ngoài làng đều được mạnh giỏi, vợ chồng chúng con mừng lắm. Sau con xin thưa chuyện tái bút để bầm biết rằng con gửi măng-đa này hai mươi nhăm đồng bạc về thì năm đồng để biếu bầm ăn quà, năm đồng cho chú Hời để dành làm vốn lấy vợ, năm đồng để mua thuốc đau mắt. Còn mười đồng thì bầm bảo chú Hời xem có cái lĩnh thực tốt, mua cho vợ chồng tôi một tấm đằng dầy để nhà tôi mấy hai cháu may quần áo Tết. Trong này không có cái lĩnh tốt như ở làng ta.

Bắt được thư này chú Hời đi lĩnh tiền rồi mua lĩnh gửi ngay vào cho vợ chồng tôi. Cứ gửi com-măng-đê đề tên tôi vào sở tôi thì thế nào tôi cũng nhận được.

Thư bất tận ngôn

Kính thư

Kèm với lá thư, là tờ măng-đa vẽ hoa vàng và chữ đỏ. Thoại về rồi, bà Vạng bảo con:

- Ban chiều, ông Nhượng đến bảo rằng con mẹ lý Chi nó lại bằng lòng cho vay. Nhưng chỉ có mười đồng thôi. Lãi mười phân.

- Thế là bao nhiêu?

- Mười đồng thì mỗi tháng lãi một đồng.

- Chịu thôi, bầm ạ. Lãi thế thì bằng cứa cổ người ta.

- Mày rõ không biết liệu. Bầm thử tính cho mày xem nhé! Mười đồng của anh thơ Bảy, của nhà hai chục, hơn hai chục của anh cả mày gửi về đấy, hãy cứ mượn tạm, rồi ít nữa mua lĩnh sau, hay là gửi thư vào cho anh ấy biết mày cưới vợ để có tiền gởi thêm ra càng hay. Thế là vị chi đi hơn năm mươi đồng. Với mười đồng của ông Nhượng cho là hơn sáu mươi đồng. Rồi nào tiền dẫn cưới, tiền lợn gà, dễ cưới một mình, không mời ai nữa phỏng? Chỉ biết đi ăn của người ta thôi ư?

Lại tiền may mặc cho cô dâu chú rể. Trăm thứ tiền đều tiêu vào đấy. Bầm đã bàn để nhờ ông bà Nhượng sang mua bán, khách khứa giúp tất cả.

Thế thì cứ cầm mười đồng của nhà lý Chi. Bằng mà không phải tiêu đến, ta trả lại cũng được cơ mà.

Thôi mày đi ngủ để mai còn dậy sớm lên tỉnh.

Tờ mờ sáng hôm sau, Hời đã lên đến tỉnh lỵ Hà Đông. Cố nhiên là đi đất. Ông lý Kha thì đi xe đạp thong thả đằng trước. Ông lý, đợi giờ hầu, dẫn Hời vào sở Kho Bạc. Hời đưa măng-đa, ông lý Kha đóng đồng triện nhận thực. Hời lĩnh đủ hai mươi nhăm đồng bạc giấy mới tinh tươm.

Ông lý Kha và Hời ra chợ Đơ, chén một bữa rượu thịt chó. Hai người cùng say chếnh choáng. Hời đưa biếu ông hai đồng. Ông không lấy, chê ít quá. Vì ông phải đóng những hai lần triện và phải lên phủ, lại lên tỉnh. Hời đưa thêm một đồng, ông mới bằng lòng.

Trở về, ông lý phóng xe đạp về trước. Hời đi đất lững thững. Bữa ấy, cao hứng, anh đi xe ghép với một tay lái bò, hết hai hào rưỡi, về tận cầu Phượng.

Hai hôm sau, bác trạm tráng lại đến. Vừa trông thấy Hời, bác nhoẻn miệng cười:

- Thế nào? Người anh em...

Hời đã hiểu. Anh vào mở chìa khóa cái hòm phản lấy ba hào, đưa biếu bác trạm tráng.