← Quay lại trang sách

Chương 7

BƯỚM VÀO CHƠI NHÀ VỢ CHỒNG ANH HỜI. Đã lâu, họ ít tới nhà nhau. Cũng vì việc làm ăn bây giờ khó khăn quá. Cũng là những cái thân đi làm mướn, trầy trật đêm hôm chưa đủ được miếng ăn, còn thì giờ đâu mà đi chơi.

Vả lại, bây giờ vợ chồng Thoại không ở trong xóm mà ra ở hẻo lánh ngoài đầu cánh đồng, tận cuối làng. Qua xóm Đình, xóm Duối, xóm Giữa, lại cách mấy cái vườn hoang và một ngòi nước mới tới nhà Thoại. Cũng vì một chuyện rắc rối.

Hồi giữa năm, Bướm có đong được hai đồng bạc gạo, để trong buồng. Độ ấy, hàng đã ế, mấy đứa trẻ nhà ông Cả Phao không ai mượn làm tháng - dù chỉ là làm tháng ăn cơm không. Chúng đói nheo nhóc nằm khàn ở nhà. Vợ chồng ông Cả Phao thì kiếm vào miệng họ cũng chẳng đủ nên chỉ có thể cho hai đứa con thất nghiệp kia ăn bữa thất bữa thường. Túng thì ăn vụng, đói thì làm càn. Hai đứa trẻ táy máy rình biết của thím hai Thoại có thúng gạo để trong buồng, nên thậm thọt vào xúc trộm. Có mỗi một thùng gạo mà khuyết đi mấy đấu, làm gì mà chẳng dễ biết. Và Bướm biết rõ ràng hai đứa cháu đã ăn trộm của mình. Tức quá, nàng chửi bóng gió. Thế là vợ chồng Cả Phao cũng chửi bóng gió. Rồi cãi nhau. Cuộc cãi nhau kéo dài đến mấy ngày. Sau cùng, ông Cả Phao nhất định đuổi không cho vợ chồng Thoại ở nhờ nữa, Thoại bướng không đi. Hai anh em chỉ rình nện nhau. Mà hai người đàn bà thì rỉa rói nhau. Bà Cả Phao nhiếc Bướm là đồ đĩ theo không. Bướm chửi cái đứa lộn chồng. Mụ Phao trước kia là cô nữ của một đám phường chèo, đến hát đám ở làng Nha, tằng tịu với bác Phao rồi bỏ phường hát, bỏ cả chồng mà ở lại đây. Cứ bao giờ hai chị em dâu cãi nhau thực hăng thì hai anh em lại vác gậy ra đả nhau. Một bận họ đã đánh nhau thật. Nếu không có người đổ đến can ngay thì tất đổ máu. Cuối cùng, Cả Phao triệt Thoại bằng cách bán cái nhà ngang, bán từ chiếc nan dứng bức vách. Thoại mất chỗ ở. Nhưng Thoại cũng chẳng lôi thôi vô ích làm gì vì anh nghĩ ruột thịt mà ăn ở với nhau đến như thế thì thực cạn tàu ráo máng, có chung đụng nữa chỉ thêm bực mình. Anh bèn ra thuê một miếng đất bỏ hoang của làng ở ngoài chân tre, dựng lên đấy một cái lều. Thằng bé cũng sinh ở cái lều ấy. Bởi thế, anh Thoại đặt tên nó là thằng Đồng, ý rằng đẻ nó ngoài đồng.

Nhưng có người ở trong làng đến xin anh Thoại đừng đặt chữ ấy làm tên con. Vì chạm húy tên ông tam đại nhà người ta. Tiện mồm lại liền dấu chữ quốc ngữ, Thoại gọi chệch ra là thằng Động.

Thằng Động ra đời giữa lúc cuộc sinh nhai eo hẹp quá. Tuy xưa nay hai vợ chồng vẫn chỉ đi làm mướn kiếm ăn, nhưng làm mướn bây giờ cũng khó khăn lắm. Hàng ế, lắm nhà nghỉ. Mà người đi làm thuê thì nhiều ứ lên. Gạo lại kém nữa.

Chưa bao giờ làng Nha ở vào cái quang cảnh tang thương như bây giờ. Xưa kia, lúc nào cũng vang lên, trong các cửa sổ lách tách tiếng thoi đưa, véo von tiếng hát. Chiều đến ngoài đầu ngõ, ồn ào những thợ tơ thợ cửi ra khung cửi, đứng xúm lại chuyện trò. Bây giờ, vào trong làng vắng tanh. Những khung cửi, guồng tơ xếp cả lại. Nhiều nhà túng, bán đi, không hòng sinh nhai gì về nghề nữa. Tơ vàng vẫn cao quá, đối với giá tơ Tầu. Hàng xấu, hàng tốt lẫn lộn với nhau, chẳng lái buôn nào biết ra sao mà buôn, người ta không về cất hàng nữa.

Ông Nhiêu Thục đi dệt cửi bên làng Thượng. Cả ông Ba Cấn cũng dệt mướn bên ấy. Ông Nhượng thì kém mắt, không dệt được cửi. Mặc dầu nhà ông khá, chưa đến nỗi phải ăn vay, nhưng ông cũng chẳng chịu ngồi không. Ông bảo: “Miệng ăn núi lở, ngồi rỗi có ai cho một xu nào đâu. Tôi không có việc mà làm thì chân tay tôi ngứa ngáy, khó chịu lắm”. Và ông theo người ta đi xe đất đắp đường “cái Tây” cho Nhà nước. Mỗi chuyến đất được ba xu. Ngày ông cũng xe được ngót mười chuyến.

Người trong làng bỏ đi làm đủ nghề. Những gã lên tỉnh gánh nước thuê và kéo xe. Có những người nhập vào đám phu mộ đi các đồn điền trồng cao su ở Nam Kỳ. Lại có những nhà bồng bế nhau lên tỉnh ghi tên vào sở di dân lên mạn ngược. Trong làng vắng sút hẳn đi. Trừ mấy nhà khá giả, thường nhà nào cũng chỉ ăn một bữa chiều. Buổi sáng ăn cháo hoa hay là không ăn gì. Ai đi làm mướn, bữa chiều mới được ăn no, bữa sáng chỉ được cơm ngữ có ba bát vơi.

Khổ lắm. Người ta bỏ làng đi. Nhà trưởng Khiếu cũng đã đi mộ phu từ dạo thằng Toản nổi đồng cô. Vợ hắn bị chó dại cắn. Chó cắn được một tháng thì lên cơn, sùi bọt mép ra mà chết. Vợ chết, trưởng Khiếu đem đứa con sang bên Phú Gia bán lấy mấy đồng bạc để mua săng cho vợ. Chôn vợ xong, hắn uống một bữa rượu ở ngoài chợ. Hắn lảo đảo về, châm lửa đốt nhà, rồi bỏ đi biệt. Cái túp lều cháy hết, đổ sụp xuống. Hắn đi hẳn, không về nữa. Người ta đồn trưởng Khiếu đi ra Hòn Gai làm mỏ than. Có người lại bảo đích hắn lên tỉnh, đi ăn trộm, bị Tây bắt bỏ nhà pha rồi.

Làng đã nghèo lại sinh ra lắm điều rắc rối. Người ta chơi chắn cạ, xóc đĩa, thò lò suốt ngày, suốt đêm. Sát phạt nhau từ một xu trở lên. Và cái sự mất trộm vặt thì thường xẩy ra. Con chó, con gà đi tha thẩn ngoài ngõ, vô ý không ai trông, mất ngoém ngay. Cái váy, cái quần phơi ngoài sân, biến là thường. Thậm chí, ngoài vườn có mấy quả đu đủ xanh cũng bị vặt trụi. Không hôm nào không có người vác gậy, cầm mảnh tre làm nỏ đi rong ra rong vào chửi những đứa ăn cắp. Những đám cãi nhau nổi lên thường ngày, vang vang từ ngõ nọ chõ qua ngõ kia.

Thằng Động ra đời vào giữa lúc cuộc sống của cha mẹ nó thực eo hẹp quá đỗi. Bướm ở cữ nó xong nằm ẵm con, ăn hết hai đồng bạc gạo với mấy chai nước mắm mà vẫn chưa thể đi làm được. Chân bước không vững, tay vừa nhắc đến cái lồng tơ đã run run. Tuy một mình Thoại cố kỉnh cũng kiếm đủ ăn cả cho vợ, nhưng chỉ đủ ăn từng bữa. Nàng ngồi đấy ôm con đỏ trong lòng mà lo ngay ngáy.

Mấy bữa nay, lại trở trời. Hai mắt thằng bé cam díp hẳn lại, không mở ra được. Thoại đã dán cho hai lá nhựa duối vào hai thái dương, song cũng chẳng đỡ. Giá có tiền, nàng đi mua cho nó mấy xu thuốc cao dán. Nhưng đào đâu ra tiền! Tiền chỉ vừa đong gạo lấy cơm ăn đủ bữa. Trong nhà không có cái gì đáng giá được một hào. Những quần áo, giầy dép của hai người hồi phong lưu đã cầm bán đi cả rồi. Dấu tích của những ngày trẻ trung ăn chơi, chỉ còn có một bức ảnh tầu năm trước chụp ngoài Kẻ Chợ lồng trong khung gỗ, có kính treo trên bức vách.

Sáng nay, Bướm băn khoăn chợt nhớ đến vợ chồng Ngây. Họ cũng chẳng có hơn Bướm, sau thời kỳ làm lĩnh lỗ vốn. Nhưng chắc mượn một hào, năm xu thì cũng sẵn. Vả lại, đã lâu nàng chưa vào trong ấy. Bướm buộc cái cổng tán lại, ẵm con đi vào trong xóm Duối.

Chị em bạn gặp nhau nói cười rối rít như ngày còn con gái. Họ trao lẫn con cho nhau ẵm.

Chuyện vãn một lúc, Bướm bảo với Ngây:

- À, tháng sau thì cưới chị Khuyên đấy...

- Thế hả? Sao chẳng thấy ai đồn? Hôm nọ chị ấy cũng xuống đây chơi mà không nói chuyện gì.

- Hôm nọ chắc chưa có chuyện. Đám này hỏi thì xin cưới ngay. Hỏi có thách cả bánh cốm, bánh xu xê.

- To nhỉ? Ai thế? Dáng hẳn không phải người làng ta?

- Làng ta có mặt nào dám nhận thách bánh cốm. Đám này cháu ngoại cụ Bồ. Thằng ấy có về đây mấy bận, tôi cũng biết mặt. Trông bảnh lắm. Ăn mặc kiểu Tây công tử.

- Làm gì thế?

- Thấy bảo làm sở Nhật trình.

- Thế cưới về đâu?

- Cưới ra ngoài Kẻ Chợ.

- Chị ấy lại tha hồ mà sướng. Thế là người tỉnh thành, ăn trắng mặc trơn rồi.

Bướm kể chuyện:

- Này, cái số người ta như thế đấy. Cứ xem như chị ấy ở nhà cũng quần quật như cánh mình, mà lúc nào cũng óng ả, duôn duốt ra. Đi đứng khoan thai, hòa nhã, ăn nói mềm mỏng. Cái số người ta sướng thì hiện ra cả chân tay. Ở làng ta, mới có chị ấy lấy chồng Kẻ Chợ là một.

- Kể ra thì cái Khuyên đẹp nhất làng - mà nhất cả hàng tổng này chứ chẳng vừa. Thiên hạ cũng tinh đấy chứ nhỉ? Mà cưới ra ngoài Kẻ Chợ thì ai dám đi phù dâu. Chị em mình nái xề rồi mà không thì cũng chịu thôi. Chắc đi bằng xe cao-su chứ nhỉ?

- Chắc thế. Còn phù dâu thì lại cánh con gái ông ký rượu Phong-ten trên phố chủ chứ, đâu đến lượt con gái làng này.

Nói đoạn câu ấy, nét mặt cô Bướm ra chiều ngẩn ngơ. Cô cúi xuống nhìn đứa con trong lòng, thở dài. Và cô nói sang chuyện khác:

- Nhà em cũng chỉ đầu tháng Chạp là hết cửi.

- Hàng ế thế này, ai còn lẽo đẽo làm đến tận Ba Mươi Tết. Nhà em cũng hết việc.

- Chị còn làm, bà còn làm được. Cảnh em mới thực rầy rà.

Nàng nói hạ giọng xuống nho nhỏ, để cho bà Vạng ngồi quay tơ sưởi nắng ở ngoài hiên không nghe tiếng:

- Vợ chồng em định thu xếp lên trên ngược, chị ạ. Ở làng thì sống làm sao?

- Đi di dân hả?

- Không, em có người nhà rủ lên chạy chợ đường ngược.

- Rừng xanh núi đỏ, nước độc lắm.

- Mình ở nhà cứ tưởng thế chứ. Bây giờ tầu xe đi lại dễ như đi chợ. Làm gì có ma thiêng nước độc nữa.

- Bao giờ đi?

- Nhà em cứ bảo đi ngay. Nhưng em nghĩ năm hết Tết đến rồi, kéo nhau đi bây giờ coi nó thảm thiết thương tâm lắm. Để cho qua cái tháng Giêng mới mẻ đã. Này chị ạ, trên đất đồng rừng, làm ăn còn dễ. Cái người nhà rủ em đi ấy, bây giờ khá lắm rồi. Giá chị em mình mà đùm đúm được, cùng đi cho vui.

Ngây lắc đầu, nói nhỏ:

- Em thì đi sao được! Vợ chồng chị thảnh mãnh chân tay lắm. Em còn mẹ già, chưa biết nhắm mắt lúc nào. Lại nỗi bên nhà em càng chán thêm. Cái con đĩ kia thì bỏ đi rồi nhá. Thày em càng hỏng về rượu. Vợ chồng em bỏ đi cho rảnh thân thì không đành lòng. Lắm lúc em nghĩ cứ đổ hai hàng nước mắt.

Không ai nói thêm một lời. Hai người đàn bà nhìn nhau, giá ai có nói thêm một câu khổ não nào chắc là sẽ lại cùng sa nước mắt.

Một lúc sau, Bướm đi về. Ngây ẵm con đưa ra tận ngõ ngoài. Bướm nhìn bạn, ngượng nghịu:

- Thằng cu nhà em cam mắt quá.

- Ừ, phải mua thuốc cao trên chợ mà dán chứ dán nhựa duối thì không ăn thua.

- Em túng quá. Định vào mượn chị một hào để mua thuốc cao cho cháu.

Ngây lần tay vào trong túi:

- Em chỉ có bốn xu. Bốn xu cũng mua được hai lá đấy. Chị cầm tạm.

Bướm ngửa tay ra đón bốn xu đồng của bạn. Bốn đồng xu để lâu trong túi áo, hấp hơi, nóng hầm hập.

—★—

Về đến ngoài ruộng, Bướm đã nghe tiếng chồng đương hát tuồng ầm ĩ. Tính Thoại bộp chộp, hay hát hỏng. Trông thoáng bóng vợ ngoài sân, anh cất tiếng hát:

- Ải! Ải! Này bớ a mẹ cu! Mẹ cu đi Giang Đô khảo võ về đó chăng?

Đương buồn, đương chán, Bướm cũng phải bật cười. Nhưng nàng cũng gắt:

- Nằm chỏng lên đấy hả? Trở dậy tôi bảo cái này. Sao hôm nay về sớm thế?

Thoại trở dậy, tay vẫn cầm quyển truyện Kiều.

Thoại tươi cười, mở quyển Kiều, nói với vợ:

- Tớ vừa bói xin được quẻ Kiều hay quá.

- Sao?

- Tớ khấn rồi xin quẻ cầu tài Tất niên, trai tay trái, gái tay mặt, mở ra được bốn câu linh ứng.

Thoại tìm trang truyện rồi đọc ngâm nga:

- Thế này nhé!

Tiếc thay lưu lạc giang hồ,

Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài.

Thuyền trà cạn chén hồng mai,

Thong dong nối gót thư trai cùng về.

- Nghĩa ra làm sao?

- Mình đương cầu tài, cầu ra đi. Lại gặp ngay vào cái lúc cô Kiều sắp trốn khỏi chùa nhà ả Hoạn. Thế là hợp rồi nhé, đi lúc nào cũng được đấy. Hai câu đầu: “Tiếc thay lưu lạc giang hồ, Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài” đoán trước cái cảnh đi làm ăn lưu lạc của mình được phát đạt, tài vận hanh thông. Còn hai câu sau ứng vào cái cảnh trở về quê lúc bấy giờ có nghìn vàng rồi, ta mới thong dong nối gót thư trai cùng về. Về là về quê đây này.

Bướm nói:

- Đi mua thuốc cho con. Rảo cẳng lên chẳng có tối rồi!

Bướm nằm xuống với thằng bé. Thoại cầm bốn xu chạy ra cửa. Nàng hát ru khe khẽ những câu truyện Kiều mà chồng vừa đọc.