PHẦN 3 NỘI KIỆN (HIẾN KẾ VÀ DUY TRÌ MƯU LƯỢC) Nguyên văn
Quân thần thượng hạ chi sự, hữu viễn nhi thân, cận nhi sơ; tựu chi bất dụng, khứ chi phản cầu; nhật tiến tiền nhi bất ngự, dao văn thanh nhi tương tư. Sự giai hữu nội kiện, (1) tố kết bản thủy. (2) Hoặc kết dĩ đạo đức, hoặc kết dĩ đảng hữu, hoặc kết dĩ tài hóa, hoặc kết dĩ thái sắc. (3) Dụng kỳ ý, dục nhập tắc nhập, dục xuất tắc xuất; (4) dục thân tắc thân, đục sơ tắc sơ; dục tựu tác tựu, dục khứ tắc khứ; dục cầu tắc cầu, dục tư tắc tư. Nhược phù mẫu chi tòng tử dã, xuất vô gián, nhập vô trẫm. (5) Độc vãng độc khứ, mạc chi năng chỉ.
Chú thích
1. Nội kiện: Sự hòa hợp về tư tưởng trong suy nghĩ.
2. Tố: xưa nay, thường ngày. Kết: Tạo lập quan hệ. Bản thủy: Bắt đầu, mở đầu.
3. Hoặc: Người nào đó, ai đó. Đảng hữu: Bạn bè cùng chí hướng, sở thích. Tài hóa: tiền bạc và hàng hóa. Thái sắc: Màu sắc, ở đây chủ yếu là chỉ người con gái đẹp.
4. Dụng kỳ ý: Dựa vào ý đồ của đối phương để kết giao. Nhập: vào; xuất: ra.
5. Phù mẫu: Là một loại côn trùng, còn gọi là “thanh phù”. Gián: Khe hở. Trẫm: Dấu hiệu báo trước.
Thuật Nội kiện là phương pháp liên quan tới việc đưa ra lý lẽ và duy trì mưu lược, chủ yếu nói về mối quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo. “Nội” chính là khiến người khác chọn dùng kế sách của mình, còn “kiện” chính là cố gắng duy trì kế sách của mình, có thể dùng tình cảm để gây xúc động đối phương, dùng lý lẽ để thuyết phục đối phương. Muốn lý lẽ và mưu lược của mình được chọn dùng thì trước hết cần xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với đối tượng du thuyết, để sao cho hai bên ý hợp tâm đầu. Khi đã hợp nhau rồi thì “xa vẫn thân”, “xa mặt nhưng không cách lòng”, còn khi đã không hợp nhau thì “gần vẫn lạ”, đây chính là điều kỳ diệu trong đạo lý vua tôi.
Dịch nghĩa
Trong mối quan hệ vua tôi, có người ở rất xa thì vua lại cảm thấy thân thiết, có người ở ngay sát mình thì vua lại cảm thấy xa lạ; có người ở ngay bên cạnh thì vua lại không cần đến, có người ở nơi xa thì lại gọi về trọng dụng; có người hôm nào cùng kè kè ngay cạnh thì vua không tin tưởng, nhưng có người ở nơi rất xa thì lại được vua nhớ mong. Tất cả những điều đó đều là do sự khác biệt trong suy nghĩ mà có, nó bắt nguồn từ trong mối quan hệ thường ngày. Có nhiều cách để thiết lập nên mối quan hệ vua tôi, có người dựa vào đạo đức, có người dựa vào bạn bè, có người dựa vào tiền bạc, vật chất, có người dựa vào mỹ nhân. Chỉ cần phán đoán chính xác suy nghĩ của vua, giỏi nắm bắt ý đồ của vua thì muốn làm chính trị sẽ được làm, muốn nổi tiếng sẽ được nổi tiếng, muốn thân thiết với nhà vua thì có thể thân thiết, muốn xa lạ thì có thể xa lạ; muốn tiến sát thì có thể tiến sát, muốn tránh xa thì có thể tránh xa; muốn được nhà vua triệu về dùng thì sẽ được triệu về dùng; muốn để nhà vua nhớ mong thì sẽ được nhà vua nhớ mong, thì cũng giống như máu mẹ con thanh phù bắn tung sẽ hút lấy nhau. Nếu hoàn toàn thu hút được sự chú ý của nhà vua thì có thể đi lại thoải mái trong cung mà không sợ ai đó ngăn cản.
Nguyên văn
Nội giả, tiến thuyết từ dã. Kiện giả, kiện sở mưu dã. Dục thuyết giả vụ ẩn độ, kế sự giả vụ tuần thuận. Âm lự (1) khả phủ, mình ngôn đắc thất, dĩ ngự kỳ chí. (2) Phương lai ứng thời, (3) dĩ hòa kỳ mưu tường. Tư lai kiện vãng, ứng thời đương dã. Phù nội (4) hữu bất hợp giả, bất khả thi hành dã. Nãi sủy thiết thời nghi, tùng tiện sở vi, dĩ cầu kỳ biến. Dĩ biến cầu nội giả, nhược quản thủ kiện. (5) Ngôn vãng giả, tiên thuận từ (6) dã; thuyết lai giả, dĩ biến ngôn dã. Thiện biến giả thẩm tri địa thế, nãi thông vu thiên, dĩ hóa tứ thời, sử quỷ thần, hợp vu Âm Dương, nhi mục nhân dân. Kiên kỳ mưu sự, tri kỳ chí ý. Sự hữu bất hợp giả, hữu sở vị tri dã. Hợp nhi bất kết giả, Dương thân bất Âm sơ. Sự hữu bất hợp giả, thánh nhân bất vi mưu dã.
Chú thích
1. Âm lự: Âm thầm suy nghĩ, cân nhắc.
2. Ngự kỳ chí: Nắm bắt suy nghĩ và ý chí của nhà vua.
3. Phương lai ứng thời: Người hiến kế cần phải thuận theo xu thế chung.
4. Nội: Tiếp thu, tiếp nhận.
5. Nhược quản thủ kiện: Thuận lợi giống như là dùng chìa khóa mở ổ khóa vậy.
6. Thuận từ: Thuận theo suy nghĩ của nhà vua.
Người du thuyết nên có kỹ xảo và sự điềm tĩnh trong khi “hiến kế”. Trong quá trình “hiến kế” có thể phân sự việc thành 3 loại: quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong đó hiện tại và tương lai có thể quy thành một loại. Khi nói về quá khứ thì cần Chú thích dựa vào những sự việc đã xảy ra. Khi nói về hiện tại và tương lai thì cần tùy cơ ứng biến. Muốn làm được vậy thì nhất thiết phải hiểu tường tận môi trường địa lý, tinh thông thiên văn, nắm vững sự biến đổi bốn mùa, sai khiến được quỷ thần, những điều đã làm phải phù hợp với thiên địa âm dương. Có vậy mới có thể nắm quyền hành trong tay, trị vì dân chúng.
Dịch nghĩa
“Nội” chính là trình bày lý lẽ của mình lên nhà vua, từ đó tạo dựng quan hệ với nhà vua để được vua tín nhiệm; “Kiện” chính là hiến kế sách lên nhà vua, là cánh tay trái đắc lực của nhà vua, từ đó lập nên sự nghiệp. Muốn du thuyết nhà vua thì trước hết cần phỏng đoán tâm lý của nhà vua; Hiến sách lược lên nhà vua thì cần phải dựa theo thế mà phát triển, không được làm trái với tự nhiên. Trước hết, suy nghĩ kỹ xem sách lược mình vạch ra lợi hại như thế nào, thành công ở đâu, thất bại ở đâu, sau đó Chú thích rỏ cái được và mất, cái lợi và hại trong kế sách của mình với nhà vua, từ đó nắm bắt suy nghĩ và ý chí của nhà vua. Người hiến kế phải thuận theo xu thế chung để thỏa mãn tâm nguyện của nhà vua. Tuy nhiên, trước hết cần suy nghĩ chu đáo để thiết lập mối quan hệ bền lâu với nhà vua, sau đó tiếp tục hiến kế lên nhà vua, những kế này cần đảm bảo thuận theo xu thế chung và thỏa mãn tâm nguyện của nhà vua. Nếu kế hiến lên vua không phù hợp với mong muốn của vua thì sẽ không được chọn dùng. Do đó, đòi hỏi phải suy nghĩ kỹ càng, thuận theo nhu cầu chung của thời thế để đưa ra kế sách mới, có vậy kế sách mới linh hoạt. Kế sách linh hoạt thì sẽ dễ dàng được vua tiếp nhận giống như là lấy chìa khóa mở ổ khóa vậy. Khi trò chuyện với nhà vua về những chuyện đã qua thì cần chú ý tới tâm lý của nhà vua để từ đó làm thỏa mãn mong muốn của nhà vua; khi nói về xu thế trong tương lai thì cần chừa ra lối thoát để có thể tùy cơ ứng biến. Người giỏi ứng biến thì có thể nắm bắt được thời thế, hiểu rõ về tự nhiên, sự chuyển giao bốn mùa; sai khiến được quỷ thần, những điều đã làm phù hợp với quy luật biến hóa Âm Dương, từ đó được lòng dân. Khi quan sát nhà vua để lập mưu kế, mưu sĩ nhất thiết phải chú ý tới ý đồ và tâm nguyện của nhà vua. Nếu mưu kế đưa ra không phù hợp với mong muốn của đối phương thì chính là đã không nắm bắt được tình hình và ý đồ của đối phương. Nếu mưu kế phù hợp với mong muốn của đối phương, song lại không đạt được mục đích như mong muốn thì chính là trông bề ngoài thì hai bên có vẻ thân thiết, song bên trong lại có khoảng cách. Nếu không thể phù hợp với ý kiến của vua thì thánh nhân sẽ không vạch mưu kế nữa.
Nguyên văn
Cố viễn nhi thân giả, hữu âm đức (1) dã. Cận nhi sơ giả, chí bất hợp dã. Tựu nhi bất dụng giả, sách bất đắc dã. Khứ nhi phản cầu giả, sự trung lai dã. Nhật tiến tiền nhi bất ngự giả, thi bất hợp dã. Dao văn thanh nhi tương tư giả, hợp vu mưu đãi quyết sự dã. Cố viết: Bất kiến kỳ loại nhi vi chi giả, vi nghịch. (2) Bất đắc kỳ tình nhi thuyết chi giả, kiến phi. (3) Đắc kỳ tình, nãi chê kỳ thuật, (4) thử dụng khả xuất khả nhập, khả kiện khả khai. Cố thánh nhân lập sự, dĩ thử tiên tri nhi kiện vạn vật.
Chú thích
1. Âm đức: Chỉ hai bên ý hợp tâm đầu.
2. Vi: Làm. Nghịch: Ngược lại.
3. Kiến phi: Gặp chuyện phi nghĩa nên cự tuyệt.
4. Chế kỳ thuật: Triển khai mưu kế mà mình là người nắm vững tình thế.
Dịch nghĩa
Có thể nói, người ở cách xa nhà vua song lại rất thân thiết với nhà vua chính là do anh ta ý hợp tâm đầu với nhà vua, còn người ở rất gần nhà vua song lại rất xa lạ với nhà vua chính là do anh ta có sở thích và ý chí khác với nhà vua; Người đảm đương nhiệm vụ ngay sát cạnh nhà vua song lại không được trọng dụng chính là vì chủ trương và biện pháp của anh ta không có hiệu quả thực tế; Người làm việc ở cách xa vua song lại được gọi về trọng dụng chính là vì anh ta có sách lược khả thi đã được thực tế chứng minh; Người hàng ngày xuất hiện trước mặt nhà vua song lại không được tín nhiệm chính là vì hành vi và việc làm của anh ta thường mâu thuẫn nhau; Người ở cách xa nhà vua song vẫn được nhà vua nhớ tới chính là vì chủ trương của anh ta rất phù hợp với người quyết sách, do đó muốn đợi anh ta về tham gia giải quyết đại sự. Bởi vậy nói, khi tình hình còn chưa rõ ràng thì người du thuyết sẽ chỉ có thể nhận được những điều trái với mong muốn; khi còn chưa nắm chắc được tình hình cụ thể thì người du thuyết chắc chắn sẽ chỉ nhận được sự phủ định của đối phương. Chỉ khi đã hiểu rõ tình hình thì mới có được phương pháp đúng đắn, có vậy mới thực thi được chủ trương của mình, mới có thể kiểm soát được đối phương thuận lợi và dễ dàng; vừa đưa ra ý kiến với nhà vua và duy trì được ý kiến của mình; lại vừa có thể từ bỏ chủ trương của mình và tùy cơ ứng biến. Do đó thánh nhân lập thân xử thế đều là nắm bắt vạn vật dựa vào hiểu biết rõ ràng của bản thân trước tiên.
Nguyên văn
Do (1) thất đạo đức, nhân nghĩa, lễ nhạc, kế mưu, tiên thủ “Thi”, “Thư”, (2) hỗn thuyết tổn ích, nghị luận khứ tựu. (3) Dục hợp giả dụng nội, (4) dục khứ giả dụng ngoại. Ngoại nội giả, tất minh đạo số. (5) Suy sách lai sự, kiến nghi quyết chi. Sách vô thất kế, lập công kiến đức, trị dân nhập sản nghiệp, (6) viết kiện nhi nội hợp. (7) Thượng ám bất trị, hạ loạn bất ngộ, kiện nhi phản chi. Nội tự đắc nhi ngoại bất lưu, thuyết nhi phi chi, nhược mệnh tự lai, kỷ nghênh nhi ngự chi. Nhược dục khứ chi, nhân nguy dữ chi. Hoàn chuyển nhân hóa, mạc tri sở vi, thoái vi đại nghi. (8)
Chú thích
1. Do: Căn cứ
2. “Thi”: Tức “Kinh thi”. “Thư”: Tức “Thượng thư”.
3. Nghị luận khứ tự: Đã qua thảo luận, quyết định cuối cùng có nên làm không.
4. Dục hợp giả dụng nội: Nếu muốn nhà vua tín nhiệm và hợp tác thì cần tìm mọi cách hiểu rõ tâm lý của nhà vua. Hợp là chỉ phù hợp với suy nghĩ của nhà vua. Nội là nội tâm, trong lòng.
5. Ngoại nội giả, tất minh đạo số: Khi quyết định đại sự trong ngoài thì trước hết cần hiểu rõ đạo lý và phương pháp.
6. Trị dân nhập sản xuất: Làm cho triều đình có tôn ti trật tự rõ ràng, dân chúng an cư lập nghiệp.
7. Viết kiện nhi nội hợp: Vua tôi trên dưới đồng lòng, mưu kế của bề tôi phù hợp với mong muốn của vua.
8. Thoái vi đại nghi: Như vậy mới được coi là hiểu rõ bí quyết thực sự của việc nên ở hay ra đi, nên nhận chức hay không nhận chức.
Khi vận dụng thuật Nội kiện thì điểm mấu chốt nhất, cũng là điểm trọng tâm nhất, chính là cần nắm rõ tâm lý của nhà vua, có thể nói đây là điểm xuất phát để mọi kỹ xảo du thuyết được phát huy. “Đắc kỳ tình, nãi chế kỳ thuật”, chỉ có hiểu rõ mong muốn và suy nghĩ thực sự của đối phương thì mới có thể dựa theo đó để tìm ra phương pháp chính xác, mới có thể thực thi được chủ trương của mình và kiểm soát đối phương một cách dễ dàng và thuận lợi. Nếu không hiểu rõ ý đồ và suy nghĩ của đối phương thì sẽ không thể có được biện pháp đúng đắn, bởi vậy khả năng duy thuyết thành công sẽ giảm đi rất nhiều.
Dịch nghĩa
Sự hiểu biết rõ ràng của bản thân bắt nguồn từ đạo đức, nhân nghĩa, nghi lễ và mưu kế, muốn vậy thì trước hết cần phải thông tỏ “Kinh thi” và “Thượng thử”, sau đó tổng hợp và phân tích những điều lợi hại, được mất, cuối cùng suy nghĩ xem nên nhận chức hay từ chức. Muốn được nhà vua tín nhiệm và hợp tác thì cần tìm mọi cách hiểu rõ tâm lý của nhà vua, còn muốn từ bỏ nhiệm vụ đang nắm giữ thì không nhất thiết phải nghiên cứu kỹ tâm lý của nhà vua mà vẫn có thể bị nhà vua từ chối, nhờ đó không phải đảm đương nhiệm vụ mình không thích nữa. Khi xử lý việc lớn trong và ngoài thì trước hết cần hiểu rõ đạo lý và phương pháp, có vậy mới dự đoán chính xác tương lai, hơn nữa phỏng đoán được những khó khăn có thể xảy ra, từ đó có cách giải quyết phù hợp. Khi vận dụng sách lược không được để xảy ra sơ suất, có vậy mới tạo dựng sự nghiệp thành công, tích nhiều công đức, khiến triều đình có tôn ti trật tự, dân chúng an cư lập nghiệp, đây chính là vua tôi trên dưới đồng lòng, mưu kế của bề tôi phù hợp với mong muốn của nhà vua. Nếu bề trên hiến mưu kế không phù hợp với tình hình chính sự của quốc gia, khiến bề dưới hoang mang, không biết phải làm thế nào thì chính là mưu kế không phù hợp với tình hình thực tế, thì dù thần tử (quan lại) có mưu kế hay thế nào đi chăng nữa cũng sẽ không được nhà vua chọn dùng, vậy thì nên lên núi ẩn cư cho xong. Đối với những bậc quân vương tự cho mình là thánh hiền, kiêu căng ngạo mạn thì người du thuyết nên tâng bốc, nịnh nọt nhà vua để có được sự tin tưởng của nhà vua, rồi mới dần dần thuyết phục nhà vua, từ đó đạt được mục đích của mình. Nếu nhà vua cho triệu về thì nên chủ động tới nhận lệnh. Nếu có việc khác thích hơn, không muốn làm cho vua thì nên nhân lúc triều đình rối ren để từ chối nhận chức. Việc nhận chức hay từ chối nhận chức đòi hỏi phải suy nghĩ, cân nhắc kỹ càng, làm việc phải chọn thời cơ, tiến hành phải thuần thục, cần giỏi biến hóa để người khác không hiểu nổi ý đồ thực sự của mình, như vậy mới được coi là hiểu rõ bí quyết thực sự của việc nên ở hay ra đi, nên nhận chức hay không nhận chức.
ĐIỂN CỐ MƯU LƯỢC
Trâu Kỵ khéo can gián vua
Trong phần “Quỷ Cốc Tử - Nội kiện” chỉ ra rằng: “Dĩ biến cầu nội giả, nhược quản thủ kiện”, chính là nói cần phải thay đổi kịp thời, lựa chọn ra sách lược du thuyết thích hợp và đề xuất ra mưu kế của mình. Quỷ Cốc Tử còn nhấn mạnh, nếu mưu kế của người du thuyết không phù hợp với mong muốn của nhà vua thì đó là vì người du thuyết chưa thực sự thấu hiểu tâm lý của nhà vua. Ngược lại, chỉ cần làm nhà vua xúc động thì nhà vua sẽ lắng nghe người du thuyết. Trâu Kỵ thời Chiến Quốc đã vận dụng rất khéo thuật này nên rất được lòng Tề Uy Vương và được nhà vua vô cùng trọng dụng. Ông từng đảm nhiệm chức tướng quốc của nước Tề thời Chiến Quốc.
Trâu Kỵ có thân hình cao lớn đẹp trai. Một buổi sáng nọ. Trâu Kỵ mặc quần áo, đội mũ, ngắm nhìn mình trong gương một lúc rồi hỏi vợ: “Mình xem tôi và Từ Công ở thành Bắc ai đẹp hơn ai?”. Vợ ông trả lời: “Ông đẹp hơn nhiều, Từ Công làm sao sánh với ông được chứ?”. Từ Công ở thành Bắc vốn là người đàn ông đẹp trai nổi tiếng ở nước Tề. Trâu Kỵ không tin mình đẹp hơn Từ Công, bởi vậy, liền đi hỏi vợ lẽ: “Mình xem, tôi và Từ Công ở thành Bắc, ai đẹp hơn ai?”. Vợ lẽ trả lời: “Từ Công làm sao đẹp bằng ông được chứ?”. Ngày hôm sau, có một người khách đến chơi, trong lúc ngồi trò chuyện với khách, Trâu Kỵ lại hỏi khách: “Tôi và Từ Công, ai đẹp hơn ai?”. Khách trả lời: “Từ Công không đẹp bằng ông”. Tới ngày thứ ba thì Từ Công thành Bắc đến nhà Trâu Kỵ chơi, Trâu Kỵ ngắm kỹ khuôn mặt, thân hình, dáng điệu của Từ Công. Ông cảm thấy, mình không đẹp bằng Từ Công, lại tự ngắm mình trong gương, càng cảm thấy mình kém xa Từ Công. Tối đến, Trâu Kỵ nằm trên giường nghĩ ngợi hồi lâu, cuối cùng đã hiểu rõ. Ông nghĩ thầm: “Vợ mình nói mình đẹp là vì yêu mình; vợ lẽ mình nói mình đẹp là vì sợ mình; khách nói mình đẹp là vì có việc cần nhờ mình, chứ không phải mình thực sự đẹp hơn Từ Công”.
Thế là Trâu Kỵ vào triều bái kiến Ngụy vương và nói: “Thần biết chắc rằng mình không được đẹp như Từ Công. Tuy nhiên, vợ thần rất yêu thần, vợ lẽ của thần rất sợ thần, khách của thần có việc muốn nhờ thần nên đều nói thần đẹp hơn Từ Công. Nước Tề ngày nay đất rộng hơn nghìn dặm, thành trì 120 tòa, hoàng hậu, vương phi, cung tần mỹ nữ hết thảy đều yêu mến đại vương, thần tử trong triều hết thảy đều sợ đại vương, dân chúng cả nước lúc nào cũng muốn hưởng ân huệ của đại vương, từ đó có thể thấy, đại vương đang phải chịu sự lừa dối rất lớn”.
Uy Vương nói: “Hay lắm, khanh nói rất có lý”. Thế là hạ lệnh cho tất cả các quan lớn nhỏ trong triều và dân chúng biết rằng: nếu ai dám thẳng thắn phê bình nhà vua ngay trước mặt nhà vua thì sẽ được trọng thưởng hậu hĩnh, nếu đưa ra lời khuyên bằng văn tự thì sẽ được trọng thưởng; nếu có thể bình luận cho nhà vua nghe những sai lầm mà nhà vua mắc phải trước đông người thì sẽ được khen thưởng. Lệnh vừa ban ra thì rất nhiều đại thần tới xin được đưa ra lời khuyên cho vua, triều đình nhộn nhịp hẳn lên, vài tháng sau vẫn có người tới; một năm sau đó, cũng vẫn có người tới.
Người nước Yên, nước Triệu, nước Hàn và nước Ngụy biết được chuyện này đều tới bái kiến vua Tề. Đây chính là “ngồi ở triều đình mà chinh phục được nước khác”
Tề Uy Vương
Tề Uy Vương là vua nước Tề thời Chiến Quốc, Trung Quốc, họ Điền, tên Nhân Tề, là con trai của Điền Tề Hoàn Công Điền Ngọ. Ông kế thừa ngôi vua năm 356 TCN, lúc 36 tuổi. Tề Uy Vương biết dùng người tài giỏi nên đất nước do ông trị vì phát triển giàu mạnh, được ghi danh sử sách.
Khi vua Tề đắc ý không nghe theo lời khuyên của người khác thì Trâu Kỵ đã chọn sách lược “dĩ biến cầu nội”, dùng sự việc vừa xảy ra với mình để khuyên răn vua Tề, điều này đã thực sự gây xúc động vua Tề, nhờ đó mà ông đã thành công trong việc khuyên can vua Tề.
Mạnh Tử khéo thuyết phục Tề Tuyên Vương
Tề Ngôn Vương xưa nay vẫn luôn muốn xưng bá, một hôm đã thỉnh giáo Mạnh Tử rằng: “Làm thế nào có thể thống nhất được thiên hạ, như ta đây có thể làm vua thống trị thiên hạ được không?”. Mạnh Tử nói: “Được”. Mạnh Tử hiểu rằng tất cả các vị vua đều thích nghe lời tâng bốc, do đó ông suy nghĩ một lát rồi nói tiếp: “Thần nghe nói, có một lần khi chuông mới được đúc xong, khi chuẩn bị mang trâu di giết để tế chuông thì bệ hạ cảm thấy con trâu vô tội run lên vì sợ hãi, nên đã thương tình không giết nó nữa, xin hỏi có chuyện đó không vậy?”.
Mạnh Tử
Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ. Ông là nhà tư tưởng nổi tiếng thời cổ đại Trung Quốc, là nhân vật tiêu biểu của Nho gia thời Chiến Quốc. Mạnh Tử nổi tiếng với sách “Mạnh Tử” gồm 7 thiên, đây là một trong những cuốn sách kinh điển của Nho gia. Thuở nhỏ, Mạnh Tử là môn sinh của Tử Tư (cháu nội của Khổng Tử), ông kế thừa và phát huy tư tưởng của Khổng Tử, trở thành thế hệ tiếp nối Khổng Tử, được xem là ông tổ thứ hai của Nho giáo và được tôn làm “Á thánh”, ông cùng với Khổng Tử được hậu thế gọi chung là “Khổng Mạnh”.
Tề Tuyên Vương phấn chấn hẳn lên, nhà vua không ngờ rằng Mạnh lão phu tử cũng nghe nói tới nghĩa cử cao đẹp này của mình, bèn vội vàng nói: “Đúng là có chuyện đó thật”. Mạnh Tử nói: “Tấm lòng nhân từ ấy đủ để minh chứng đại vương có thể làm vua thống trị thiên hạ rồi”. Tề Tuyên Vương phấn khích thấy rõ, tiếp tục lắng nghe những lời nói của Mạnh Tử: “Vấn đề là ở chỗ đại vương có dám làm hay không thôi. Chẳng hạn như có người nói: ‘Sức tôi có thể nâng được vài trăm cân, song lại không nhấc nổi một sợi lông chim, mắt tôi có thể nhìn rõ đầu nhọn của sợi lông trên mình cầm thú, song lại không nhìn ra củi chất đầy trên xe, thì đại vương có tin vào lời nói của anh ta không?”. Tề Tuyên Vương trả lời: “Đương nhiên ta không tin”. Mạnh Tử nói tiếp: “Ân huệ của đại vương hiện nay chỉ dành cho loài cầm thú, song lại chưa thấy dành cho dân chúng, như vậy thì cũng giống như không nhấc nổi một sợi lông chim, không nhìn ra một xe củi đầy, cũng sẽ không thể khiến dân chúng tin tưởng. Nếu dân chúng không thể an cư lập nghiệp thì chính là vì đại vương vốn không quan tâm tới họ, chứ không phải ở vấn đề có làm được hay không. Bởi vậy thần mới nói, đại vương có thể thống trị thiên hạ, song cần phải xem đại vương có muốn làm hay không đã”. Tề Tuyên Vương nói: “Muốn làm và không muốn làm có gì khác nhau?”. Mạnh Tử nói: “Nếu bảo một người kẹp Thái Sơn ở nách rồi bơi qua biển Bắc thì người này sẽ bảo rằng ‘tôi không làm được’, vì điều này quả thực không thể làm được. Song nếu bảo một người bẻ một nhành cây giúp người già mà người này lại nói ‘tôi không làm được’ thì chính là anh ta không muốn làm chứ không phải là không làm được. Việc đại vương không dùng đạo lý để thống nhất thiên hạ thì chính là thuộc loại bẻ cành cây giúp người già, chứ không phải thuộc loại kẹp Thái Sơn băng qua biển Bắc. Hiểu được điều này thì đại vương có thể thống trị thiên hạ một cách dễ dàng. Sở dĩ thánh hiền thời cổ đại có tài trí hơn người thường, chẳng qua cũng là vì họ giỏi thể hiện hành vi tốt đẹp của họ mà thôi. Còn như hiện nay, ân huệ của đại vương chỉ dành cho loài cầm thú, mà không dành cho con người, vì sao lại như vậy?”
Có thể thấy, Mạnh Tử đã khéo léo vận dụng kỹ xảo biện luận của mình trong quá trình du thuyết vua Tề, và đã khiến vua Tề hoàn toàn bị thuyết phục.
Quỷ Cốc Tử nói: “Dục thuyết giả vụ ẩn độ, kế sự giả vụ tuần thuận”, cũng chính là nói, nếu muốn thuyết phục người khác thì cần ngấm ngầm suy đoán xem đối phương đang nghĩ gì để từ đó tùy cơ ứng biến và làm thỏa mãn tâm lý của đối phương, rồi dần dần tìm cách đạt mục đích của mình. Mạnh Tử biết người biết ta, giỏi suy đoán ý nghĩ của đối phương, biết được đối phương thích gì, nhờ đó mà buổi trò chuyện diễn ra suôn sẻ. Sau đó, cũng xuất phát từ góc độ ấy, đặt câu hỏi ngược trở lại để đối phương trả lời, dù rằng đây đều là những câu hỏi “biết rồi vẫn cố tình hỏi”, các câu hỏi được đặt ra và được trả lời liên tục, khiến nội dung buổi trò chuyện ngày càng sâu sắc và đầy tính thuyết phục.
Tô Đại liên tiếp thành công nhờ tài ăn nói
Tô Đại người Lạc Dương, thời Đông Chu, là nhà tung hoành (nhà du thuyết) nổi tiếng thời Chiến Quốc, là em trai Tô Tần, người từng cầm ấn Tướng quốc sáu nước. Tô Đại kiến thức uyên thâm, giỏi nắm bắt tình thế, thường đi du thuyết khắp các nước và trở thành nhà tổ chức, nhà phát động Hợp tung Liên hoành thời đó. Do mâu thuẫn giữa các nước vô cùng phức tạp, tình hình chính sự liên tục thay đổi nên nền tảng Hợp tung Liên hoành cũng không ổn định. Tuy nhiên, Tô Đại vẫn có thể kiểm soát được tình thế, nắm quyền chủ động, đặc biệt ông đã có rất nhiều ý kiến đóng góp cho nước Sở, Ngụy, Tề và Tần, từng là du thuyết chư hầu nước Yên, ông có ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử Trung Quốc.
Do các nước liên tục có sự thay đổi về lực lượng nên dù là nước mạnh hay nước yếu thì bảy nước này đều cố gắng tìm đồng minh cho mình, mục đích là để mình trở nên mạnh mẽ hơn, không sợ bất cứ nước nào. Khi đó, nước Tề và nước Triệu là kẻ thù của nước Yên, giữa các nước này thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và chiến tranh, còn nước Sở và nước Ngụy là đồng minh của nước Yên, mối quan hệ giữa các nước này khá thân thiết. Để đối phó với nước Tề, vua nước Yên đã phái Tô Tần đi sứ sang nước Tề để thực hiện kế hoạch ly gián, Tô Tần đã gây mất đoàn kết nội bộ triều đình nước Tề, tạo không khí căng thẳng, nghi ngờ, đố kỵ lẫn nhau giữa các đại quan và nhà vua, từ đó có được niềm tin của Tề Tuyên Vương và được gọi là “khách khanh”. Sau khi Tô Tần chết, âm mưu làm ly gián nội bộ triều đình nước Tề bị bại lộ, khiến nước Tề càng thù ghét nước Yên, thề sẽ báo thù nước Yên. Vua Yên biết thực lực mình còn yếu, không tin rằng sức mình đủ sức để chống lại nước Tề, do vậy trong lòng rất lo lắng, lại nghe theo lời xúi bẩy của Lộc Mao Thọ nên đã truyền lại ngôi vị cho con trai. Năm 314 TCN, tuy Yên Tử đã làm vua sang năm thứ 3, nhưng không được lòng quan quân và dân chúng, tình hình trong nước rối ren, hỗn loạn, trong mấy tháng trời mà có hàng vạn người chết, dân chúng hoang mang, lo lắng không yên. Nước Tề nhân cơ hội này đã chiếm đoạt nước Yên.
Tô Tần
Tô Tần, tự Quý Tử, người ở Lạc Dương, nước Đông Chu, là một nhà du thuyết nổi tiếng thời Chiến Quốc. Ông và bạn học Trương Nghi là những đại diện tiêu biểu của phái Tung Hoành gia. Ông xuất thân từ tầng lớp nông dân, song có tố chất của mưu sĩ. Tương truyền ông là học trò của thầy Quỷ Cốc Tử, nhiều năm theo học thuật Tung hoành Bài hạp của Quỷ Cốc Tử.
Năm 312 TCN, quân và dân nước Yên đua nhau nổi dậy, đuổi quân Tề ra khỏi nước Yên, người Yên lập Thái tử Bình lên làm vua, chính là Yên Chiêu Vương. Sau khi lên ngôi Chiêu Vương quyết tâm khôi phục lại đất nước hưng thịnh và tìm cách báo thù nước Tề. Một lần khi tới bái kiến Chiêu Vương, Tô Đại đã nói:
“Thần nghe nói đại vương ăn không ngon, ngủ không yên, thường lo lắng xem nên báo thù nước Tề thế nào?”. Chiêu Vương nói: “Ta vô cùng căm hận nước Tề, rất muốn báo thù. Nước Tề là kẻ thù của nước Yên, ta muốn tiến đánh nước Tề, song lại cảm thấy thực lực nước Yên chưa đủ mạnh để làm được điều đó”. Sau khi phân tích tình hình nước Yên xong, Tô Đại nói ra suy nghĩ của mình là nên dùng sách lược gì đối phó với nước Tề: “Nước Yên nhỏ và yếu, thực lực không đủ mạnh để chống lại nước Tề, chỉ có thể dựa vào liên minh các nước mới có thể chiến thắng nước Tề”, ông còn chỉ ra rằng: “Nước Tề đã chinh chiến nhiều năm, chắc chắn nhân lực và tài lực đều thiếu, do vậy nhất định sẽ rất tham tài. Trước hết bệ hạ nên cử người mang vàng bạc, châu báu sang tặng vua Tề, nói là kết tình thân, như vậy vua Tề sẽ không nghi ngờ gì nước Yên nữa, mà sẽ đem quân đi đánh nước Tống, nước Tề cứ việc ngồi chờ”.
Thế là trong suốt 20 năm, nước Yên bề ngoài đóng giả là bạn tốt của nước Tề, song lại ngấm ngầm liên minh với các nước khác, nhẫn nại chờ đợi cơ hội báo thù nước Tề. Khi nước Tề tiêu diệt được nước Tống thì thực lực đã giảm đi đáng kể. Năm 284 TCN, liên minh sáu nước Yên, Tần, Sở, Triệu, Ngụy, Hàn do nước Yên cầm đầu đã đồng loạt tấn công nước Tề và đã giành được thắng lợi. Nước Tề thất bại thảm hại, vua Tề bị giết chết, đây là điều hiếm thấy trong lịch sử Chiến Quốc.
Trong lịch sử phát triển của nước Tần trong và sau thời Chiến Quốc, Nhưỡng Hầu Ngụy Nhiễm là một nhân vật có sức ảnh hưởng rất lớn. Chị gái ông là Tần Võ Vương Hậu (Tuyên thái hậu). Tần Võ Vương Hậu tranh giành ngôi vua cho con trai mình với con trai của Huệ Văn Hậu, không bên nào chịu nhường bên nào, cuối cùng nhờ sự giúp đỡ của Ngụy Nhiễm mà con trai Tuyên Thái Hậu đã được lên ngôi, đó chính là Tần Chiêu Vương. Sau khi Chiêu Vương lên Ngôi, Ngụy Nhiễm rất được trọng dụng, mọi kế sách của ông đều được nhà vua nghe theo. Có thể nói, Ngụy Nhiễm nắm mọi quyền hành trong triều, thế lực không ai bằng, nhiều lần dẫn quân đi chinh chiến và đã gặt hái được nhiều thành công.
Năm 273 TCN, Nhưỡng Hầu Ngụy Nhiễm cùng với tướng quân Bạch Khởi dẫn quân Tần tiến đánh ba nước Triệu, Hàn, Ngụy, giành được Quan Tân của nước Triệu. Tuy nhiên, vì muốn lung lạc nước Triệu, Nhưỡng Hầu lại trả Quan Tân về cho nước Triệu, còn điều 4 vạn quân Tần tới nước Triệu để cùng tuyên chiến với nước Tề. Nhận được tin Triệu Tần liên minh tiến đánh nước Tề, Tề Vương vô cùng lo lắng, đứng ngồi không yên, lập tức cho triệu mưu sĩ Tô Đại tới bàn bạc sách lược. Tô Đại trầm tư suy nghĩ hồi lâu, sau đó nói với Tề Vương: “Bệ hạ đừng nóng vội, chỉ cần một bức thư là thần có thể nói rõ mọi lợi hại với Nhưỡng Hầu để ông ta ngừng điều quân đi tiến đánh nước Tề”. Tề Vương nghe vậy mừng rỡ vô cùng, vội vàng lệnh cho Tô Đại viết thư đẩy lui quân địch.
Tô Đại gửi cho Ngụy Nhiễm một bức thư viết như sau: “Tôi nghe sứ giả nói nước Tần dự định điều 4 vạn quân tới giúp nước Triệu tiến đánh nước Tề, Tôi không tin Nhưỡng Hầu lại làm như vậy, tôi đã nói với vua Tề rằng, Tần Vương anh minh sáng suốt, lại thông tỏ mưu lược, Nhưỡng Hầu tài giỏi, trí tuệ hơn người lại am hiểu quân sự, chắc chắn sẽ không tán thành chuyện điều binh sang giúp nước Triệu đánh nước Tề. Sở dĩ tôi mạo muội viết bức thư này là vì biết chắc chắn rằng, nếu ba nước Hàn, Triệu, Ngụy liên minh với nhau thì sẽ vô cùng bất lợi cho nước Tề. Nếu hôm nay đánh thắng nước Tề thì nước Triệu sẽ được lợi, nước Tần dại gì mà làm chuyện ngốc nghếch đó, bởi vì nước Triệu có mối thù với nước Tần, như vậy sẽ trái với mong muốn và lợi ích của người dân nước Tần. Hơn nữa, những người nhân nghĩa và chí sĩ của nước Tần đều sẽ nói: ‘Đánh thắng nước Tề, lật đổ nước Triệu, tiếp tục nam tiến để chinh phục nước Sở, chẳng phải là điều mà nước Tần đang mơ tới sao?’ Nhưng sự thực thì sao? Nước Tề đã quá mệt mỏi, không thể chống đỡ nổi liên minh Tần, Triệu. Làm như vậy thì nước Triệu sẽ được lợi lớn, còn nước Tần sao có thể đi chinh phục nước Sở. Hơn nữa, nếu nước Tần chỉ điều một lượng quân nhỏ sang nước Triệu thì nước Triệu và nước Sở sẽ cho rằng nước Tề không có thành ý gì trong việc tiêu diệt nước Tề; còn nếu như nước Tần điều một lượng quân lớn sang nước Triệu thì nước Triệu và nước Sở sẽ nghi ngờ nước Tần, họ sẽ không đồng tâm hiệp lực để đánh Tề nữa. Về phía nước Tề, khi ở vào tình thế nguy khốn, nước Tề buộc phải quay lưng lại nước Tần mà đầu quân sang nước Triệu và Sở, đây chắc chắn không là điều mong đợi của nước Tần. Hơn nữa, khi nước Tề cắt đất cho nước Triệu và nước Sở để cầu hòa thì hai nước này sẽ vui vẻ nhận lấy, và nhất định sẽ không tiếp tục đứng về phe nước Tần nữa. Nước Tề luôn mong muốn báo thù nước Tần, có lẽ sẽ liên minh với nước Triệu và Sở để tiến đánh nước Tần. Điều này đồng nghĩa với việc hai nước Sở và Triệu dùng nước Tần để đối phó với nước Tề, và dùng nước Tề để tính sổ với nước Tần, chẳng phải họ đang ngồi mát mà hưởng lợi sao? Rõ ràng hai nước Triệu và Sở rất thông minh đã giấu kín âm mưu của mình không để cho nước Tần và Tề biết. Tôi cho rằng, nước Tần đã có được An Ấp rồi, chỉ cần chăm lo phát triển kinh tế thì sẽ không có gì phải lo lắng nữa, dần dần sẽ chinh phục toàn thiên hạ, so với việc liều lĩnh xuất binh tiến đánh Tề thì cái nào lợi hơn? Câu trả lời là quá dễ dàng. Vậy nên, tôi tin rằng, sau khi cân nhắc kỹ lợi hại thì vua Tần và Nhưỡng Hầu sẽ không tùy tiện điều bốn vạn quân sang giúp nước Triệu đánh Tề nữa”. Đọc xong thư của Tô Đại, Nhưỡng Hầu suy nghĩ rất kỹ, cảm thấy Tô Đại nói rất có lý, vội vàng thu quân về, từ bỏ kế hoạch tác chiến “điều quân đánh Tề”. Sau này, mọi người đều khâm phục Tô Đại là người tài giỏi, chỉ một bức thư mà đẩy lui quân Tần, không chiến mà vẫn thắng.
Bạch Khởi
Bạch Khởi còn gọi là Công Tôn Khởi, ông sinh ở miền đông huyện My, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, là nhà quân sự, thống soái vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc. Ông chỉ huy rất nhiều chiến dịch quan trọng, lập nhiều công lao, có đóng góp to lớn trong sự nghiệp thống nhất Trung Quốc của nước Tần. Nghệ thuật chỉ huy tác chiến của ông là đại diện tiêu biểu cho trình độ phát triển chiến tranh trong thời Chiến Quốc.
Trong hai tình huống trên đây, Tô Đại đều vận dụng thuật Nội kiện. Trong “Hợp tung phá Tề, giành được toàn thắng”, Tô Đại trước hết đã thuận theo ý đồ của Yên Chiêu Vương - “muốn báo thù nước Tề”, sau đó phân tích rõ hình thế của hai nước Yên và Tề, đề xuất ra kế sách phù hợp - “Hợp tung phá Tề”, bởi vậy đã thu được thành công.
Còn trong “chỉ một bức thư mà đẩy lui quân Tần” Tô Đại đã khuyên Nhưỡng Hầu không nên điều quân sang Triệu để cùng Triệu tiến đánh nước Tề, phân tích cho Nhưỡng Hầu biết những điều lợi hại: hai nước Triệu và Sở sẽ không xuất hiện để đánh Tề mà dùng Tần để đối phó với Tề, dùng Tề để tính sổ với Tần; Tô Đại còn đưa ra lý lẽ hợp với mong muốn của nhà vua - có được An Ấp rồi, chỉ cần chăm lo phát triển kinh tế thì sẽ không có gì phải lo lắng nữa, dần dần sẽ chinh phục toàn thiên hạ.
Tiêu Hà trung thành hiến sách lược cho Lưu Bang
Trong phần “Quỷ Cốc Tử - Nội kiện” có nhắc tới “dụng kỳ ý”, chính là nói người bày mưu nên nắm bắt ý đồ, sở thích của nhà vua, để từ đó trò chuyện cởi mở, thân mật với nhà vua và giành được niềm tin của nhà vua. Chỉ có hiểu rõ suy nghĩ thực sự của nhà vua, biết được nhà vua muốn gì thì mới có thể thuyết phục thành công và được nhà vua tin dùng. Sở dĩ Tiêu Hà thời Hán tránh được sự hoài nghi của Lưu Bang, là vì ông biết lắng nghe những lời khuyên chân thành của thực khách, để từ đó hiểu rõ ý đồ thực sự của Lưu Bang, sau khi đã “dụng kỳ ý” thì tiếp tục chọn sách lược tương ứng, và cuối cùng là giải tỏa mối nghi ngờ của Lưu Bang, nhờ vậy ông đã bảo toàn được tính mạng, lại được Lưu Bang hết sức tin tưởng.
Tiêu Hà cùng với Trương Lương, Hàn Tín dược gọi là “Tam kiệt” của nhà Hán, Tiêu Hà là đại thần có công lao to lớn dưới thời Lưu Bang, được ghi danh trong sử sách.
Tiêu Hà
Tiêu Hà người huyện Bái, là thừa tướng thời nhà Hán. Ông có rất nhiều đóng góp đối với nhà Hán như: Mở mang Ba Thục - Hán Trung, xây dựng và củng cố căn cứ địa Quan Trung, có nhiều cống hiến cho việc thống nhất Trung Hoa, xây dựng Đại Hán; Trong thời gian chiến tranh loạn lạc đã chú ý đến đời sống nhân dân, khiến cho dân yêu Hán và ghét Sở, do đó được nhân dân ủng hộ, nên đã thắng lợi trong cuộc chiến với Sở vương; Đề cử những người có tài năng cho đất nước như Hàn Tín làm thống soái, Trương Lương làm phó tướng; Cho xây dựng tông miếu, xã tắc, cung điện, đặt lại quận huyện, xây dựng pháp luật, thể chế,… Sau khi Lưu Bang chết, ông lại tiếp tục trợ giúp cho con trai Lưu Bang là Huệ Đế.
Trong khởi nghĩa Bái Phong, Tiêu Hà đã vạch mưu kế giúp Lưu Bang; Khi tiến vào Quan Trung, Tiêu Hà chớp lấy thời cơ làm được rất nhiều việc mà Lưu Bang không ngờ tới và cũng chưa từng làm; Khi rút về trấn giữ Hán Trung, Tiêu Hà đã ba lần tiến cử Hàn Tín với Lưu Bang, nhưng Lưu Bang không dùng. Hàn Tín hết sức thất vọng và bỏ ra đi, Tiêu Hà hoảng hốt vội đuổi theo Hàn Tín; Khi bình định Tam Tần, Tiêu Hà là “bộ trưởng hậu cần” của Lưu Bang, giữ vững hậu phương, phụ trách lương thảo, điều động binh lính,… Sau khi Lưu Bang lên làm vua, Tiêu Hà chăm lo triều chính, lên kế hoạch giết Hàn Tín,…
Thế nhưng, một Tiêu Hà như vậy, song lại luôn bị Lưu Bang nghi ngờ.
Lưu Bang làm thế nào trở thành hoàng đế, Tiêu Hà vì sao trở thành lương thần, dường như chúng ta có thể tìm ra ngay câu trả lời ở đây.
Tiêu Hà và Lưu Bang vốn cùng quê. Khi Tiêu Hà làm việc ở huyện Bái, chuyên quản nhân sự, tương đương với trưởng phòng nhân sự hiện nay thì Lưu Bang chỉ là một anh nông dân quèn, khi đó Tiêu Hà thường xuyên giúp đỡ Lưu Bang. Khi Lưu Bang lên làm Đình trưởng, vẫn thường xuyên qua lại với Tiêu Hà, mối quan hệ giữa hai người ngày càng thân thiết, gắn bó. Khi Lưu Bang tới Hàm Dương phục vụ lao dịch, rất nhiều người tới tặng quà, tuy nhiên, mọi người thường chỉ tặng Lưu Bang 3 điếu (đơn vị tiền của Trung Quốc thời xưa), còn Tiêu Hà 5 điếu.
Sau khi Lưu Bang khởi nghĩa và được tôn làm Bái Công thì Tiêu Hà trở thành người trợ thủ đắc lực cho Lưu Bang, giúp Lưu Bang tiến vào Quan Trung. Quân Lưu Bang lật đổ vương triều Đại Tần, trong lúc quan quân tranh nhau vơ vét của cải châu báu của nhà Tần thì Tiêu Hà lại sai người mang tất cả tài liệu, sổ sách của nước Tần đi, nhờ đó mà Lưu Bang biết được tình hình trong thiên hạ, dân chúng đang chịu cảnh lầm than, cơ cực, Tiêu Hà khuyên Lưu Bang nên thu phục lòng dân, có vậy mới làm nên nghiệp lớn. Sau khi Lưu Bang tiến vào Hán Trung, Tiêu Hà đã nỗ lực tiến cử Hàn Tín với Lưu Bang, có thể nói Tiêu Hà là người có công lao to lớn đầu tiên trong việc thống nhất giang sơn của Lưu Bang.
Khi Lưu Bang cùng Hàn Tín đi chinh phục Tam Tần ở phía Đông, Tiêu Hà trấn giữ Hán Trung, Ba Thục, ông đã ổn định hậu phương, cung cấp lương thực, nhanh chóng giúp Hàn Tín bình định vùng đất Tam Tần và có những cống hiến lớn lao cho nhà Hán.
Năm thứ 2 triều Hán, Lưu Bang dẫn quân tiến đánh nước Sở, Tiêu Hà ở lại trấn giữ Quan Trung, trợ giúp thái tử việc triều chính, chế định pháp luật, thiết lập các chức tước trong triều đình. Mỗi khi Lưu Bang thất bại, Tiêu Hà lại kịp thời chuyển lương thực và bổ sung lực lượng ra tiền tuyến, nhờ đó mà Lưu Bang có thể chuyển bại thành thắng. Chính vì thế, hễ có việc hệ trọng là Lưu Bang lại giao toàn quyền quyết định cho Tiêu Hà.
Năm thứ 3 triều Hán, Lưu Bang và Hạng Vũ đối đầu nhau ở Huỳnh Dương và Thành Cao, chiến sự vô cùng căng thẳng, nhưng Lưu Bang vẫn thường xuyên phái sứ giả tới hỏi thăm, động viên Tiêu Hà, luôn miệng nói Tiêu Hà đã phải chịu nhiều vất vả, Hành động này của Lưu Bang không khiến Tiêu Hà cảm thấy có gì bất thường, tuy nhiên thuộc hạ của Tiêu Hà thì lại thấy có chút “bất ổn” trong đó.
Một người tên là Bào Sinh nói với Tiêu Hà rằng: “Hán Vương uy phong lẫy lừng, ngày đêm lo lắng tình hình chiến sự, song vẫn thường xuyên phái người về hỏi thăm, động viên thừa tướng, nói ngài vất vả. Tuy thừa tướng có vất vả thật, song làm sao có thể vất vả bằng Hán Vương đang xông pha ngoài chiến trường? Nhất định Hán Vương đã có ý nghi ngờ thừa tướng rồi, trên danh nghĩa là cử người tới hỏi thăm, song thực tế là để dò la thám thính. Theo thuộc hạ thì tốt nhất là thừa tướng nên đưa hết con cháu, họ hàng thân thích - những người có thể tòng quân của ngài ra chiến trường, như vậy Hán vương sẽ tin tưởng ngài hơn, sẽ không còn nghi ngờ ngài nữa”.
Tiêu Hà cho rằng Bào Sinh nói rất có lý, liền làm theo cách của Bào Sinh, quả nhiên Lưu Bang rất vui mừng. Lưu Bang có ý nghi ngờ Tiêu Hà hay không thì chỉ mình Lưu Bang mới biết, song hành động của ông ta quả thật khiến người khác không thể không nghi ngờ.
Lưu Bang
Lưu Bang, tự là Quý, là hoàng đế sáng lập nên nhà Hán, còn được gọi là Hán Cao Tổ. Ông là người làng Trọng Dương, ấp Phong, quận Bái (nay thuộc Giang Tô). Theo ghi chép trong “Sử ký”, ông vốn chỉ là một anh chàng nhà quê, sống buông thả, ham tửu sắc, thích nói to tiếng, thường vay tiền không trả. Tuy nhiên nhân lúc nhà Tần rối ren, loạn lạc, Lưu Bang đã chiêu mộ quân khởi nghĩa và giành được thắng lợi, ông đã trở thành vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc có xuất thân từ tầng lớp hạ lưu.
Sau khi tiêu diệt Hạng Vũ, bình định thiên hạ, Lưu Bang bắt đầu xét công lao để khen thưởng cho những quan quân có công. Lưu Bang cho rằng Tiêu Hà có công lao lớn nhất,phong hầu thưởng ấp, được trọng dụng nhất trong triều đình.
Tới năm thứ 11 triều Hán, Trần Hy làm phản ở đất Triệu, Lưu Bang đích thân dẫn quân đi đánh dẹp. Chiến sự đang hồi căng thẳng thì Hoài Âm Hầu Hàn Tín mưu phản ở Quan Trung, Lã Hậu nghe theo mưu kế của Tiêu Hà, giết chết Hàn Tín. Lưu Bang nghe nói Hàn Tín bị giết chết, bèn lập đem ấn tín Tướng quốc của Hàn Tín giao cho Tiêu Hà. Văn võ bá quan trong triều đình đều tới chúc mừng Tiêu Hà.
Một thực khách của Tiêu Hà tên là Chiêu Bình nhận ra dụng ý của Lưu Bang đã vội vàng tới khuyên giải Tiêu Hà.
Chiêu Bình vốn là Đông Lăng Hầu của nước Tần. Sau khi nhà Tần bị tiêu diệt thì trở thành dân thường, sống vô lo vô nghĩ, ông kiếm sống bằng nghề trồng dưa ở thành Đông, Trường An, mọi người gọi những quả dưa ông trồng ra là “dưa Đông Lăng”. Tiêu Hà nghe nói, ông là người có tài nên đã mời tới làm việc cho mình.
Hàn Tín
Hán Tín là người Hoài Âm. Ông là nhà quân sự, nhà chiến lược, thống soái và nhà lý luận vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc. Ông là danh tướng của Hán Cao Tổ Lưu Bang thời Hán Sở tranh hùng, có công rất lớn giúp Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ, lập nên nhà Hán kéo dài 400 năm. Sau này ông bị Lã Hậu buộc tội mưu phản và bị giết chết.
Trong lúc các văn võ bá quan trong triều đua nhau chúc mừng Tiêu Hà thì Chiêu Bình lại muốn gặp riêng Tiêu Hà. Tiêu Hà hỏi: “Có chuyện gì vậy?”. Chiêu Bình nói: “Tướng quốc có biết rằng đại họa sắp giáng xuống đầu mình không?”
“Sao tự dưng ngươi lại nói như vậy?”
“Tướng quốc thử nghĩ lại coi, hoàng thượng đích thân đi dẹp loạn, nếm mật, nằm gai, chịu bao vất vả, có thể mất mạng bất cứ lúc nào, còn tướng quốc trấn giữ Quan Trung, có thể nói là sống những ngày bình yên vô sự, không lo cung tên bắn lén, giáo mác chém nhằm, không phải chịu giá rét, mưa bão, đã thế hoàng thượng còn phong ngài làm tướng quốc, tăng cường quân bảo vệ cho ngài, thưởng tiền bạc, đất đai cho ngài, vì lẽ gì cơ chứ?”.
“Điều này là vì lẽ gì đây?” Tiêu Hà trầm ngâm suy nghĩ.
Chiêu Bình nói: “Hàn Tín đã có âm mưu làm phản, do vậy chắc chắn hoàng thượng cũng sẽ sinh lòng nghi ngờ tướng quốc. Hoàng thượng thưởng binh lính, đất đai cho tướng quốc, trên danh nghĩa thì là tỏ ý sủng ái tướng quốc, song thực tế lại là đề phòng ngài. Mong thừa tướng hãy sáng suốt từ chối, đừng nhận, mau mang hết tiền bạc trong nhà sung công quỹ, như vậy sẽ biến họa thành phúc, sẽ được lòng hoàng thượng”.
Tiêu Hà cảm thấy Chiêu Bình nói rất có lý, vội vàng dâng biểu xin từ chức, hơn nữa còn mang hết tiền bạc trong nhà sung công quỹ, quả nhiên đã khiến Lưu Bang rất vui lòng.
Trang Tân vì nước thuyết phục Tương Vương
Cuối thời Chiến Quốc, Sở Hoài Vương bị Trương Nghi lừa tới nước Tần, bị nước Tần giam lại, cuối cùng chết ở nước Tần. Con trai của Hoài Vương lên ngôi, sử sách gọi ông ta là Sở Khoảnh Tương Vương. Khi Khoảnh Tương Vương lên ngôi, nước sở đang ngày một suy tàn. Vị vua này đã không lo lắng tới việc chấn hưng đất nước, trả thù cho cha, trái lại còn bỏ bê triều chính, suốt ngày chỉ chìm đắm trong tửu sắc.
Nước Sở có một vị quan già tên là Trang Tân, ông là con cháu của Sở Trang Vương. Đứng trước tình hình này, ông rất lo lắng cho tương lai của nước Sở, bèn thẳng thắn khuyên nhủ Sở Vương: “Bên trái và phải của hoàng thượng có Chu Hầu và Hạ Hầu nịnh bợ, phía sau có Yên Lăng Quân và Thọ Lăng Quân tâng bốc vỗ về, hoàng thượng lại suốt ngày say mê tửu sắc mà quên việc triều chính, nước Sở đang đứng trước mối nguy lớn”.
Khoảnh Tương Vương nghe vậy không hài lòng nói: “Tiên sinh càng già càng ăn nói hồ đồ, tiên sinh coi ta là bậc hoàng đế bất tài của nước Sở phải không?”.
Trang Tân vội Chú thích: “Quả thực thần nhìn thấy rõ mối nguy hiểm đang rình rập. Nếu hoàng thượng vẫn sủng ái bốn người này thì chắc chắn nước Sở sẽ sụp đổ trong nay mai, xin hoàng thượng cho phép thần tới lánh nạn tại nước Triệu”.
Trang Tân rời khỏi nước Sở. Không lâu sau, quả nhiên đại tướng nước Tần là Bạch Khởi dẫn quân tới đánh chiếm một số vùng đất của nước Sở như Ngạc, Vu Trần, Thượng Sái. Lúc này, Sở Khoảnh Tương Vương mới hối hận vì đã không nghe theo lời khuyên của Trang Tân, bèn sai người tới nước Triệu đón Trang Tân về. Khi gặp Trang Tân, Khoảnh Tương Vương bèn xin lỗi: “Ta thực sự hối hận vì lúc đó đã không nghe theo lời khuyên của tiên sinh, bây giờ tiên sinh xem nên làm thế nào?”.
Trang Tân nói: “Vẫn chưa muộn, còn nước còn tát. Xưa nay, Thương Thang Vương và Chu Võ Vương chỉ nắm giữ những vùng đất khoảng trăm dặm, song đã dần dần hưng thịnh, và cuối cùng có được thiên hạ; Còn Hạ Kiệt Vương và Ân Trụ Vương đã có thiên hạ rồi, song cuối cùng lại để mất ngôi vị. Mặc dù hôm nay nước Tần đã chiếm đất của ta, song ta vẫn còn hàng nghìn dặm, vẫn còn hy vọng”.
Ông lại nói tiếp: “Hoàng thượng lẽ nào chưa từng nhìn thấy con chuồn chuồn sao? Nó có sáu chân, hai cánh, có thể bay trên bầu trời, nó có thể bay xuống bắt muỗi ăn, có thể bay lên uống những giọt sương rơi xuống. Nó cho rằng không có chuyện gì phải tranh giành với người khác, do vậy sẽ không có mối nguy hiểm nào rình rập nó cả. Tuy nhiên, nó lại không thể ngờ rằng mình có thể mắc vào nhựa chảy ra từ cành cây, và nó sẽ trở thành mồi ngon của đàn kiến. Chuyện của chuồn chuồn hãy còn là chuyện nhỏ, chuyện của chim sẻ vàng cũng như vậy. Chim sẻ vàng có thể bay tới mổ những hạt gạo rơi trên đất, hay bay lên đậu trên những chạc cây to để sưởi nắng hoặc nghỉ ngơi. Nó thường giang rộng cánh bay lượn trên bầu trời mà không phải lo lắng điều gì, vì nó tự cho rằng mình chẳng có gì đáng phải đề phòng cả. Tuy nhiên, nó không thể ngờ rằng, rất có thể nó sẽ trở thành điểm ngắm bắn của các bậc công tử, nó có thể bị bắn trúng và nằm gọn trong tay của các bậc công tử bất cứ lúc nào. Ban ngày nó hãy còn bay lượn trong rừng rậm, vậy mà tối đến, nó đã trở thành món ngon cho con người thưởng thức. Chuyện của chim sẻ vàng hãy còn là chuyện nhỏ, chuyện của ngỗng trời cũng như vậy. Ngỗng trời bay tự do trên bầu trời cao, nó tự cho rằng mình không có mối nguy hiểm nào rình rập, nên chẳng có gì phải bận tâm cả. Tuy nhiên, nó không thể ngờ rằng, nó có thể trở thành con mồi ngon của bất cứ người thợ săn nào. Ban ngày, nó còn sải cánh bay trên biển rộng là thế, vậy mà buổi tối nó đã bị bỏ vào nồi nấu chín rồi. Chuyện của ngỗng trời hãy còn là chuyện nhỏ, chuyện của Linh Hầu nước Sái cũng như vậy. Hàng ngày, ông ta đi xe ngựa chu du khắp mọi nơi, tới đồi cao phương nam, thưởng ngoạn núi hùng vĩ phương bắc, vui thú bên cung tần mỹ nữ, ông ta chỉ lo vui chơi mà quên mất quốc gia đại sự. Nhưng ông ta có ngờ đâu rằng, tướng quân nước Sở nhận mệnh lệnh của Sở Linh Vương dẫn quân tiến đánh nước Sái, bắt sống ông ta giải về cho vua Sở? Chuyện của Sái Linh Hầu vẫn còn là chuyện nhỏ, chuyện của hoàng thượng cũng như vậy, bên cạnh hoàng thượng lúc nào cũng có Chu Hầu, Hạ Hầu, phía sau hoàng thượng lúc nào cũng có Yên Lăng Quân và Thọ Lăng Quân, tiêu tốn không biết bao nhiên tiền của của quốc gia, hoàng thượng chỉ lo vui thú khắp nơi mà không màng chuyện triều chính. Liệu hoàng thượng có ngờ rằng vua Tần đã lệnh cho tướng quân Bạch Khởi dẫn quân tiến đánh nước Sở và đuổi hoàng thượng ra khỏi thành không?
Khoảnh Tương Vương nghe tới đây, mặt biến sắc, lúc này mới hiểu rõ tính nghiêm trọng của vấn đề.
Thương Thang
Thương Thang, vốn tên là Tử Lữ, còn được gọi là Võ Thang, Thành Thang, Đường, Đại Ất, không rõ năm sinh năm mất. Ông là thủ lĩnh bộ lạc Thương, từng tiêu diệt Hạ xây dựng Thương. Thương Thang là một trong những người đầu tiên giành lấy thiên hạ bằng vũ lực, khiến lịch sử Trung Quốc sau thời Trung Hoa Đế Quốc trở nên phong phú và đa dạng, phá vỡ định luật: “Thiên tử bất khả biến”, có thể nói ông là nhà cải cách đầu tiên trong lịch sử chính trị Trung Quốc.
Từ đó, Khoảnh Tương Vương đã thay đổi hành vi của mình, rất trọng dụng Trang Tân. Trang Tân trở thành người lập sách lược cho Khoảnh Tương Vương đối phó với nước Tần, cuối cùng nước Sở đã thu hồi lại mười lăm thành trì tại Hoài Nam. Trang Tân cũng được Khoảnh Tương Vương thưởng cho rất nhiều bổng lộc và tước vị cao, ông được phong làm Dương Lăng Quân.
Trong phần “Quỷ Cốc Tử - Nội kiện” đã chỉ ra rằng: “Nãi sủy thiết thời nghi, tòng tiện sở vi, dĩ cầu kỳ biên”, ý nói rằng điểm mấu chốt của việc du thuyết chính là lựa chọn thời cơ thích hợp để làm cho mưu kế của mình trùng khớp với ý đồ của đối phương. Trang Tân thuyết phục thành công Khoảnh Tương Vương chính là vì ông đã nói đúng lúc và đúng hoàn cảnh. Khi Sở Vương chìm đắm trong tửu sắc, ông đã thẳng thắn nói rằng nước Sở đang đứng trước mối nguy lớn, có thể sụp đổ bất cứ lúc nào, Trang Tân làm vậy là vì muốn đánh thức đầu óc đang mụ mị của Sở Vương. Khi nước Sở gặp nguy, Sở Vương hoang mang lo sợ thì Trang Tân lại động viên rằng “còn nước còn tát” để khơi gợi lòng quyết tâm của Sở Vương. Sau đó, ông lại dùng phép luận chứng “tượng tỷ”, bắt đầu từ chuyện con chuồn chuồn, chim sẻ vàng, ngỗng trời, rồi nói tới Sái Linh Hầu, và cuối cùng là Khoảnh Tương Vương, bắt đầu từ con vật nhỏ rồi tới con vật lớn hơn, bắt đầu từ động vật rồi tới con người, tất cả chỉ là để chứng minh một điều rằng nếu nhà vua vẫn cứ ham vui chơi, tin dùng kẻ tiểu nhân thì chắc chắn tai họa sẽ giáng xuống đầu. Có thể nói, trong quá trình du thuyết vua Sở, Trang Tân vừa vận dụng thuật Nội kiện, lại vừa vận dụng thuật Phản ứng, nhờ đó đã thu được thành công.
Trương Nghi vận dụng thành công sách lược Liên hoành nhờ tài ăn nói
Thuật Nội kiện là phương pháp liên quan tới việc hiến mưu kế trong “Quỷ Cốc Tử” người du thuyết chủ trương tạo dựng quan hệ gần gũi, thân mật với đối phương, hiểu rõ tâm lý của đối phương để gây xúc động đối phương, từ đó khiến đối phương nảy sinh tình cảm tốt đẹp với mình, sau đó mới đề xuất ra ý kiến và mưu lược của mình với đối phương, làm ảnh hưởng tới quyết sách của đối phương. Thời Chiến Quốc, Trương Nghi chính là một người rất giỏi vận dụng thuật Nội kiện.
Cuối thời Chiến Quốc, Tần Huệ Vương bổ nhiệm Trương Nghi làm tướng quốc, Trương N