Chương 5
BẤY GIỜ NGHỀ LĨNH LỤA ĐƯƠNG THỊNH. Nói theo tiếng nhà nghề, hàng họ đương chạy tay. Vào chặp tối những ngày phiên chợ, thợ tơ, thợ cửi đi chơi dong nhan ngoài đường, đứng họp chuyện ở những ngã ba, ngã tư, vui vẻ đông đảo như hội. Buổi chiều, những người trong làng lũ lượt đi chợ về. Tay ai cũng xách các thức ăn. Người này một xâu cá mè. Người kia một dây những miếng thịt trâu bạc nhạc, hoặc vài ba lá mỡ lợn. Có người lại đựng lên trên nón một ôm rau muống, một gói đậu, mấy cái bánh đa, mấy bánh đậu phụ.
Và ai cũng đeo trên lưng một cái đẫy nâu đựng tơ. Bán hàng ở chợ xong, mua tơ ngay tại đấy. Nhà có một khung cửi, lấy hai nén tơ đã là nhiều. Giá mỗi nén bảy đồng. Hai nén tơ vừa làm ngang vừa làm dọc. Những thứ tơ dễ làm nhất là tơ Phùng, tơ Hưng Yên, hay là tơ Nhật Tân. Từng con tơ chắc nịch, vàng sẫm, đem quay thành nhiều ống. Phải chọn ra từng thứ sợi một. Sợi mành, sợi lựa vừa dặm nhỏ, dặm to thì để đánh suốt, làm ngang. Sợi mắc, dặm đều, để mắc cửi làm dọc. Sợi suốt dặm thực to, chỉ chuyên dùng làm mấy đường biên.
Mấy năm nay, hàng họ khá. Làng mạc có vẻ khang trang. Những nhà kiếm ăn được, bắt đầu sửa sang nhà cửa cho được đẹp mắt. Ở đây người ta có tính hoa hòe hoa sói, thích cái gì xốc nổi bề ngoài cho có mẽ. Tuy chưa mấy của nả, nhưng thường tỏ vẻ nhà ta khá. Trước hết, mua gạch về xây một cái cổng ngõ kiểu tây. Cái cổng cao hơn đầu người, có hai cánh cửa gỗ. Trên hai cái cột trụ có đôi chậu bằng vôi cát, trên nặn mấy quả phật thủ, quả bưởi, cũng bằng vôi cát. Giữa cổng, trên cùng đắp nổi hình một con dơi to, xòe rộng đôi cánh. Dưới đầu con dơi viết nổi bốn chữ số ngòng ngoèo 1930. Bên dưới nữa, người ra kẻ một bức hoành trong có hai chữ nho; như hai hàng cột trụ, cũng có hai vế câu đối, nhiều khi chủ nhân cũng chẳng biết đọc một chữ nào là sự rất thường. Người ta đắp lên cho đẹp mắt. Khi đắp, tô cho xong, các ông đồ cho những chữ nho ấy, tất cũng có dặn cách đọc và có khi giảng nghĩa cẩn thận, nhưng người ta còn vội dệt cửi, vội uống rượu, vội vợ, vội con, ai mà nhớ. Cái cổng thì quét vôi vàng. Song ở những chỗ bức thành con dơi, chậu hoa quả lại bôi phẩm xanh đỏ lòe loẹt.
Có tiền xây cổng rồi, người ta bắt đầu trù tiền lát sân, lên hai đầu hồi và xây một cái tường hậu con kiến. Như thế, có thể sau vài năm làm ăn nữa, thì dỡ mái nhà lá đi. Rui, mè thay bằng gỗ xoan và tre cật. Mái được lợp ngói. Xong cái mái ngói đỏ hoe, đã có một nếp nhà ngói, tường hoa, cổng gạch đứng đắn chỉnh chện rồi. Lúc bấy giờ trong nhà đã có, đã phong lưu. Người ta đã nhàn nhã. Có thể ngày hai buổi cầm cái quạt nan ra ngồi uống nước chè tươi ở đầu làng, nói chuyện phiếm.
Đã nhiều nhà, nhiều người được như vậy. Cũng có người - nói tổng lại là ai ai cũng đương mong được như vậy. Như anh Hời, cũng mong mỏi hy vọng lắm.
Một ngày phiên đi chợ bán lĩnh về, Ngây nói chuyện với chồng:
- Hàng hôm nay xuống tiền. Mỗi tấm lĩnh mất năm hào. Được có bốn đồng rưỡi một tấm.
Bà Vạng ngồi trong giường, lần quay mấy cái suốt mới, hỏi con dâu:
- Chết chửa, sao hàng họ lại xuống nhiều thế?
- Hàng cả chợ cùng xuống. Hôm nay, cái tốt mới được tròn tiền.
Nàng ngồi bọc tơ, đếm chia ra từng thứ. Rồi nàng đếm tiền, tính các món và kể cho mẹ chồng nghe. Bà lão bấm đốt ngón tay, nhẩm theo lời con dâu, mà cũng đúng được món nào ra món nấy. Xong đâu đấy, Ngây mới ra ngoài hè ngồi ăn cơm.
Thức ăn bầy trên cái mâm gỗ, loang lổ dấu sơn son. Một đĩa tôm muối rang đỏ sạm. Một bát dưa cần. Và một đĩa đậu nướng - món ăn đặc biệt, chỉ những ngày phiên mới có. Nàng chiêu mấy ngụm nước luộc cần, ăn quáng quàng cho xong bữa. Vừa ăn, vừa nói chuyện với cả nhà:
- Mấy phiên nay ở chợ có bán một thứ tơ mới.
Hời nói góp:
- Lại cái tơ Hưng Yên vàng sợi chứ gì?
- Nếu thế đã không phải là tơ mới. Tơ này trắng nuột. Vặn lại từng bó, to như con sợi mà người ta bán lô, bán bó, chứ không bán nén, bán lạng như tơ của ta.
Bà Vạng hỏi:
- Tơ gì thế?
- Người ta gọi là tơ Tầu, bầm ạ. Quay nó thì phải lồng vào guồng to, như quay sợi vải.
- Có ai mua không?
- Chẳng mãnh đại nào mó đến. Mấy con mẹ Khách bầy chán ra, rồi lại thu vào tay nải. Ai thấy tơ lạ cũng xúm vào xem thôi.
Hời ngẫm nghĩ tủm tỉm:
- Chắc cũng làm được, thì người ta mới bán.
- Ấy cũng bảo để làm lĩnh, làm lụa đấy. Nhưng sợi nó nhỏ muốt. Chỉ gõ một cái mạnh, đã bung ra rồi. Nó không có mành, mắc như sợi tơ ta. Chỉ độc mỗi một dặm.
- À thế người ta bán giá cả thế nào?
- Úi già, rẻ quá. Một bó có năm lô. Một lô là bốn đồng. Một con tơ Tầu nhiều sợi gấp ba, bốn con tơ mái của ta. Đã thế lại chỉ rẻ bằng nửa thôi.
Bà Vạng nói:
- Rồi nó lại giống cái tơ Nhật Tân năm nào. Định đổi lối guồng ra như con sợi, chẳng ai mua. Lại phải bỏ. Cái bà ký Chắt thử bán đằng tơ ấy, lỗ vốn mất cả nghiệp.
- Tơ này người Khách nó bán.
Anh Hời với tay lấy cái đàn bầu ở trên móc cột xuống. Cây đàn bụi đóng, mó đến chỗ nào, có vết ngón tay chỗ ấy. Anh đi tìm cái giẻ. Và anh nói lẩm bẩm:
- Khách người ta giàu phải biết, không sạt nghiệp được.
Rồi cũng nghĩ ngợi theo câu nói ấy, anh dạo đàn, khe khẽ hát:
Ba mươi Tết, Tết lại ba mươi
Vợ thằng Ngô đốt vàng cho chú Khách
Một tay cầm cái dù rách
Một tay xách cái chăn bông
Em đứng bờ sông
Em trông sang bên nước người
Ới chú chiệc ơi là chú chiệc ơi
—★—Trong vài tháng, suốt mấy làng làm nghề lĩnh, không ai mua thứ tơ Tầu mới lạ ấy.
Nhưng rồi cũng có người dùng. Khi ấy, vào cuối ngày mùa, tơ tằm cao giá quá và hàng lĩnh không được đắt mấy. Người ta bèn làm thử tơ Tầu. Làm thử, thấy được - và dễ như tơ mái - dần dần mới làm hồ, những sợi tơ Tầu lướt, khó vuốt hồ vào. Nhưng rồi thợ hồ làm cũng quen. Thực ra, cái để người ta dễ quen làm được tơ Tầu trước tiên là vì tơ Tầu rẻ quá. Một con tơ ấy chỉ bằng nửa tiền con tơ mái ta mà khi quay thành ống lại nhiều gấp mấy lần một con tơ mái. Số người làm lụa tơ Tầu, tăng dần lên.
Tuy thế, trong làng Nha vẫn chưa ai đụng đến cái thứ tơ mới mẻ kỳ quặc ấy. Người ta còn nghe, không cứ cái gì cũng thay đổi. Ông già bà cả bảo:
- Nghề tổ từ xưa truyền lại vẫn làm một thứ lĩnh ấy, một thứ tơ ấy. Lạy thánh, đổi đi thế nào được. Chết sớm.
Ngoài chợ, giá bán lĩnh cho lái buôn sinh ra rất trái ngược. Lĩnh tơ ta thì bán năm sáu đồng một tấm hàng nhẹ năm bàn. Tơ Tầu, chỉ bốn đồng ba đồng. Có khi lại chỉ hai đồng rưỡi. Tất nhiên, lái buôn xô vào mua lĩnh tơ Tầu.
Món hàng cũ ế quá. Ngây đi chợ về, phàn nàn cảnh chợ khó khăn với mẹ chồng. Bà Vạng chép miệng:
- Làng nước sao thì nhà ta cũng vậy. Lạy thánh, lúc thế này còn có lúc thế khác.
Nhưng biết bao giờ “có lúc thế khác”. Những nhà đơn lưng một vốn chỉ lâm vào cái cảnh ế độ vài phiên chợ đã thấy nhao lên. Nhà Hời cũng vậy. Tiền nong đã eo hẹp đi nhiều rồi.
Ông Nhiêu Thục không mấy khi có thời giờ rảnh rỗi để đi chơi. Nhất là từ khi thằng Toản nổi đồng cô, việc gì nó cũng không mó tay vào, cả ngày đỏng đảnh vuốt ve, ông càng phải làm nhiều. Ông không cấm, và không dám bao giờ cầm roi đánh nó nữa. Nó có còn là con ông đâu. Nó là con cháu nhà thánh, thánh bắt ra lính vào ghế đệm hầu hạ cửa đền cửa điện rồi.
Buổi sáng ngày phiên chợ lĩnh ấy, Ngây định sắp sửa đi chợ, chợt lâm râm đau bụng. Nàng không dám đi, phải sang nhờ ông Nhiêu đem bán lĩnh hộ.
Bụng Ngây đã to lắm. Mấy tháng đầu, nàng buộc bụng thực chặt ngẵng lại mà đi ra đường vẫn thấy chướng, thấy ngượng. Về sau không thể buộc giữ được, cái thai một ngày một phè ra, nàng cứ đi đứng như thường, thì lại không ngượng. Đã quen. Bà Vạng khoe với người ta:
- Tháng một này cháu nó nằm xó.
Tính ra thì sắp đến ngày. Hôm Hời đi mua một chai nước mắm ngon để biếu chị Thoại. Chị Thoại đã ở cữ từ tháng trước. Chị đẻ con trai. Hời cũng đã để ý đến sự mua cho vợ một chai. Anh rục rịch đồ ăn thức đựng cho vợ đẻ. Anh rất áy náy, hồi hộp, băn khoăn.
Chiều hôm đó, ông Nhiêu đi bán lĩnh về đem tiền sang trả vợ chồng Hời. Ông bảo chàng rể và con gái:
- Nhà tao phải nghỉ thôi. Hàng họ thế này, không thể làm được. Của nhà mày, bán được có tròn bốn đồng.
Ngây ngạc nhiên:
- Tròn bốn đồng!
- Ấy là còn nài mãi, người ta mới mua cho. Không nói giã bọt mép ra thì đến đem về. Mà đem hàng về thì nhà này cũng như nhà bên kia, tiền đâu đong gạo, tiền đâu mua rau.
Bà Vạng thở dài:
- Nhà kém vốn khổ quá. Mời ông xơi nước đi.
- Bà mặc tôi. Vâng, nhà kém vốn mà cứ đeo đuổi mãi thế này thì đến bết mất. Nhà tôi bên kia nghỉ từ phiên này.
Ngây hỏi bố:
- Thày thử xem cái tơ Tầu làm thế nào. Hay là ta xoay vậy.
- Tơ Tầu cũng quá chết. Phiên hôm nay cứ mười thì tám người mang lĩnh tơ trắng về.
- Tưởng cái ấy đương chạy? Rẻ thì rẻ...
- Tơ Tầu có rẻ. Rẻ thì chạy hàng. Nó chạy hàng được mấy phiên, bao nhiêu khung cửi lĩnh tơ vàng, bao nhiêu hàng bán tơ vàng ế chỏng lên. Thiên hạ xô nhau làm lĩnh tơ Tầu, buôn tơ Tầu. Bà tính, của rẻ có bao giờ là của tốt. Tơ Tầu dệt lĩnh, mặc nó bở bùng bục. May cái quần, xỏ chân vào được độ bốn bận thì rách toang. Những người buôn lĩnh bảo bên Sài Gòòng không mua lĩnh Bưởi nữa. Lĩnh Bưởi giả dối.
Hời nói:
- Chẳng mua thứ này, người ta mua thứ khác. Bơ vơ chỉ chết mình.
Ông Nhiêu chép miệng:
- Ừ, bơ vơ chỉ chết người ngắn vốn! Như cánh nhà lý Chi, hương Nội, ế thế này thì họ không làm nữa. Họ mua tơ trữ lại, bao giờ hàng khá, họ lại làm. Những đứa giàu thì lúc nào cũng giàu...
Bà Vạng tiếp:
- Vâng, người giàu thì giàu mãi lên. Mình quét lá đa vẫn quét lá đa. Mời ông xơi nước.
- Nhịa, bà mặc tôi.
- Cô đồng bên nhà xơi cơm chưa ạ?
Ông Nhiêu đáp khẽ:
- Tôi chợ về thì cô đã xơi rồi.
—★—Tối hôm ấy, ở trong buồng, hai vợ chồng Hời bàn chuyện nhà. Ngây ngồi kề bên ngọn đèn để trên nắp thạp gạo, cắm cúi vá cái áo cánh rách. Hời nằm ngửa giữa giường, hai tay lót ra sau gáy, mắt lừ đừ nhìn lên lườn nhà. Thỉnh thoảng lại rụt tay ra vỗ muỗi. Trời đã sang tiết cuối thu mà vẫn còn lác đác vo ve tiếng muỗi. Ngây ngẩng mặt lên nhìn chồng, nói:
- Hay là nghe bầm, nhà ạ.
Hời đáp:
- Tôi cũng định bảo nhà thế.
Ngây chép miệng:
- Mà phải. Ta nghỉ quách. Nhà lại đi dệt cửi như năm ngoái. Tôi vơ váo con tơ về quay hay là đi làm hồ.
Hời cau mặt, gắt:
- Nhà nói dở! Sắp ngồi ổ đấy, lại còn đi làm gì! Tôi nhờ anh Thoại tìm cho cái khung cửi dệt. Mình là người tay băm, nhà không làm thì đi làm mướn. Ai cười mà sợ!
- Nhà cũng nói dở nốt. Mình làm lấy miếng ăn, sợ gì ai cười!
Hời tủm tỉm.
- Là nói chơi thế. À, bầm bảo nhà nghỉ làm, còn mười tám đồng đấy thì trả đỡ cho nhà chị lý Chi một nửa.
- Tôi cũng nghĩ thế, trả lãi mãi, xót ruột quá. Mười đồng bạc mà mỗi tháng lại một đồng thì có chết người ta không. Trả lãi từ tháng Giêng đến giờ, vừa đúng bằng gốc rồi. Tháng này nữa thôi. Sư nhà nó!