Chương 4
HÔM SAU CHẲNG CÓ SỰ GÌ XẢY RA.
Họ vẫn hiềm thù nhau nhưng không cãi cọ hoặc đánh đấm gì nữa. Đằng ông Nhiêu thì cứ một mực rằng lão thủ Dân dỗ con gái về để bán cho người khác. Còn ông thủ Dân thì nóng tính như lửa thực, song không dám vác gậy lên xóm Giếng nữa. Bởi hôm ấy, ông bị một trận nặng phải hai vai bóp lá náng mấy hôm và bởi ông cũng nghĩ được rằng có lẽ mình cũng không phải. Thành thử ông vừa oán con gái, cũng vừa oán đằng nhà dâu gia ở tệ.
Nhưng kẻ thiệt nhất, chỉ là Toản. Toản mất vợ thực sự. Chính nó cũng chả tiếc mấy. Cổ nó co lên, nó lại đau bụng đau lưng như thế, thì nó đã sợ có vợ lắm rồi.
Mấy hôm vợ bỏ nhà đi và những việc lôi thôi dồn dập xẩy ra giữa hai nhà, mặt mũi nó cứ nhợt nhạt, phờ phạc như người mất hồn.
Một buổi sáng, mặt trời lên khỏi ngọn tre mà Toản chưa trở dậy. Toản vẫn đắp chiếu lù lù. Ông Nhiêu vào lật chiếu lên, thấy nó nằm co ro, mặt đỏ bừng như người say rượu, mắt sáng long lanh, dãi chảy trắng cả một bên mép, khắp người nóng rừng rực. Toản sốt. Bà Ba đi đâm gừng. Bà lấy một nắm tóc bọc vào một cái giẻ với hai đồng xu rồi rót rượu lên trên. Bà bọc mảnh giẻ lại vạch lưng áo Toản, xoa khắp người nó. Bà đánh gió cho Toản. Bà bảo:
- Cứ bao giờ có chú khách đi rao thuốc ê là y như rằng độc trời lắm. Hôm qua có mấy chú khách thuốc ê vào trong xóm này. Nghiệm thật.
Đánh gió mấy bận, nhưng Toản không khỏi. Nó nằm li bì luôn ba hôm. Cơm không ăn. Cháo cũng chẳng đụng một hớp. Chân tay nó nóng hầm hập. Môi nó khô se. Ông Ba Cấn sang chơi xem xét bệnh trạng cho Toản. Không là ông lang chính hiệu bao giờ nhưng trong khi trông thấy người ốm cũng có thể ông bảo những môn thuốc của ông. Bởi vậy ông truyền cho ông Nhiêu:
- Trời trở tiết, nó cảm nắng đấy. Để quá, nó nhập tâm thì hỏng. Ông tìm đâu lấy nắm lá ngải cứu khô, sắc cho nó uống một ấm như uống nước vối, là khắc bệnh sốt lui ngay.
Và ông khen:
- Cái lá ngải cứu của ta là bách bệnh tiêu trừ. Tài lắm! Nhà nào cũng nên có trữ một ít.
Ông cũng không quên kể một vài ví dụ mà trong ấy đã có người bệnh khỏi vì thứ lá quý này. Ông Nhiêu Thục chạy đi mấy nhà xung quanh xin ngải cứu. Xin được ngay một nắm lớn. Người ta vẫn hay trữ những ngải cứu, vỏ quýt, lá tía tô, rễ lựu, tai hồng, phơi khô buộc lại thành từng gói, treo lủng lẳng ở đầu hiên.
Toản uống lá ngải cứu. Cũng không bớt sốt. Mắt nó vẫn rừng rực. Mồm đắng như ăn phải mật cá. Lại nhiều người mách nhiều phương thuốc khác nữa. Thành ra, hồ như các ông ở bốn bên hàng xóm, mỗi ông có một môn thuốc. Ông Nhiêu, bà Ba, cô Đôi Hời cứ việc chạy đi xin, đi mua. Mà bệnh Toản vẫn không lui. Bà Ba lại đi xem bói. Ông thầy bói dạy: động thổ địa. Về mua một cái mũ trắng, một con ngựa trắng lễ tạ thì khỏi. Bà về nói, ông Nhiêu cũng mua tinh tươm đủ thế. Ban đêm, ông để ngựa, để mũ giấy ra giữa sân, thắp hương, kính cẩn khấn vái. Toản vẫn sốt li bì như thường.
Sau ông Nhượng mới nhớ ra một căn bệnh. Ông đến bảo Hời:
- Thằng Toản bên nhà bị đậu lào đấy. Đậu lào thì bao giờ cũng sốt nóng liên miên, anh sang đánh thử cho nó xem. Mà bảo ông Nhiêu chớ cho nó ăn cơm vào thì khốn đấy.
Hời sang đánh đậu lào cho Toản. Muốn biết có thực phải là bị đậu lào, người ta thử trước. Người ta lấy một nắm lá trầu không vò nát ra, dúng vào rượu rồi xát lên xương sống người bệnh. Hễ có đốm lên những nốt màu đỏ, ấy đúng là đậu lào. Họ kể chuyện có những người bị đã lâu, không biết, khi thử, thì những nốt đỏ ở lưng đã mọc lông ra. Nếu để chậm một hai bữa nữa thì sốt mê man lên, những cái lông kia mọc ngược vào bụng thì mất gỡ. Các nốt đỏ ở lưng mà nổi lên, thì dùng cái kim khâu chọc vỡ tan máu độc, là khỏi ngay. Hời cũng xát lá trầu không vào lưng Toản. Lưng thằng bé gầy, lõ cả xương sống. Xát đến đâu thì nó đau đến đấy mà uốn cong lưng. Nhưng tuyệt nhiên chẳng nhìn thấy một vết đỏ, vết hằn nào nổi lên ở dọc đốt xương. Hời cõng Toản ra giữa sân để nhìn cho thực kỹ, cũng không thấy.
Được mươi hôm, tự dưng Toản cũng khỏi. Dần dần, bệnh sốt nóng biến đi. Rồi cạn hẳn. Chẳng biết ăn thua về mặt thuốc gì và vì lẽ huyền bí gì. Nhưng không phải Toản hết sạch bệnh. Sốt nóng đi rồi, bệnh sốt rét bò lên. Toản đương ngồi ăn cơm, thấy trong người gây gấy. Nó buông đũa xuống, chạy vào giường nằm. Một cơn rét ghê gớm ở đâu kéo tới. Chân tay nó co rúm lại. Hơi thở dốc ra. Tới mấy cái chiếu đắp lên người Toản, mà Toản vẫn run bần bật. Sau ông Nhiêu mượn đâu được cả một cái áo bông dài quấn vào người nó, lại hai cái chăn dạ trùm lên. Mà Toản vẫn nhe răng ra kêu rét, và run, và rên hầm hầm. Ông Nhiêu, bà Ba cuống lên. Cứ chạy loanh quanh mà không biết làm thế nào cho Toản khỏi rét. Vì đó là một thứ rét bệnh, nên được độ một giờ đồng hồ, Toản không run và không kêu nữa. Mồ hôi toát ra khắp người, nhễ nhại như tắm. Nó mệt quá, nằm ngoẹo đầu, dang hai tay, thiếp lả một lúc mới bừng mắt dậy.
Từ hôm ấy, độ hai ngày, Toản lại lên một cơn sốt rét ghê gớm như thế. Nó mắc chứng sốt rét cách nhật. Ông Nhiêu không mời thầy lang, mà cũng không cắt thuốc chén. Ông bảo: “Sốt rét mà uống thuốc chén là uổng tiền. Thuốc nam ta cầm chừng rồi cũng khỏi”. Ông nghe người ta mách đủ thứ lá lảu, rễ cây. Toản lại phải uống một chập thuốc vu vơ nữa. Không có thuốc nào chữa khỏi. Vẫn cứ hai ba ngày một cơn rét rung cả chân giường.
Bệnh sốt rét mòn người chóng lắm. Chỉ trong vòng nửa tháng, thằng Toản gầy đét như một con mắm khô. Chân tay nó là những đầu nứa tép. Các đốt xương đầu gối, bả vai, khuỷu tay lồi trổ ra. Nó ngồi hau háu trên giường. Ngón tay và ngón chân như dài ra hơn trước. Đầu nó trọc lốc. Ông Nhiêu vừa mới cạo cho. Cạo đi để nhẹ. Tất cả người thằng bé, chỗ nào cũng gầy óp, chỉ trừ có cái đầu vẫn to như thường. Trông cái thân hình gầy xác ngồi lom khom, như khó nhọc lắm, mới đỡ nổi cái đầu nặng. Cái đầu lắc lư. Toản thấy choáng váng mày mặt lại phải ngả người xuống.
Cơn bệnh kéo dài ba bốn tháng. Toản nằm bệt trong giường, ở một góc nhà.
Rồi Toản khỏi. Bệnh dằn vặt mãi, không làm Toản chết, thì bệnh rút lui. Lần này Toản khỏi, lại chẳng hiểu vì lẽ gì hay là vì bao nhiêu thứ thuốc không tên.
Nó đã ăn lại bữa. Ngày ăn bốn bữa năm sáu bát cơm, mà vẫn thấy đói. Mặt nó béo bệu, phị xuống. Da nó trắng bạch, lốm đốm đen. Tại nó ở trong nhà mấy tháng liền và vì từ ngày ốm tới giờ, chưa tắm lần nào, ghét đọng lại thành vết ở các lỗ chân lông.
Từ ngày khỏi ốm, Toản hóa ra lầm lì hơn trước. Ít nói, ít cười. Nó thường ngồi bần thần suốt ngày, mặt ngẩn ngơ như đương đăm chiêu nghĩ ngợi sự gì. Ai gọi thường cũng quên cả thưa. Ông Ba Cấn đến chơi, bảo rằng: những người ốm khỏi, bao giờ cũng ngẩn ngơ như thế, bởi khi nằm liệt giường thì “hồn” bạt đi. Rồi Toản cũng hay nói. Nhưng đâm ra hay nói lảm nhảm một mình. Có bận Toản ở trong nhà, nói thầm, lẻ nhẻ, lúc to lúc nhỏ, tưởng như đương chuyện với ai. Song vào xem thì chẳng có một ai. Nó ngồi nói vu vơ, ba lăng nhăng. Nó lại thêm cái tính đãng trí quá đỗi. Thường buổi chiều, Toản đi chơi vơ vẩn ra ngoài bờ sông Lịch. Nó thủng thỉnh, hai tay chắp ra đằng sau. Đến tận tối mịt, ông Nhiêu Thục vẫn chưa thấy con về ăn cơm. Sang bên nhà Hời, không có. Cả nhà đổ đi tìm thì thấy Toản vẫn đi thủng thỉnh, hai tay chắp ra đằng sau, dạo trên bờ sông. Một lần Toản lên chợ, vào hàng cúp đầu. Nó bảo người ta cạo đầu cho nó. Nhưng đầu nó chỉ lơ thơ mấy cái tóc. Bởi khi nó ốm, tóc rụng gần hết. Nhưng nó cứ bảo người ta cạo. Người thợ từ chối, thì nó nhe răng ra cười, nói: “Thế hử”, rồi đi ra.
Người ta bảo thằng Toản hóa tính lẩm cẩm dở người. Có kẻ đoán rằng tại Toản nghĩ tức nỗi mất vợ mà phát ốm và sinh ra chứng ấy. Có người suy nghĩ cẩn thận lý lẽ hơn, thì đoán rằng Toản mà hóa lẩm cẩm là vì dòng máu nhà nó. Ngày xưa cụ ba đời nhà nó cũng hóa điên, lại cụ đẻ ra ông nó cũng dở hơi. Ngay ông Nhiêu Thục cũng nát rượu be bét. Đến thằng trưởng Khiếu, mặt lúc nào cũng bì ra những rượu. Và chính ngay thằng Toản mới mười lăm tuổi đầu mà đã uống ừng ực từng chén tống rượu mà không đỏ mặt.
Có chắc chắn bởi những cớ trên mà Toản hóa ra như thế, cũng chẳng căn cứ gì rõ rệt. Chỉ biết Toản càng ngày càng lẩn thẩn tệ và sự lẩn thẩn càng đổi lạ. Nó trở nên hay làm dáng làm đỏm như con gái. Răng nó vốn đỏ như cánh gián, vì nhuộm dở, thì bây giờ nó mua thuốc nhuộm cho thực đen rưng rức. Nó đi múa mênh hai cái tay. Ông Nhiêu có mắng, nó chỉ mủm mỉm cười, liếc con mắt lúng liếng.
Rồi có một hôm, ông Nhiêu đương ngồi uống rượu, thấy Hời xăm xăm cõng thằng Toản vào, buông xuống. Toản ngồi lử đử, ngơ ngẩn.
- Tôi đi ra đồng, gặp cậu ấy ở ngoài ruộng, cứ đứng múa lung tung như phường tuồng. Gọi thế nào cũng không thưa. Tôi đến gần lại chạy. Đuổi mãi mới túm được cậu ấy, cõng về đây.
Từ hôm đó, ông Nhiêu cấm Toản không cho ra ngoài đường. Muốn cẩn thận, ông đóng chốt cửa khóa lại. Nhưng một bữa, không ai để ý, Toản lần lần xé bờ rào đằng sau nhà, chui ra rồi chạy ra ngoài đầu xóm. Một chốc có tiếng trẻ con gọi léo xéo ngoài ngõ:
- Ông Nhiêu ơi! Thằng Toản nó đang nổi cơn rồ ở ngoài đồng đấy.
Ông Nhiêu hốt hoảng chạy ra. Ở góc ruộng, bên bờ lũy xóm, Toản đứng chong chỏng. Tay Toản cầm một cành tre, như cái roi. Mặt nó tái lại. Cái roi ở tay, nó lại vụt vào đít nó. Nó vụt liền liền. Quần nó móc gai, đã rách bươm. Gai ở cái roi lại đâm vào da, máu chảy rươm rướm, dính cả vào quần. Ông Nhiêu đến tận nơi, mà Toản cũng cứ tự nhiên vụt roi đồm độp vào lưng mình, như không biết gì hết. Ông Nhiêu sợ hãi, giằng lấy roi, cõng xốc Toản lên, chạy về. Mất roi, Toản lại đấm lấy đấm để vào lưng mình, trông buồn cười và ái ngại. Có mấy người đứng xem ở cổng xóm nói với nhau:
- Dễ có đứa nó phản nhà ông Nhiêu.
- Phản gì?
- Nó ghét thì nó bỏ bùa.
- Ông ta hiền lành, có ai ghét đâu. Chỉ có thằng trưởng Khiếu là con ông. Chẳng lẽ lại là thằng ấy?
- Ai biết đâu đấy!
Ông Nhiêu cõng Toản về đến sân thì Toản tuồi xuống. Nó ngồi xếp bằng tròn ở dưới đất, giữa gian giữa. Hai tay cứ vả đôm đốp lên hai bên má; ông Nhiêu túm nó lại thì nó cúi xuống cắn quần cắn áo. Bấy giờ đã có nhiều người đến hỏi thăm. Họ bàn nên buộc tay Toản lại. Nó trợn mắt lên, quát: “Ai trói tôi thì tôi cắn lưỡi”. Và nó thè dài ngay lưỡi ra; hai hàm răng sít lại, không ai dám mó đến người nó nữa. Nó lại ngồi vả vào mặt nó. Ai cũng ngơ ngác nhìn nhau. Bà Ba và ông Nhiêu - nhất là Ngây - nước mắt vòng quanh.
Bỗng Toản ngừng tát. Nó chống nạnh vào hai bên sườn. Lúc lắc mấy cái, rồi đảo đầu lia lịa. Mồm hét to:
- Có biết ta là ai không? Có biết ta là ai không?
Tất cả những người đàn bà ngồi quanh đấy nghe câu nói, sửng sốt. Họ thầm thì vào tai nhau: “Thôi chết, thánh ốp nó rồi!”. Lập tức mấy bà đứng lên, lại gần Toản, hai tay chắp lại vừa vái vừa xuýt xoa khấn: “Lạy ngài vạn lạy, lạy ngài mớ bái... Chúng con người trần mắt thịt, ngài khai danh khai tính cho biết... Lạy ngài vạn lạy, lạy ngài mớ bái...”
Toản cười khẩy một tiếng, nét mặt nghiêm hẳn lên. Trông nó bây giờ có một vẻ quái dị ngây ngô. Nó lại cười nữa, rồi múa hai tay lên, nói the thé:
- À à... ta là nàng hai hầu bà chúa... hèm... hèm...
Ai cũng rùng người. Thôi thế là ai ai cũng xúm lại, vái la vái liệt, cả ông Nhiêu Thục, cả bà Ba và Ngây và Bướm.
Nói xong câu ấy, Toản buông xuôi hai tay, ngáp mấy cái đứng dậy. Nó đứng dậy ngơ ngác nhìn mọi người, linh lỉnh vào giường đi ngủ. Ông Nhiêu rón rén theo, kính cẩn rụt rè giắt lá màn xuống chiếu cho con. Một chốc, Toản đã ngáy khò khò.
Nhưng bấy giờ, ở ngoài phản, xung quanh ngọn đèn Hoa Kỳ tù mù, là một cuộc nói chuyện nho nhỏ, nhưng đầy vẻ hãi sợ, bí mật. Cũng hãi sợ, bí mật như bóng tối dầy đặc ở ngoài.
Một bà ra lối thông thạo:
- Nường hai trên rừng hầu Đức Mẫu đấy. Đây là cô, các ông, các bà ạ.
- Ông Nhiêu phải cẩn thận mới được.
Từ nãy, ông Nhiêu chỉ ngồi khoanh tay, mặt thừ, ai bảo gì cũng chỉ dạ nhịp. Ông đã buồn, đã lo lại sợ nữa.
- Thảo nào, ít lâu tôi trông cậu ấy khác lắm.
- Tôi thấy cậu ấy vẫn sang bên Thượng với bà đồng Mía.
Và từ hôm sau, người ta bắt đầu chú ý nhìn đến Toản. Chú ý để kháo chuyện với nhau và chính cũng để nhìn phóng đại thêm lên nữa. Đầu tiên, Toản hay giao thiệp với bà đồng Mía bên làng Thượng. Bà này, tuy là đàn bà, nhưng lại là đồng quan tướng. Mỗi khi bà lên đồng, thường gầm thét inh ỏi. Bà nhai đĩa, nhai bát giòn căng cắc. Bà uống tiết gà, uống dầu ta. Và bà ta ăn xôi cũng khỏe kịch liệt. Trong điện của bà, thờ bức tranh con hổ vàng, mắt trắng, ngồi gườm gườm, vắt nghiêng cái đuôi. Toản thì bỗng tự dưng có cái vẻ bề mặt của một người đàn bà. Nó đi núng nính ve vẩy hai cái tay; mắt Toản đá đưa, liếc bên phải liếc bên trái. Mỗi khi ra đường, hễ gặp người lạ, Toản ngượng nghịu, bước nhanh nhanh.
Thỉnh thoảng, Toản lại lảo đảo lên đồng. Nhưng lên đồng từ tốn, nhẹ nhàng, không dữ dội như bữa trước.
Người ta gọi thằng Toản là cô đồng Toản.
Ông Nhiêu nói chuyện với mọi người rằng:
- Cái số cháu nó có đồng. Ngày trước, một bà thầy bói bên Bắc đã đoán cho thế. Tôi vô tâm quá. Lạy thánh mớ bái, số cháu có lấy được vợ đâu!
Và từ đấy ông Nhiêu không tiếc cái Lụa bỏ đi, cũng không oán giận gì ông thủ Dân.
Cả bà Ba, cô đôi Hời cũng nghĩ như vậy.
Một ngày phiên chợ lụa, ông Nhiêu đi sắm về một chiếc mâm bồng, một án thư, một bát cắm hương và mấy cái nón giấy trang kim sặc sỡ. Ông mua đồ thờ cho cô đồng Toản. Ở nhà, gian bên trái, ông cũng làm một bàn thờ gần hệt như bàn thờ tổ tiên nơi gian giữa. Có phần lại vui mắt hơn, vì có treo mấy chiếc nón ngũ sắc, mấy cái hộp quả vàng quả bạc giấy trang kim óng ánh.
Những ngày rằm và mồng một, bà đồng Mía cho cung văn sang nhà cô đồng Toản. Cung văn hát và đánh đàn để chầu cho Toản lên đồng. Toản lên đồng khéo lắm. Chân tay mềm mại đáo để, những bà ở quanh trong xóm đem trầu cau, hương hoa đến cúng, thật thành tâm.