Chương 6
ĐÊM HÔM NAY, THẰNG BÉ LẠI KHÓC. Nó khóc dữ quá. Bà Vạng phải thức từ một giờ sáng để ẵm đỡ cho mẹ nó. Đêm nào nó cũng khóc từ sang canh trở đi.
Ngây ở cữ thằng bé đã được hơn một phiên chợ, vào lúc nửa đêm. Khi nàng xổ xong, Hời chạy đến đập cửa nhà ông Nhượng để hỏi ông xem là đẻ thằng bé vào hồi giờ nào. Ông Nhượng ở trong nhà, nói vọng ra: “Tôi biết rồi! Anh cứ về, mai tôi đến”. Hời yên trí. Sáng hôm sau, ông Nhượng đến sớm. Ông ngồi nhà ngoài, uống nước. Ông nói: “Đêm qua, lúc anh đôi vừa đập cửa, tôi biết ngay. Anh về thì tôi chống gậy lên nhà ông Chỉnh xem giờ cho cháu. Hơn mười hai giờ. Vào giờ tý. Giờ này cũng vừa vừa”. Ông giơ bàn tay ra bấm, tính lẩm nhẩm một lúc. Rồi lại nói: “Tôi vừa nghe tiếng gà nhà ai gáy thì anh Đôi gọi cửa. Trời sáng trăng gà ngỡ sáng, hóa ra gáy sớm quá. Nhân thế, tôi đặt tên nó là thằng cu Kê. Kê là gà. Đặt tên vào chữ cẩn thận đấy. Tôi đã xem kỹ, chữ ấy không trùng với nhà ai”. Chẳng ai nói gì. Bởi nếu ông Nhượng không đặt cho trước thì rồi cũng đến lại phải nhờ ông Ông chọn, ông xét xem tên có chạm tên húy nhà ai không. Thế là thằng bé tên Kê. Cu Kê.
Thằng cu Kê hay khóc đêm quá. Ba đêm nay, nó khóc liền liền. Mẹ nó ngồi bế con từ chập tối. Nửa đêm thì bà nó trở dậy, ẵm đỡ cho tới sáng. Người mẹ nằm xuống giường, ngủ chập chờn. Thằng bé cứ oe to một tiếng, là nàng đã vội mở mắt ra rồi. Không đêm nào ngủ được yên, mắt nàng trũng xuống, thâm quầng xung quanh, má hóp lại.
Bà Vạng ẵm cháu ngồi khom khom. Không thể đặt nó nằm được. Nằm xuống, nó khóc tưởng là sắp đứt hơi. Bởi vậy, lúc nào cũng phải ngồi ẵm. Bà Vạng bảo: “Nó giống cái tính thằng bố nó đấy. Ngày xưa, tao ẵm bố nó ngồi suốt ba tháng. Cả ngày cả đêm. Ngồi đủ ba tháng thì bố nó cũng khóc đủ ba tháng. Lưng tao bây giờ mà còng xuống là tại ngồi ẵm nó nhiều thế đấy chứ. Rõ cha nào con ấy, các cụ nói chẳng câu nào bỏ đi”.
Bà ẵm cháu. Thằng bé vừa nín. Nó muốn khóc, nó muốn im, tùy ý. Đó cũng là một công việc. Đấy, nó lại khóc rồi. Trong canh khuya, tiếng trẻ khóc, vẳng lên. Tiếng e é ngặt nghẽo, nức nở, buồn rợn như tiếng mèo gào khàn. Nó khóc một thôi dài, đều đặn. Bà lão ôm cháu trong lòng vỗ khe khẽ, cũng “ạ, ờ” đều đều theo tiếng trẻ khóc. Một lúc sau, thằng bé lại bắt đầu the thé cao giọng. Gió lọt cánh liếp vào, đưa hắt hiu ánh ngọn đèn Hoa Kỳ để bên góc phản. Bà lão đương mơ mơ mòng mòng, như chợt tỉnh, cất cao cái giọng rè rè, buồn tê người:
A ơi... Học trò đèn sách hôm mai
Ngày sau thi đỗ nên trai mới hào
A ơi ơi...
Tiếng bà to hơn tiếng cháu hờn, vang lên bức vách. Thằng bé đã dịu cơn, hờn nhẹ xuống như cũ. Bà lão cũng ru nho nhỏ:
A ơi... Làm nên quan thấp, quan cao
Làm nên lọng tía, võng đào nghênh ngang.
A ơi ơi...
Bóng bà lão già rờn rờn trên vách đất. Đêm cuối mùa thu, heo may về sớm, rạt rào trong khóm tre đầu ngõ. Gió lách khe liếp, làm lung lay giọt ánh sáng trong cái thông phong tròn mờ khói. Bóng bà lão cũng lung lay. Như là tiếng hát ru ời ợi ủ ê kia cùng nhịp với tiếng khóc oe oé, làm động đậy cả một vùng ánh sáng nhỏ yếu trong căn nhà vừa tối vừa thấp, vào lúc đêm quá phân nửa, sao mai mới lên lấp lánh.
Thằng bé nằm trong lòng bà lão bỗng lại làm một trận khóc dữ nữa. Nó khóc ngằn ngặt như là nức lên từng cơn. Bố nó, từ lúc bà Vạng trở dậy, cũng bò dậy, ngồi cuối giường, khoanh hai tay lên đầu gối. Anh ta thốt một tiếng thở dài. Tối nào Hời cũng thức lỉnh kỉnh như cả nhà. Anh ngồi hút thuốc lào vặt, anh xuống bếp đun nước và đến gần sáng thì đi thổi cơm.
Thấy con khóc nhiều quá, anh sốt ruột, đứng dậy đi ra ngoài hiên. Gió hun hút thổi trong bóng tối thăm thẳm. Anh đứng nhìn vu vơ lên trời, lòng lo lắng xôn xao. Có những chuyện rờn rợn, không muốn nghĩ, không muốn tơ tưởng đến, mà vẫn lẩn vẩn quanh quất. Đó là những chuyện ma quái, những vong hồn bà cô, ông mãnh trong đêm hôm hay trêu chọc những trẻ mới sinh. Người ta nói rằng chúng thường hiện về, ẩn vào ánh đèn mà trêu cho đứa trẻ khóc. Đứa trẻ sẽ khóc dai lắm, khóc mãi mãi. Có thể khóc hết hơi rồi đến hết cả thở nữa.
Chợt Hời rùng mình. Trên vòm trời đen kịt có một vì sao đổi ngôi, rót ánh sáng chạy dài xuống phía dưới. Trong nhà, thằng bé vẫn khóc.
Tiếng khóc át cả tiếng bà ru. Nó khóc nấc, ngặt đi từng lúc.
Hời mắm môi, quả quyết xuống bếp. Anh sờ tay lên nóc chạn, rút một con dao phay. Rồi anh cầm dao, đi nhón theo bức vách, lần nhẹ nhàng trở lên. Vén lá liếp, anh luồn rất nhanh vào trong buồng. Thằng bé vẫn đương khóc. Hời giơ con dao, chém phạt nghiêng xuống ngọn đèn Hoa Kỳ đương leo lét.
- Toang!
Như đã biết trước, bà Vạng đưa tay lên giữ ngực thằng bé, miệng lẩm bẩm: “A di đà Phật!” Ngây thì ngồi nhỏm dậy, ngơ ngác. Chém vỡ cái bóng đèn xong, anh Hời xách dao nhảy ra đầu ngõ. Dao trong tay, anh chém lia lịa, ngang dọc vào những bụi cúc tần, bụi dâm bụt. Và anh chửi, anh rủa. Trong bóng tối, như anh đương cãi nhau, đánh nhau dữ đội với ma.
- Cha tiên nhân mày! Dám trêu tay ông à! Đã vỡ đầu ra chưa! Bận sau mà còn bén mảng đến trêu con ông thì toi mạng, toi mạng.
Chém đã chán tay, và có thể anh tưởng tượng đã đuổi được con ma phải chạy đi xa lắm, anh mới quay vào trong nhà. Thằng bé cũng ngớt cơn khóc. Bà Vạng lại cất tiếng ru khe khẽ, mơ hồ.
Tối om om. Hời quát:
- Khóc nữa hay thôi? Ông thì chém băng cổ đi bây giờ!
Bà Vạng nựng cháu:
- Nao ơi! Cháu tôi đây mà! Cháu tôi có khóc nữa đâu!
Từ bấy giờ cho tới bạch nhật, thằng bé cũng réo thêm đôi ba cơn nữa. Nhưng đến lúc trời tang tảng, có tiếng con chim chích chòe cong đuôi hót véo von ngoài cây đề thì nó thôi. Nó nằm ngủ khò khè. Ánh sáng ban ngày trở về đã làm tan cơn khóc của thằng bé hay hờn.
Hời xuống bếp thổi cơm. Anh thổi cơm khéo và nhanh lắm. Mà ấy là anh thổi những hai nồi. Một nồi gạo lốc để anh và mẹ ăn. Một niêu gạo dé thơm cho vợ. Còn đương lúi húi dưới bếp, đã nghe tiếng chó sủa dồn ngoài ngõ. Rồi tiếng gậy lộc cộc đi vào. Anh nhìn ra là ông Nhượng.
Ông Nhượng vừa vào đến sân đã cất tiếng hỏi:
- Đằng này đã ăn cơm chưa?
Hời đáp vọng ra:
- Thưa, sắp ạ.
- Thế nào, tối hôm qua thằng cu có còn hờn không?
Bà Vạng đáp:
- Còn ít thôi ạ. Mời ông vào xơi nước.
Ông Nhượng chống cái gậy khoăm sừng hươu...
- Quái nhỉ? Anh Đôi đã làm cái tôi bảo chưa?
- Làm rồi. Làm tối hôm qua. Từ bấy giờ thì cũng bớt khóc hơn trước.
- À thế thì mai khỏi hẳn. Cái ấy hay lắm đấy. Ngày trước con mụ Dám đằng kia, khi nó đẻ thằng Biên, thằng bé khóc ngằn ngặt suốt ngày suốt đêm. Một đêm, lão Dám đi tuần về, thấy con khóc ghê quá, có sẵn con dao bảy cầm tay, lão chém vỡ tan cái đèn để trên giường. Thế mà từ tối hôm ấy thằng bé bặt hẳn khóc đấy. Cái giống ma cỏ trêu trẻ con mới đẻ cứ hay ám vào ngọn đèn. Bao giờ, tối tăm ẵm trẻ, thấy ngọn đèn xanh lờ, rung đi như sắp tắt mà không tắt, là đích thị ma cỏ. Cứ chém luôn một cái vỡ đầu nó ra là nó kệch.
Ông ngồi uống một ngụm nước, rồi luận bàn hùng hồn về những bệnh trẻ con cho cả nhà nghe:
- Bệnh này là bệnh sài khóc. Bệnh sài khóc thì có đến mười ông lang chính tông chữa thuốc trẻ con cũng khoanh tay, lắc đầu. Bệnh sài khóc phải chữa thế mới đúng mẹo. Rồi cứ nghiệm mà xem.
Hời dọn cơm ở dưới bếp lên. Mâm cơm có một bát muối vừng, một bát sung muối và một niêu nước mắm chưng thơm lừng. Hời vào buồng ẵm con cho vợ và mẹ ăn cơm trước. Ngây ra ngoài đầu phủ tùm hụp cái khăn vuông. Chân tay và đầy mặt bôi nghệ vàng bệch. Đôi guốc mộc đi lẹp kẹp. Nàng đi ra đầu nhà lấy bát nước đái mà anh Hời đã đi xin của thằng bé bên hàng xóm từ lúc nãy. Bát nước vàng xọng ngầu bọt. Ngây nhắm mắt, uống ừng ực mấy hơi, cạn hết bát nước đái. Mùi nồng chát như mùi nước vôi xông lên, khiến Ngây lại nhăn mặt. Ông Nhượng bảo:
- Cái nước đái trẻ con ấy mà hay hơn thuốc bổ đấy.
Bà Vạng tiếp:
- Hay lắm chứ! Ngày xưa, mỗi bận ở cữ cháu nào tôi cũng uống nước đái liền một năm mười hai tháng. Cái nước đái mà hay thực. Các cô bây giờ hay làm bộ, bảo mãi mới uống, tưởng như khó khăn lắm. Nói thực chứ con nhà nghèo ở cữ mà không có nước đái thì cứ hậu sản mòn mà liệt giường.
Ngây so đũa, đánh cơm. Nàng nhìn mẹ chồng, cười:
- Tôi vẫn uống đấy ạ.
- Ừ, chị vẫn uống, tôi có nói chị đâu. Chị thử trông cái vợ anh Thoại thỉnh thoảng vẫn đến đây đấy. Mắt tôi không nhìn thấy nhưng tôi cứ nghe giọng chị ấy nói khàn khàn, ho khúc khắc là tôi biết ngay là cô ả không uống nước đái.
Ông Nhượng gật gù:
- Nhà neo không có ai bảo. Các anh các chị trẻ trung, ai nói cho mà biết.
Giữa khi ấy, con chó Mực đương ngồi chầu mâm cơm, chạy xổ ra, sủa om. Mọi người nhìn ra, cô đồng Toản đương đi vào.
Cô đồng Toản ăn mặc óng ả. Hắn đi guốc sơn then, quai có giấu hoa thị. Áo the dài, quần lĩnh đen nhánh. Đầu chít khăn lượt, ở một bên mái tóc giắt một chùm hoa ngâu và mấy cánh hoa hồng. Hắn đội nón kinh, trong lòng nón trang kim hình chim phượng. Hắn làm điệu vung vẩy hai tay, đi uốn éo như đàn bà. Cái mặt to phèn phẹt, hàm ngạnh hai bên, càng làm rộng lỗ miệng đỏ hoe vì luôn luôn nhai trầu bỏm bẻm. Lông mày hắn cạo nhỏ lại. Đôi mắt lúng liếng lúc nào cô đồng nghiêng khoé mắt, làm điệu liếc ai, thì bao nhiêu lòng trắng lại lộn lên, như người mắt hiếng. Nhưng đó là cái điệu mà người mộ đồng cho là đẹp nhất của Toản đồng cô, sau những giá đồng. Độ này nó học làm “ghế đệm cửa thánh”, ông Nhiêu và bà Ba cũng đâm ra sính, mỗi lần Toản ngồi đảo đồng, lại xúm vào lễ lia lịa. Tiền vốn nghỉ làm lụa, ông đem sắm sửa đồ thờ cho Toản. Bởi ông nghĩ: “Thờ thánh phải cho tươm tất, mới mong mở mày mở mặt ra được. Cái số nhà mình thế”.
Hôm nay chắc Toản đồng cô đi đâu lễ sớm tạt vào đây. Nó cắp bên nách một cái thúng nhòi, trên đậy vuông vải đỏ. Nó vừa bước chân vào nhà thì cả nhà, ông Nhượng, bà Vạng, vợ chồng Hời ai cũng nhao nhao lên chào, kính cẩn như chào khách:
- Chào cô ạ!
- Lạy cô ạ!
- Cô đi lễ đâu bây giờ?
Toản rất tự nhiên, nói ỏn ẻn:
- Đi lễ đền.
Ngây mời:
- Mời cô xơi nước.
Toản trả lời:
- Mặc tôi. Thấy thày về nói thằng cháu hay khóc, hôm qua tôi kêu lễ được lá dấu đem sang cho.
Toản mở cái vải đỏ, lấy ở thùng ra cái tráp đen. Trong thùng để mấy tờ giấy vàng khổ hẹp và dài như tờ vàng lá, đóng dấu son đỏ lòe loẹt. Toản lấy ra, đưa cho Ngây, dặn:
- Cho nó uống ngay. Mẹ uống cũng được.
- Dạ.
- Thôi, tôi phải đi bây giờ. Các bà đương đợi ngoài kia.
Người ta lại chào rối rít. Đấy là người “ghế đệm nhà thánh” chứ không ai còn dám nhớ rằng đấy là thằng Toản mất vợ ngày nọ nữa. Nó tong tả, ngoe ngoảy, núng nính đi ra cửa. Một tay cắp thúng. Một tay dẻo dang khua khua ra đằng sau, tung vạt áo the lên. Nhìn theo, ông Nhượng nói:
- Lạy thánh mớ bái, dấu của ngài là linh lắm.
Ngây nói nho nhỏ:
- Lạy vua lạy mẫu cũng là cái số cậu cháu thế. Số cậu cháu phải hầu cửa đền, cửa điện. Giá như ngày trước, vẫn bẩn thỉu thế, nói đổ xuống sông, thánh lại làm cho thẳng nhỡn tiền chớ chẳng chơi.
Ông Nhượng chấm dứt câu chuyện:
- Người ta ăn nhau về cái số, cái vận cả. Ai trái được việc nhà thánh.
Rồi ông đứng dậy, ra về. Lúc bấy giờ cũng đã sáng rõ. Học trò thầy đồ Miêu đã có đứa đi học về, chạy đuổi nhau tới tấp ngoài đường. Hời cũng đi ra với ông Nhượng. Anh đi dệt cửi. Anh rút một cái tăm ở trên ống,vừa đi vừa xỉa răng.
Hời vừa ra khỏi nhà được một lúc thì có tiếng bà lý Chi gọi eo éo ngoài ngõ. Ngây đương ẵm con, giật mình. Bà Vạng chớp chớp mí mắt, thở dài. Đó là cái thứ người gặp thì chào hỏi khúm núm, nhưng bần cùng người ta mới phải gặp và thực bụng chẳng ai muốn để cho đến nhà.
Món nợ mười đồng ngày trước của Hời vay bà lý Chi vẫn chưa trả được một xu nào. Độ nọ trước khi nghỉ làm lĩnh, vợ chồng Hời đã bàn nhau định trả bớt đi một nửa cho nhẹ nợ. Định thì vẫn là định thế, nhưng việc lại xẩy ra khác. Bởi vì có anh thơ Bảy bên Bắc sang, tuy anh không dám nhắc gì đến tiền nợ, nhưng anh kêu dạo này túng thì bà Vạng biết ngay rằng: “Người ta nể, không nói đến nơi, thì mình phải liệu. Dâu là con, rể là khách, mà con mình đã chết mất rồi, lại càng xa nữa”. Bà Vạng bàn với vợ chồng Hời thì họ cũng bằng lòng ngay. Hời bảo: “Trả đỡ chú Bảy đi một ít. Cái món lý Chi thì hãy cứ trả lãi thôi, nhà đi làm được ta liệu trả sau” Hời liền đưa cho anh thơ Bảy năm đồng. Tuy thế, vẫn còn thiếu mười đồng. Ấy là chỗ người nhà, anh thơ không dám tính lãi.
Còn hơn một chục bạc, tiêu vào những ngày đầu cữ thì vừa. Tháng này Hời chậm đưa tiền lãi đến trả mụ lý Chi. Tháng nào cũng vậy, ngày hôm nay là ngày mụ đi lượt tất cả các nhà có nợ để nhặt tiền lãi.
Con chó cứ cắn nhăng nhẳng và lùi dần. Bà lý vào đến giữa sân, hỏi to:
- Có ai nhà không?
Bà Vạng đáp:
- Có. Mời bà vào trong này. Hầy, con chó ranh, mắng không được phỏng?
Bà lý Chi thò đầu vào:
- Anh ấy đâu?
- Bố cháu đi làm.
- Chị ấy?
- Mẹ cháu ngồi buồng.
Bà lý giẫy nẩy:
- Ấy chết, có đổ cung long tôi không đấy! Từ hôm nào?
- Không, không ạ. Ngoài một cữ rồi...
Bà nhìn xung quanh rồi ngồi xuống phản, vén hai vạt áo the và co cả hai chân lên, sợ con chó chui xuống gậm cắn trộm. Bà Vạng ở góc phản bên, tay sờ soạng ấm nước để rót. Mâm cơm lúc nãy chưa dọn đi, hãy còn lổng chổng bát, niêu, đũa. Dưới đất là mấy guồng tơ bỏ trống. Bên kia, cái khung cửi rỗng tuếch. Chiếc vỏ khổ gác lên trên nóc. Cái cuốn thì dựng vào một xó vách. Ngây ẵm con ở trong buồng ra. Thằng bé đỏ như con chuột lột, nằm co quắp trong cái tã nâu rách mướp. Ra ánh sáng, mắt nó nheo lại.
Hai cái mắt ti hí mà đã đùn lên đầy nhử. Bởi tối nó khóc tợn quá, hai bên kẽ khía xuống đỏ hoe. Bà lý Chi nhổ toẹt bãi quết trầu xuống góc nhà, hỏi:
- Tưởng nhà chị vẫn làm lĩnh?
- Nhà cháu nghỉ đã hai tháng nay. Bà tính hàng họ ế ẩm thế này, cả làng cũng không ai làm, nhà cháu dệt sao lại. Thế mà lúc hết cửi cũng lỗ vốn.
- Tiền lãi tháng này chẳng thấy anh ấy mang đến?
- Thưa bà, tháng này cháu ở cữ, túng quá. Bà khoan cho nhà cháu, nhà cháu trả bà vào lãi tháng Tết nhân thể. Thực từ ngày mượn của bà, chưa dám chậm trễ tháng nào. Chúng cháu là những người thật thà.
Bà lý nhai trầu bỏm bẻm, nói thong thả:
- Tết nhất đến nơi rồi. Chị chỉ hẹn suông rồi lại ì ra đấy.
- Chúng cháu đâu dám.
Bà nhìn chung quanh nhà, cười:
- Nói thế chứ, trây sao được với tôi. Này, độ trước tôi đã bảo có muốn vay nữa thì cứ làm giấy ký kết hẳn hoi, tôi cho vay. Vay ngay một lúc nó tiện cả tôi sổ sách. Mà tiện cái gì cũng thành món. Tôi tính chuyện tử tế cho các người, các người chẳng để vào tai.