← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ HAI Chương 1

MỘT BUỔI TỐI, mùa xuân năm sau. Làng Thượng tháng Ba vào đám lệ, có hát chèo.

Các nhà ở xung quanh mấy làng đấy, đều nghỉ dệt cửi tối kéo đi xem. Vậy mà trong xóm Duối, ở một nếp nhà ba gian, hai chái giữa một khoảng vườn nhỏ, vẫn còn thấp thoáng ánh đèn và có tiếng dệt cửi, có tiếng quay tơ. Ngó qua khe cửa liếp, người ta thấy một người đàn ông ngồi trên khung cửi, cắm cúi đưa thoi. Thoi đưa liền liền, thoăn thoắt qua mặt cửi vàng muốt. Chiếc đèn ba dây treo cạnh đấy, đủ sáng cả cho một người đàn bà ngồi quay tơ. Người đàn bà ngồi duỗi chân trên phản, tựa lưng vào cột, một tay giữ mối tơ, một tay xóc đều đều chiếc lồng. Cái lồng cuốn tơ vào ống. Chiếc vầy ở dưới tháo tơ ra. Tiếng lóc cóc, lóc cóc giòn giã và nhịp nhàng. Đôi khi, người đàn bà ngừng tay quay, đặt ống xuống gỡ một cái ghẻ tơ, hoặc nối một đoạn tơ xấu.

Trong ánh đèn vừa sáng, người đàn bà ấy có một thần sắc cũng dễ trông. Đôi mắt đen mà sáng. Cặp má bầu bĩnh. Khuôn mặt đầy đặn. Nàng cất tiếng hát nho nhỏ. Giọng ấy là giọng thợ cấy mà những người làm ruộng thường hát ở ngoài đồng. Tiếng vời vợi đưa cao êm nhẹ, lẩn vào những tiếng khua động của lồng tơ, của khung cửi.

Anh đã có vợ hay chưa

Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào.

Mẹ già anh để nơi nao

Để em tìm vào hầu hạ thay anh.

Chả tham nhà ngói rung rinh

Tham về một nỗi anh xinh miệng cười.

Miệng cười anh đáng mấy mươi

Chân đi đáng nén, miệng cười đáng trăm.

Tờ giấy hồng, anh phong chữ thọ

Anh gửi thư này cả họ bình yên...

Người đàn ông, tuy chăm chú dệt cửi nhưng chắc cũng lắng tai nghe. Anh chàng tủm tỉm cười, càng băm bổ dệt nhanh nhoay nhoáy. Chị chàng cũng múm mím tình tứ lim dim đôi mắt liếc nhìn chồng. Rồi tiếng vầy tơ lại rền lên đằm đằm.

Đấy là hai vợ chồng anh Hời. Cái mộng mà bấy nay anh hằng mong mỏi và xây đắp có thể nói rằng bây giờ đã đạt. Năm ngoái anh lấy vợ. Cưới xin xong ông Nhượng tính toán vừa vặn, không còn thừa xu nhỏ, tiêu hết cả món tiền mười đồng vay của mụ lý Chi mà bà Vạng cầm tạm. Bấy giờ ông Nhượng mới đưa ra cho hai vợ chồng mười đồng. Đáng lẽ, mười đồng bạc ấy dùng để mua lĩnh gởi vào Sài Gòòng cho anh Từ thì vừa. Bà Vạng muốn thế, mà cả Hời nghĩ cũng như vậy. Song may quá, đương khi sắp sửa mua lĩnh gởi đi, thì nhận được thư của sếp Từ. Thư nói rằng nếu Hời lấy vợ thì thôi, chẳng phải mua lĩnh gửi vào nữa. Ở trong ấy anh Từ xuống Chợ-lớn mua lấy cũng được. Cái món tiền mười đồng kia là tiền của Từ mừng Hời, Hời mừng quá. Chàng nhờ ngay Thoại viết giúp một lá thư “đánh” luôn vào, để cảm ơn anh. Cũng bắt chước anh, và để chung với vợ một sự sung sướng rất danh dự, Hời nhờ Thoại viết cho câu đầu lá thư như vầy:

“Nay vợ chồng chúng em là Hời, có mấy lời vào hỏi thăm anh chị...”

Có món tiền mười đồng ấy, Tết Nguyên đán năm đó, gia đình Hời được những ngày êm đềm - và lại nhiễm cả vẻ phong lưu. Ngây mua dưa hành về muối từ hăm hai tháng Chạp. Hời chung tiền với hàng xóm để đụng thịt bò, lại cả thịt lợn. Bánh chưng gói từ hăm bảy, xơi mãi đến rằm tháng Giêng mới thực cạn. Tết đó trong bếp treo lủng củng những quang nồi, quang niêu. Này là nồi cá kho; này là nồi thịt bò buộc lạt; này là thịt đông; lại này niêu thịt kho tầu, niêu xương sườn om, niêu tôm rim. Chỉ dôi mươi đồng bạc mà cả một nhà được no ấm phê pha.

Riêng với Hời, từ thủa bé, chưa cái Tết lớn nào anh được ăn ngon và thú vị đến thế. Hôm mùng Một, anh sang lễ và mừng tuổi bên bố vợ. Anh ăn cỗ bên ấy, uống rượu khề khà với ông Nhiêu, với cậu Ba Toản rồi quanh quẩn mãi đến chập tối mới về. Mùng Hai, anh đi lễ mấy nhà trong họ, rồi lại sang bố vợ. Ông Nhiêu cùng Ba Toản dẫn anh hai Hời đi Tết khắp các nhà quen.

Vì năm nay có chàng rể mới, nên ông Nhiêu dẫn đi nhiều nhà quá. Chiều về, hai đầu gối anh mỏi như dần. Giá yếu và không lễ quen thì đã sưng lên rồi. Anh kể cho vợ nghe đã vào từng nhà ai, nhà ai một. Vợ anh giảng cho anh rõ là những nhà ấy, nhà ấy thì họ hàng xa hay gần, nội hay ngoại thế nào với nhà ta đó. Sang ngày mùng Ba, mới thực là ngày của anh. Nhưng anh cũng chỉ loanh quanh ở nhà với vợ thôi. Không đi xóc đĩa, không thò lò, mà đến chơi tam cúc anh cũng không chơi; vợ anh cũng như anh, ít đi ra ngoài. Phải như khi còn con gái ở nhà bắt đầu từ ngày mùng Hai trở ra đến ngày mùng Bảy, không ngày nào Ngây không cùng các chị em bạn ríu rít rủ nhau đi lễ các chùa.

Khuyên lại chơi, nói đùa: “Năm nay chị lễ chùa nhà rồi, chẳng thiết đi đâu nữa!” Nàng mỉm cười. Bởi nàng cho rằng đã có chồng mà còn đi chơi la cà, người ta sẽ bảo là gái không đứng đắn. Hôm mùng Bốn, nàng mới cùng Bướm, cậu Ba Toản xuống lễ dưới chùa Vạn. Nàng xin quẻ thẻ rồi gài trong vành khăn, mang về nhờ người xem và đoán hộ. Ấy là quẻ trung bình chi triệu, thánh dạy rằng làm ăn cả năm nay, cái gì cũng phát tài thường thường thôi. Và cuối năm sinh con gái.

Còn bà Vạng, năm nay cũng khác mọi năm. Những năm xưa, có khi Hời bực mình đã phải gắt nhau với mẹ. Bởi vì, chiều Ba Mươi nào bà cũng khóc lóc rền rĩ. Bà ngồi bên cái hương án mộc, hai tay ấp lên mặt. Bà khóc đứa con gái chết đắm đò ở bến Hối, bà khóc người con cả đi làm ăn xa xôi Tết nhất quên cả ông bà ông vải, bà khóc cho hai con mắt đui mù của bà, và bà khóc chồng bà, bỏ bà bơ vơ tay trắng nuôi con từ năm bà hai mươi tám tuổi đầu. Bà cứ ngồi kể lể lải nhải, tỉ tê khóc lóc, lúc gào thành tiếng om sòm, lúc rên rẩm ran rỉ. Trong một đêm quạnh quẽ, nghe thảm thiết như trong nhà vừa có người nằm xuống. Bà thường khóc từ chập tối cho tới lúc gần sang canh, nghe xa xa đã dạo lên những tiếng pháo và tiếng trống lác đác. Trước Hời cũng can mẹ. Nhưng rồi biết không thể nào can được, những năm sau, Hời để mặc mẹ khóc lóc nỉ non.

Năm nay, bà không khóc trong đêm Ba Mươi nữa. Bà bảo con thắp hương từ chập tối, rồi bà đi ngủ, thường thường như mọi ngày. Đến Giao thừa bà trở dậy và ngồi chơi, nói chuyện với con trai và con dâu từ bấy giờ tới sáng. Trong mấy ngày Tết, chỉ thỉnh thoảng, bà mới nhắc: “Giá có thằng cả về nữa thì vui quá nhỉ”.

Bà kém mắt, không đi lễ bái chùa chiền nào được, đành giữ việc trông nhà. Nhưng bà cũng chẳng quên dặn Ngây xóc hộ cho một quẻ thẻ ở dưới chùa Vạn.

Sang giêng, có mấy nhà trong làng định gọi Hời dệt cửi. Nhưng Hời từ chối, nói rằng năm nay chàng làm ăn ở nhà. Hời chẳng ngoa chút nào. Hời mua non tên họ tám chục. Được năm mươi tám đồng. Là thừa vốn để làm một khung cửi lĩnh rồi.

Ngây đi chợ mua tơ mở hàng. Nàng lấy bốn nén tơ Hưng-yên, nhỏ con mà đẹp, sợi vàng ong óng. Hai vợ chồng làm một khung lĩnh năm bàn, thứ lĩnh này nhẹ dễ dệt và bán đương chạy tay. Mỗi phiên, Hời dệt cố được sáu tấm. Hời dệt cửi, Ngây làm hồ. Bà Vạng sờ sẫm quay cũng đủ theo được sợi ngang để đánh suốt. Chỉ phải mượn có một suất thợ hồ và một thằng bé con ở tháng làm việc vặt. Thằng bé mướn không mất tiền. Nó ở không cốt để học lấy nghề. Nó là con ông Cả Thao, cháu của Thoại. Còn tơ để mắc cửi dọc thì Ngây cân đi cho người ta quay, chứ không mượn thợ về nhà. Ngày phiên, Ngây đi chợ bán lĩnh.

Khung cửi nhà Hời bắt đầu dệt từ mười sáu tháng Giêng. Cái khung còn tốt, may mà chàng mua lại được bằng một giá cũng rẻ. Hời dệt ngày, Hời dệt đêm, rất chịu khó chăm chỉ. Ăn cơm xong chàng vào khung cửi. Hễ có việc phải đi đâu, anh chạy cung cúc để về cho chóng. Dễ đến cả phiên chợ, anh không bước ra tới đầu xóm.

Người ta cố kỉnh làm ăn cho người ta cũng khác. Trước kia, Hời ít đầu tắt mặt tối như thế. Cơm ngữ, dệt thuê lấy tiền tấm, anh làm phải chăng, có chừng. Cuộc đời đứng đắn và tính toán, từ khi lấy vợ.

—★—

Hời gõ cánh văng xuống mặt cửi:

- Hết suốt rồi!

Ngây duỗi chân hỏi:

- Nghỉ thôi chứ?

- Nghỉ.

Hời bước ra khỏi khung cửi trong khi Ngây xách đèn vào, treo lên móc, gỡ nhịp những sợi tơ dọc. Gỡ xong, nàng lấy những tờ nhật trình lớn bọc kín cả mặt cửi và mặt hàng lại. Phải đậy cẩn thận như thế, sợ đêm hôm những con gián ở trong các khe cửa ngửi thấy mùi hồ chua chua, mà bò ra nhấm nháp sợi tơ đứt thì nguy lắm. Làm nghề này sợ nhất cái giống quái ác ấy. Những người đàn bà nhiều khi tránh không dám gọi tên con gián mà gọi là con giời. Và hễ ai trông thấy các chú thập thò ở khe ngách nào, cũng bắt cho kỳ được, ngắt đầu đi, giết chết.

Hời xách đôi guốc mộc ra sân rửa chân. Ấy là cái dấu hiệu để tỏ rằng chàng đã nghỉ dệt và sắp đi ngủ. Không bao giờ, trừ khi ốm và những ngày Tết, người ta mới kệnh rệnh ban ngày đi đôi guốc.

Hời chỉ giội tí nước ao, day qua mấy cái, xỏ chân vào guốc. Thế đã cho là đủ sạch. Vào trong nhà, Hời bảo vợ:

- Đứng ngoài sân cũng nghe rõ mồn một tiếng trống chèo bên Thượng.

- Thấy nói chèo vui lắm. Nhà đi xem chứ?

Ngây nghe chị Khuyên cũng rủ Ngây vậy. Ban chiều, Khuyên đến chơi, rủ Ngây đi xem, Ngây từ chối: “Bận ít dọc mắc cửi, em xin kiếu”. Khuyên biết ý Ngây không muốn đi, thôi chẳng rủ nữa. Mà cũng là Ngây không thích đi xem thực. Phải như xưa, bận mấy cô ả cũng hãy để dấp đấy, đi nhởn cái đã.

Hời với tay lên mắc, lấy cái áo lụa nâu. Chàng cười, bảo vợ:

- Ừ, chả nhẽ. Mình cũng phải nên đi xem một tẹo. Chúng nó cứ nói tức, khó chịu quá. Sao mợ không đi từ chiều với cô Khuyên?

- Tôi ý à? Tôi không đi. Nếu đi thì đã đi với các chị ấy rồi.

Hời xách gậy, ra sân. Ngây cũng tắt đèn khung cửi bước ra khỏi bậc cửa. Trời tối như ở trong đĩa mực. Trăng non nhạt nhẽo xế đi và đã lặn từ lúc nãy. Nền trời đen thẫm và sâu bát ngát. Vô vàn những vì sao to, sao nhỏ lấp láy, ẩn hiện. Không có gió nhưng cũng mát, hơi mát ngăm ngăm lạnh. Đó là cái khí hậu dịu dàng, riêng của những đêm cuối xuân. Văng vẳng, xa xa tiếng trống chèo.

Ngây bỗng nói với chồng, như là một điều gì nàng vừa nghĩ ra.

- Này, nhà ạ...

Nàng rất thích gọi chồng bằng nhà. Bởi dùng chữ “cậu” ngại ra lối Kẻ Chợ quá mà gọi chồng là mình thì người ta bảo là cô nhà trò nhà thổ. Nhà nhà ơi, nhà nó ơi. Nghe tiện lắm.

Hời thấy vợ nói thì dừng lại:

- Gì hử?

- Cái việc lúc chiều nay.

Hời hấp tấp:

- Ừ nhỉ. Lú đi mất. Thế nào hử mợ?

- Bầm bảo vậy thì đúng đấy.

- Đúng hả?

Nếu ban ngày thì biết là Ngây cười, nên nàng nói chậm chậm.

- Ừ... đúng.

Hời bước ra ngõ xóm. Lòng chàng rung lên một hồi hộp và cảm động mới mẻ, sung sướng, không nói ra lời được.

Cái sự “ban chiều” Ngây nói nhỏ với chồng rằng bữa kia, nàng chẳng ăn gì mà lại rạo rực nôn khan và trong người gây gấy váng vất. Nàng chia với chồng sự ngạc nhiên ấy - dù là sự ngạc nhiên cố ý, bởi nàng đã biết sự đó ra sao rồi. Nhưng nàng cũng cứ hỏi. Chàng cũng trả lời ngờ ngợ:

- Dễ thường phải.

Và chàng xui vợ hỏi mẹ. Thì bà Vạng cảm động trợn mắt lên mà rằng:

- Thế à? Mày có mang đấy. Tuần trăng này thì là qua một tháng rồi.

Chẳng may bà Nhiêu lại mất sớm, nếu không ắt Ngây đã chạy về khoe với mẹ. Bây giờ nàng nói lại với chồng cái chuyện ấy, làm bộ ra lối hơi ngường ngượng, nhưng ngày mai, ngày kia mà đi ra đường, chắc nàng sẽ ngượng thực. Bởi các cô con gái mới lấy chồng, thấy mình chửa sớm, thường cảm có một chút dơ dáng ra sao ấy. Chỉ một chút thôi, rồi cũng quen.

Anh Hời lù khù đi sang đình làng Thượng. Vẫn đám chèo mọi năm và cũng vẫn đông người như thế. Anh đứng vào một xó. Nhưng anh chẳng trông, chẳng nghe thấy gì cả. Cái tin mừng mà vợ anh báo cho biết lúc nãy với một công nhận rõ rệt, hãy còn làm đầu óc anh bối rối. Vợ anh có mang. Anh mỉm cười, ngượng và ngây ngất mà nhớ lại những ngày vừa qua của hai vợ chồng. Anh lại nghĩ liên miên, man mác đến những sự đã xảy ra từ trước. Phải lòng nhau. Ném hoa lan. Cái “cáo bạch”. Đám cưới. Làm khung cửi lĩnh. Ngây chửa, rồi vác cái bụng đi nghễu nghện, mười tháng nữa, một đứa trẻ khóc oe oe. Đứa trẻ kháu khỉnh, bụ bẫm. Nó bú ngoằm ngoặp vào vú mẹ nó. Anh đứng lặng yên, nhìn vợ, nhìn con, mỉm cười. Cuộc làm ăn bấy giờ đã khấm khá. Bữa cơm nào cũng có thịt lợn chưng vào cái niêu con để vợ ăn khem.

Nghĩ thế, anh Hời thấy người rộn lên. Và, một lát sau, vợ anh đã nghe tiếng anh nâng cổng tán vào đập cửa.

- Hát gì thế?

- Không biết.

- Tưởng nhà đi xem?

- Đi chưa đến nơi đã về. Không thích.

Vợ anh chẳng biết rằng anh đã đi đến sân đình làng Thượng rồi, có đứng nhìn vào rạp chèo, nhưng không xem thấy gì cả. Đầu óc chàng còn mải nghĩ đến chuyện vợ con ở nhà.

II