PHẦN 4 ĐỂ HY (BỊT VẾT NỨT) Nguyên văn
Vật (1) hữu tự nhiên, (2) sự hữu hợp ly. (3) Hữu cận nhi bất khả kiến, (4) hữu viễn nhi khả tri. (5) Cận nhi bất khả kiến giả, bất sát kỳ từ dã; Viễn nhi khả tri giả, phản vãng dĩ nghiệm lai dã.
Chú thích
1. Vật: Vạn vật trên thế gian.
2. Tự nhiên: Hình dạng vốn có, hiểu rộng ra là quy luật bản thân.
3. Hợp ly: Tụ hợp và phân ly.
4. Kiến: Nhìn thấy, phát hiện ra, quan sát thấy.
5. Tri: Hiểu biết.
Dịch nghĩa
Vạn vật đều có quy luật tồn tại của bản thân chúng, sự tình đều có đạo lý tụ hợp và phân ly của chúng. Có những cái rất gần song lại không thể quan sát thấy, có những cái rất xa song lại có thể hiểu thấu; Rất gần mà không quan sát thấy, chính là do đã quá quen thuộc nên không nhận ra được thực hư trong lời nói của đối phương; Rất xa song lại có thể hiểu thấu, chính là vì thường xuyên qua lại nên quan sát rất kỹ về nhau.
Đây là phần đặc sắc nhất trong cuốn Quỷ Cốc Tử, cũng là phần chịu sự công kích nặng nề nhất của tư tưởng chính thống. Tác giả không nhìn nhận và xử lý mâu thuẫn xã hội dựa trên lập trường của người thống trị cao nhất, mà là nhìn nhận và xử lý mâu thuẫn xã hội dựa trên lập trường công bằng. Tác giả công khai tuyên bố: Khi đất nước xảy ra mâu thuẫn, nếu có thể cứu vớt được thì giúp người cầm quyền cứu vớt đất nước; Còn nếu đất nước đã thối nát, không thể cứu vớt nổi thì lật đổ nó, thay thế bằng người cầm quyền mới. Quan điểm này khi đó được cho là tư tưởng tiến bộ, gần giống với tư tưởng dân chủ.
Nguyên văn
Hi giả, (1) hách dã. (2) Hách giả, giản dã. (3) Giản giả, thành đại khích dã. Hy thủy hữu trẫm, (4) khả để nhi tắc, (5) khả để nhi khước, (6) khả để nhi tức, (7) khả để nhi nặc, (8) khả để nhi đắc, (9) thử vị để hy chi đạo (10) dã.
Chú thích
1. Hy giả: Vết nứt.
2. Hách dã: Khe nứt, cùng nghĩa với “hy”, song độ nứt rộng hơn.
3. Giản dã: Khe núi, mức độ nứt rộng hơn “hách”.
4. Trẫm: Dấu hiệu báo trước, trạng thái manh nha.
5. Tắc: Lấp, bịt
6. Khước: Rút lui
7. Tức: Tiêu diệt
8. Nặc: Che giấu
9. Đắc: Có được, giành được.
10. Để hy chi đạo: Đạo lý bịt vết nứt.
Dịch nghĩa
“Hy” chính là “hách”, mà “hách” chính là “giản”. Vết nứt sẽ phát triển thành khe nứt, khe nứt sẽ phát triển thành khe núi. Khi vết nứt vừa xuất hiện thì nó sẽ có dấu hiệu báo trước, do đó có thể dựa vào đó để bịt vết nứt, nhờ bịt mới khiến vết nứt tắc lại, nhờ bịt mới khiến vết nứt sẽ nhỏ lại, nhờ bịt mới khiến vết nứt không tiếp tục lan rộng ra, nhờ bịt mới khiến mất đi vết nứt, nhờ bịt mới có được thành công, đây chính là đạo lý bịt vết nứt của thuật Để hy.
Khi thế giới “bất khả trị” thì cần “để nhi đắc chi” (bịt để có được thành công), hay nói cách khác chính là “để nhi phản chi” (bịt để trở lại), “để nhi phúc chi” (bịt để lật đổ). Khi mâu thuẫn và xung đột trong xã hội cũ có thể giải quyết êm thấm trong chế độ quân chủ thì cần tìm mọi cách để bịt “các vết nứt” này lại, để cho xã hội trở lại trạng thái quân chủ vốn có của nó, đây cũng chính là “để nhi tắc chi” (bịt mới tắc lại), hay “để nhi phản chi” (bịt mới trở lại); Khi mâu thuẫn và xung đột trong xã hội không thể giải quyết êm thấm trong chế độ quân chủ, tức là “vết nứt” đã quá lớn, không thể bịt nổi thì chỉ còn cách lật đổ vị vua hiện tại, thay thế bằng một vị vua khác, như vậy, cũng có thể nói là đã khiến xã hội đang ở trạng thái “thiên hạ rối ren” bước sang trạng thái “thiên hạ đại trị”, đây cũng chính là “để nhi đắc chi” (bịt mà thành công), hay “để nhi phúc chi” (bịt mà lật đổ).
Nguyên văn
Sự chi nguy (1) dã, thánh nhân tri dã. Độc bảo kỳ dụng, nhân hóa thuyết sự, (2) thông đạt kế mưu, dĩ thức tế vi. Kinh khởi thu hào chi mạt, huy chi vu thái sơn chi bản. (3) Kì thi ngoại, triệu manh nha nghiệt chi mưu, (4) giai do để hy. Để hy khích, vi đạo thuật. Thiên hạ phân thác, thượng vô minh chủ, công hầu vô đạo đức, tắc tiểu nhân sàm tặc, hiền nhân bất dụng, thánh nhân thoán nặc, tham lợi trá ngụy giả tác, quân thần tương hoặc, thổ băng ngõa giải nhi tương phạt xạ, (5) phu tử ly tán, quai loạn phản mục, thị vị manh nha hy hách. Thánh nhân kiến manh nha hy hách, tắc để chi dĩ pháp. Thế khả dĩ trị, tắc để nhi tắc chi; bất khả trị, tắc để nhi đắc chính, để nhi tắc chi; tam vương chi sự, để nhi đắc chi. Chư hầu tương để, bất khả thăng sổ, đương thử chi thời, năng để chi hữu.
Chú thích
1. Nguy: Chỉ dấu hiện nguy hiểm.
2. Độc bảo kỳ dụng: Luôn giữ đầu óc tỉnh táo, không được để tinh thần hoang mang. Nhân hóa thuyết sự: Phân tích sự vật dựa theo đạo lý “thuận theo sự thay đổi của tự nhiên”.
3. Kinh: Khởi đầu, bắt đầu. Thu hào chi mạt: hình dung sự vật nhỏ tới mức không gì nhỏ hơn. Huy: làm lay động, ở đây chỉ sự trưởng thành lớn mạnh. Thái Sơn: núi to, hoặc chỉ núi Thái Sơn. Bản: phần gốc rễ của cây, ở đây chỉ chân núi.
4. Thi ngoại: Thực thi ở thế giới bên ngoài. Triệu manh: Dấu hiệu manh nha. Nghiệt: chồi (là bộ phận mọc lên ở gốc sau khi cây bị chặt phá),
5. Phân thác: Rối loạn nên phức tạp. Sàm tặc: dùng lời lẽ và hành vi đê tiện làm tổn hại tới người tốt. Tương phạt xạ: tấn công sát hại lẫn nhau.
Dịch nghĩa
Sự tinh có dấu hiệu gặp nguy hiểm thì chỉ có thánh nhân mới có thể quan sát thấy, hơn nữa đủ tỉnh táo để nhận biết rõ tình hình, cũng như phân tích tình hình dựa theo đạo lý “thuận theo sự thay đổi của tự nhiên”, từ đó chế định ra sách lược phù hợp, phòng bị cẩn thận dù là những nơi nhỏ nhất. Vạn vật khi mới ra đời đều rất nhỏ, nhỏ tới mức không gì có thể nhỏ hơn, nhưng tới thời kỳ phát triển thì nó có thể làm lay động chân núi to. Khi thánh nhân tiến hành hoạt động giáo hóa ở bên ngoài thì đều có thể đề phòng và tiêu diệt mọi âm mưu, kế sách của những kẻ tiểu nhân nhờ vận dụng thuật Để hy. Từ đó có thể thấy, biện pháp bịt vết nứt hay lỗ rò rỉ cũng chính là một đạo thuật. Thiên hạ rối loạn nên vô cùng phức tạp, triều đình không có vua anh minh, sáng suốt, công hầu không có phẩm chất đạo đức, tiểu nhân làm càn, người hiền không được trọng dụng, thánh nhân sống ẩn dật nơi xa, kẻ tham lam thừa cơ vơ vét. Quân thần nghi ngờ lẫn nhau, phép nước kỷ cương không có hiệu lực, khiến dân chúng đua nhau nổi dậy. Dân sống không yên ổn, lưu lạc khắp nơi, vợ chồng xa cách, đó chính là dấu hiệu cho thấy đất nước loạn lạc. Sau khi nhìn thấy vết nứt này, thánh nhân sẽ chọn thuật Để hy nhằm bịt vết nứt. Thánh nhân cho rằng, nếu đất nước có thể trị thì phải tiêu diệt hết những kẻ làm phản; còn nếu đất nước không thể trị thì phải cải tạo triệt để, làm cho đất nước thay đổi hoàn toàn. Hoặc là dùng biện pháp này để trị, hoặc là dùng biện pháp kia để trị; hoặc là khiến đất nước trở về trạng thái vốn có của nó, hoặc là lật đổ nó để thay cái mới. Chính trị thời Ngũ đế chính là đã tiến hành áp chế, diệt trừ kẻ địch để bảo vệ và củng cố chính quyền; chính trị thời Tam vương chính là áp chế, tiêu diệt đối thủ để giành chính quyền. Đó đều là những ví dụ cụ thể trong lịch sử. Còn sự tranh giành, ẩu đả giữa các chư hầu nhiều không kể xiết, khi thiên hạ hỗn loạn, người có thể áp dụng thuật Để hy chính là người đáng được tôn sùng nhất.
Nguyên văn
Tự thiên địa chi hợp ly chung thủy, tất hữu hy khích, bất khả bất sát dã. Sát chi dĩ bài hạp, (1) năng dụng thử đạo, thánh nhân dã. Thánh nhân giả, thiên địa chi sứ (2) dã. Thế vô khả để, (3) tắc thâm ẩn chi đãi thời; thời hữu khả để, (4) tắc vi chi mưu. Khả dĩ thượng hợp, (5) khả dĩ kiểm hạ. (6) Năng nhân (7) năng tuần, (8) vi thiên địa thủ thần. (9)
Chú thích
1. Sát chi dĩ bài hạp: Quan sát và phân tích vạn vật dựa vào thuật Bài hạp.
2. Sứ: Sứ giả
3. Thế vu khả để: Thời thế yên bình, không có bất kỳ vết nứt nào.
4. Thời hữu khả để: Thời thế loạn lạc, xuất hiện vết nứt.
5. Thượng hợp: Phù hợp với ý trên
6. Kiểm hạ: Kiểm tra và chỉ đạo dân chúng
7. Nhân: Căn cứ
8. Tuần: Tuân theo
9. Thiên địa thủ thần: Thần bảo vệ của trời đất. Tức là chỉ người thống trị đất nước.
Khi vận dụng thuật Để hy, cần chú ý ba điểm sau: Thứ nhất, bất cứ chỗ nào cũng có thể bị nứt, cần phải biết cách phát hiện ra chỗ nứt; Thứ hai, đặc tính rõ rệt nhất của vết nứt chính là có thể lan rộng ra, do đó cần phải kịp thời khắc phục vết nứt dù là bằng bất cứ biện pháp nào; Thứ ba, vết nứt có thể tạo ra, cần giỏi nắm bắt thời cơ để giải quyết vấn đề.
Dịch nghĩa
Từ khi thiên địa được sinh ra, đã có sự tụ hợp và phân ly từ đầu tới cuối, bất cứ sự việc nào đều sẽ xuất hiện vết nứt trong quá trình phát triển và thay đổi, đây là điều mà chúng ta cần phải chú ý quan sát. Quan sát và phân tích vạn vật dựa vào thuật Bài hạp, còn giải quyết vấn đề dựa vào thuật Để hy, làm được vậy thì sẽ là thánh nhân. Thánh nhân chính là đặc sứ do trời phái tới. Nếu thời thế yên bình, không có bất kỳ vết nứt nào thì thánh nhân sẽ giấu mặt, chờ đợi thời cơ tới mới xuất hiện; nếu thời thế loạn lạc, xuất hiện vết nứt thì thánh nhân sẽ vạch mưu kế để bịt vết nứt này lại. Do vậy, thánh nhân vừa có thể hợp tác với vua, lại vừa có thể kiểm tra và chỉ đạo dân chúng. Tuân thủ pháp “Để hy” thì có thể tạo lập chỗ đứng “bất bại” trong thiên hạ và trở thành thần bảo vệ của trời đất (tức người thống trị đất nước).
ĐIỂN CỐ MƯU LƯỢC
Trần Bình khéo dùng kế ly gián trừ khử Phạm Tăng
Mưu lược “để hy” chính là nói, khi xuất hiện vết nứt, cần ngăn chặn và khống chế nó để nó không tiếp tục lan rộng nữa, khi gặp vết nứt không thể bịt nổi thì cần đập vỡ nó ra, để làm mới lại hoàn toàn. Có hai cách làm mới lại hoàn toàn: một là bổ sung và một là chinh phục. Kết quả của bổ sung là khôi phục lại hình dáng ban đầu, còn kết quả của chinh phục là xây dựng lại cái mới. Bịt vết nứt nhỏ thì có thể phòng tai họa khi nó còn chưa xảy ra. Thực tế thì bịt vết nứt nhỏ chính là mưu lược trị quốc. Thời Ngũ đế đã dùng biện pháp bổ sung, còn thời Tam vương chỉ dùng biện pháp chinh phục. Còn sự tranh giành, ẩu đả giữa các chư hầu nhiều không kể xiết. Khi thiên hạ hỗn loạn, cần phải giành thế thắng dựa vào thuật Để hy. Cái gọi là vết nứt chính là chỉ sự biến động, gian kế. “Quan sát kỹ vết nứt” thì sẽ thấy được kẻ gian. Ngoài ra, “quan sát kỹ vết nứt” cũng có thể được hiểu là tìm ra mâu thuẫn trong nội bộ của kẻ địch, sau đó, dùng kế ly gián để làm cho mâu thuẫn này ngày một lan rộng, cuối cùng là gây mất đoàn kết nội bộ kẻ địch.
Trong thời kỳ Hán Sở tranh hùng, quân Sở khi đó dưới sự chỉ huy của Hạng Vũ, cùng với các trợ thủ đắc lực là Phạm Tăng, Chung Ly Muội, Long Thả và Chu Ân. Trong đó, đáng nể nhất là Phạm Tăng, ông là một người túc trí đa mưu, nhiều lần giúp Hạng Vũ nhận ra mưu kế của Trương Lương và Trần Bình. Trừ khử được Phạm Tăng và Chung Ly Muội thì cũng chính là chặt đứt được cánh tay phải và bả vai trái của Hạng Vũ. Trần Bình đã làm được điều này, ông đã vận dụng thành công kế ly gián làm cho mâu thuẫn giữa Sở Bá Vương Hạng Vũ và mưu sĩ Phạm Tăng ngày một gay gắt, và cuối cùng đã chia cắt được hai người.
Trong Binh thư có nói: “Dụng nhân bất nghi, nghi nhân bất dụng” (đã dùng thì không nghi ngờ, đã nghi ngờ thì không dùng), cầm quân đi đánh chiếm thiên hạ, mà ngay cả người của mình cũng không tin thì sẽ tạo cơ hội tốt cho kẻ thù giành thế thắng.
Khi Hàn Tín liên tiếp giành thắng lợi ở phía bắc thì Hạng Vũ đích thân dẫn đại quân tới tấn công Huỳnh Dương. Lưu Bang trong lòng lo lắng hỏi Trần Bình: “Thiên hạ rối ren, bao giờ mới bình yên đây?”. Trần Bình trả lời: “Hoàng thượng đang rất lo lắng, chắc chắn là vì Hạng Vũ. Thần thấy thuộc hạ của Hạng Vũ không có mấy ai được như Phạm Tăng, Chung Ly Muội. Nếu hoàng thượng chịu bỏ ra vài trăm lượng vàng mua chuộc quân Sở, tiến hành kế phản gián để ly khai vua tôi họ với nhau, làm cho họ ngờ vực lẫn nhau, sau dó thừa dịp cất quân tấn công thì có thể chiến thắng nước Sở dễ dàng”. Lưu Bang nói: “Ta không tiếc tiền của, miễn sao đánh thắng Sở là được”. Nói xong, Lưu Bang lập tức sai người lấy bốn vạn lượng vàng giao cho Trần Bình.
Trần Bình nhận vàng xong, lập tức thi hành kế sách của mình là tung vàng ra để mua chuộc quân Sở. Chỉ hai, ba ngày sau, quả nhiên tin đồn “phe Chung Ly Muội lập được nhiều công trạng mà vẫn không được chia đất, cho nên muốn hợp lực với nhà Hán để tiêu diệt Sở” lan khắp quân Sở. Hạng Vũ vốn sẵn tính đa nghi, quả nhiên sinh lòng ngờ vực sau khi biết được tin đồn này, đã coi phe Chung Ly Muội là phản thần, không còn tin dùng nữa, chỉ còn trọng dụng Phạm Tăng. Phạm Tăng khuyên Hạng Vũ nhanh chóng tấn công Huỳnh Dương đề phòng Lưu Bang trốn chạy. Hạng Vũ bèn đích thân dẫn quân đi bao vây Huỳnh Dương. Lưu Bang thấy Huỳnh Dương đã bị bao vậy chặt, khó mà trụ vững, bèn sai người tới doanh trại nước Sở để cầu hòa, bày tỏ mong muốn lấy Huỳnh Dương làm ranh giới, phía đông quy về Sở, phía tây quy về Hán, thiên hạ chia đều cho hai bên. Đương nhiên Hạng Vũ không đồng ý, song do sứ giả của nước Hán đã tới, nên đành sai người đi sứ sang nước Hán để trả lời, Trần Bình nhân cơ hội này nghĩ ra mưu kế lừa sứ giả nước Sở.
Khi sứ giả nước Sở tới bái kiến Lưu Bang, Lưu Bang theo kế của Trần Bình giả vờ say rượu, hỏi sứ giả nước Sở lung tung vài câu rồi đuổi anh ta về. Trần Bình bèn đưa sứ giả nước Sở vào phòng tiếp đón, vừa bước chân vào phòng, sứ giả nước Sở đã thấy người bưng rượu thơm, thịt ngon lại, anh ta cảm thấy lo lắng, vì không hiểu Hán Vương làm vậy là có ý gì. Đúng lúc này, Trần Bình bước vào, hỏi sứ giả nước Sở về tình hình của Phạm Tăng, còn hỏi Phạm Tăng có gửi thư cho mình không. Sứ giả nước Sở nói: “Tôi phụng mệnh Hạng Vương tới đây, chứ không phải phụng mệnh của Á phụ tới đây (Á phụ chính là tên mà Hạng Vũ thường gọi Phạm Tăng)”. Trần Bình nghe vậy, tỏ vẻ vô cùng ngạc nhiên, không nói thêm lời nào nữa mà lẳng lặng ra về. Một lát sau thì thấy có người chạy vào trong bếp, lệnh cho quân hầu bê tất cả rượu thịt đi, còn nghe rõ tiếng cằn nhằn của anh ta: “Không phải người do Á phụ phái đến thì làm sao được hưởng tiệc thịnh soạn thế này”. Sứ giả nước Sở càng hoang mang lo lắng. Sau khi rượu thịt được bê đi thì không khí im lặng như tờ, chỉ khi mặt trời lặn hẳn mới thấy có người bê cơm rượu lại mời sứ giả nước Sở ăn. Sứ giả nước Sở nhìn vào mâm cơm chỉ thấy có rau luộc, không thấy có thịt cá, đã thế rượu thì chua, cơm thì thiu, sứ giả nước Sở vô cùng tức giận, mặc dù bụng đói cồn cào, song nhất quyết không chịu ăn, ra về không một lời từ biệt.
Trần Bình
Trần Bình là người Dương Vũ thời Tây Hán, là công thần khai quốc vương triều Tây Hán. Sau khi Hán Cao Tổ mất, Lã Hậu phong ông làm Lang trung lệnh, dạy dỗ Huệ Đế. Năm Huệ Đế thứ 6, ông cùng Vương Lăng làm tả, hữu thừa tướng. Sau khi Vương Lăng từ chức, Trần Bình làm hữu thừa tướng, tuy nhiên do Lã Hậu đại phong Chư Lã làm vua, nên Trần Bình bị tước đoạt hết quyền lực trong tay. Sau khi Lã Hậu chết, ông và thái úy Chu Bột bàn mưu trừ bỏ Chư Lã, lập Lưu Hằng lên làm vua, lấy tên là Văn Đế.
Sứ giả nước Sở chạy liền một mạch tới doanh trại nước Sở, bẩm báo lại toàn bộ tình hình cho Hạng Vũ nghe, đồng thời nói Phạm Tăng tư thông với Hán Vương, cần đề phòng cảnh giác. Hạng Vũ bực tức nói: “Ta sớm đã nghe tin đồn này, nhưng không tin, nào ngờ đúng như vậy. Kẻ thất phu già này đúng là không muốn sống nữa rồi”. Các tướng sĩ có mặt ở đó ra sức khuyên can thì Hạng Vũ mới kìm được cơn tức giận.
Phạm Tăng không hề biết chuyện này, vẫn một lòng nghĩ cách giúp Hạng Vũ diệt trừ quân Hán. Ông thấy Hạng Vũ thả lỏng, không bao vây thành Huỳnh Dương nữa vì muốn giảng hòa thì trong lòng lo lắng không yên, bèn tìm gặp Hạng Vũ, đốc thúc Hạng Vũ mau chóng tấn công Huỳnh Dương, lại còn nhắc lại chuyện bữa tiệc Hồng Môn năm đó, nói là ta không ép người thì người sẽ ép ta, nếu thả lỏng Lưu Bang thì hậu họa sẽ vô cùng. Hạng Vũ thấy Phạm Tăng nói những lời như vậy thì tức giận vô cùng, không nhịn được nữa quát lớn: “Ngươi bảo ta nhanh chóng tấn công Huỳnh Dương, ta lại không thể không dựa vào ngươi, song ta sợ rằng chưa chiếm được Huỳnh Dương thì mạng của ta đã bị ngươi cướp đi rỗi!” Phạm Tăng phút chốc lặng người, không nói được lời nào, chỉ tròn mắt nhìn Hạng Vũ. Ông nghĩ bụng bình thường Hạng Vũ không bao giờ nói với mình những lời như vậy, chắc chắn là có kẻ xúi bẩy, do đó đã lớn tiếng nói: “Thiên hạ giờ đã yên ấm rồi, xin hoàng thượng tự lo liệu lấy, cho phép thần được mang nắm xương tàn trở về quê làm người bình thường”. Nói xong cúi lạy Hàng Vũ ra về. Hạng Vũ bằng lòng, không hề tỏ ra quyến luyến.
Phạm Tăng
Phạm Tăng là nhà chính trị nổi tiếng cuối đời Tần, ông là người thôn Cư Sào. Ông tham gia cuộc chiến lật đổ nhà Tần và chiến tranh giữa Hán và Sở, dưới quyền Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ. Ông là mưu sĩ rất quan trọng của Hạng Vũ. Hạng Vũ gọi ông là “Á phụ”, sau này Trần Bình đã dùng kế ly gián khiến Hạng Vũ không còn trọng dụng ông nữa. Phạm Tăng từng nói: “Thiên hạ giờ đã yên ấm rồi, xin hoàng thượng tự lo liệu lấy, cho phép thần được mang nắm xương tàn trở về quê làm người bình thường”. Hạng Vương bằng lòng, không hề tỏ ra quyến luyến ông. Phạm Tăng uất hận, đi chưa đến Bành Thành thì nổi ung ở lưng mà qua đời.
Phạm Tăng cảm thấy tuyệt vọng, sai người mang trả lại ấn Lịch Dương Hầu cho Hạng Vũ, chuẩn bị hành lý trở về quê hương. Trên đường về quê, ông vừa đi vừa nghĩ, bao năm nay mình hết lòng vì nước Sở, không ngờ cuối đời lại bị đối xử tệ bạc như vậy, nên vô cùng buồn bã. Một người già đã 70 tuổi rồi liệu có chịu được “cú đòn” này không, kết quả là chưa tới Bành Thành thì nổi ung ở lưng mà qua đời.
Hạng Vũ là người đa nghi, đã bị Trần Bình lợi dụng. Trần Bình khéo dùng kế ly gián làm cho mâu thuẫn giữa Hạng Vũ và Phạm Tăng trở nên gay gắt, cuối cùng đã trừ bỏ được Phạm Tăng. Đây chính là một nội dung trong thuật Để hy: “Thời hữu khả để, tắc vi chi mưu” (thời thế loạn lạc, xuất hiện vết nứt thì cần dùng mưu kế).
Vương Khâm Nhược tìm kẽ hở đê thực thi xảo kế
Thuật Để hy không chỉ dành riêng cho các bậc thánh nhân quân tử, mà đôi khi có một số kẻ gian thần, tiểu nhân cũng đã lợi dụng thuật này để đạt mục đích của mình. Thuật Để hy áp dụng trong quan hệ đối nhân xử thế chính là, nắm bắt được khiếm khuyết và nhược điểm của đối phương trên các mặt như tâm lý, hành vi, tư tưởng và phẩm chất đạo đức để từ đó thuyết phục đối phương làm theo ý đồ của mình. Vương Khâm Nhược đời Tống đã hiểu rõ nhược điểm mặt tâm lý của Chân Tông, nên đã tìm ra mọi cách gièm pha khiến các đối thủ của ông ta lần lượt rời xa nhà vua.
Tác phẩm thư pháp của Vương Khâm Nhược
Vương Khâm Nhược tự Định Quốc, là người Tân Dụ - Lâm Giang, đại thần của nhà Bắc Tống. Vào năm Chân Tông Hàm Bình thứ 4, được phong làm tham tri chính sự (phó tể tướng). Do ngoại hình thấp bé, gầy gò, cổ lại nổi đầy mụn nên Vương Khâm Nhược bị mọi người gọi là “cù tướng” (tướng gầy gò). Vương Khâm Nhược giỏi đoán ý vua nên thường nghĩ ra nhiều mưu kế hãm hại người tốt. Vương Khâm Nhược kết bè phái với Đinh Vị, Lâm Đặc, Trần Bành Niên, Lưu Thừa Khuê, khi đó, năm người này bị gọi là ngũ quỷ.
Vào năm Tông Cảnh Đức, hoàng hậu Quách Thị của vua Chân Tông lâm bệnh qua đời, Chân Tông chuẩn bị lập Lưu Đức Phi làm hoàng hậu. Văn võ trong triều đình có người tán thành, có người phản đối. Người phản đối kịch liệt nhất là Hàn lâm học sĩ Lý Địch, ông cho rằng Lưu Phi xuất thân thấp kém, không đủ tư cách làm Mẫu nghi thiên hạ. Chân Tông phân trần nói rằng của Lưu Phi từng làm Đô chỉ huy sứ, hiện đang tham gia chính sự. Lúc này, Tham tri chính sự (phó tể tướng) Triệu An Nhân nói: “Lập Lưu Phi làm hoàng hậu chẳng bằng lập Thẩm Tài nhân có xuất thân môn đăng hộ đối làm hoàng hậu, như vậy sẽ khiến dân chúng yên lòng”. Thẩm Tài nhân mà Triệu An Nhân nói tới ở đây chính là cháu gái của tể tướng Thẩm Nghĩa Luân đầu đời Tống. Cuộc tranh luận lập ai làm hoàng hậu diễn ra rất gay cấn, khiến Chân Tông phải tức giận mà quát lên rằng: “Lập hoàng hậu không thể tùy tiện, hơn nữa Lưu Phi tài đức song toàn, phù hợp với tiêu chuẩn hoàng hậu, ý trẫm đã định rồi, các khanh đừng nói nhiều nữa!” Văn võ trong triều đình chẳng biết làm thế nào, đành phải cáo lui ra về.
Sau khi lui triều, dù cơn giận của Chân Tông không thể nguôi ngoai ngay trong chốc lát, song các trung thần trong triều đình như Lý Địch, Triệu An Nhân luôn làm tròn chức trách, không thể tìm ra được lý do nào để kết tội họ cả. Kẻ hiểu rõ tâm lý của Chân Tông hơn ai hết là Vương Khâm Nhược hiểu rất rõ điều này. Ngày hôm sau, khi Chân Tông và Vương Khâm Nhược thảo luận xem trong số các đại thần thì ai là người ưu tú nhất, Vương Khâm Nhược đã nói với giọng đầy ẩn ý: “Triệu An Nhân ưu tú nhất”. Chân Tông không hiểu, Vương Khâm Nhược giải thích: “Không ai bằng Triệu An Nhân cả, ông ta từng được tể tướng đầu đời Tống là Thẩm Nghĩa Luân nâng đỡ, đến nay vẫn không quên tình nghĩa xưa, lúc nào cũng tìm cách báo đáp nhà họ Thẩm”. Chân Tông nghe xong những lời nói này thì trầm ngâm rất lâu. Ngay sáng hôm sau đã cách chức tham tri chính sự của Triệu An Nhân.
Vương Khâm Nhược đã làm rất nhiều chuyện ngấm ngầm hại người như vậy. Trước khi ký kết minh ước Thiền Uyên, tể tướng Khấu Chuẩn đã nghĩ cách tách Vương Khâm Nhược ra khỏi vua Chân Tông, ông đã tiến cử Vương Khâm Nhược đi coi giữ Thiên Hùng quân. Vương Khâm Nhược xưa nay chưa từng đảm đương nhiệm vụ gian khổ nào nên không thể từ chối. Khi chiến tranh kết thúc, Chân Tông lập tức cho gọi Nhược trở lại triều Đình. Lúc này, Nhược biết Khấu Chuẩn lập được nhiều chiến công lẫy lừng, không thể là đối thủ của ông ta, đã xin từ chức tham tri chính sự, để làm tư chính điện học sĩ. Sau khi tể tướng Hoa Sĩ An chết một thời gian thì chỉ có mình Khấu Chuẩn làm tể tướng, mọi quyền hành đều nằm trong tay Khấu Chuẩn, ông có thể cách chức hay thăng chức cho bất cứ ai, do vậy khiến quan lại trong triều đình bất bình. Song Chân Tông vẫn rất ưu ái ông vì ông có công lớn.
Trong một buổi thiết triều, sau khi bàn chuyện với Khấu Chuẩn xong, Chân Tông cảm thấy rất hài lòng, còn tiễn Khấu Chuẩn ra về. Vương Khâm Nhược cũng có mặt ở đó đã hỏi Chân Tông: “Bệ hạ cung kính Khấu Chuẩn như vậy, liệu có phải là vì Khấu Chuẩn có công với xã tắc không?” Chân Tông gật đầu thừa nhận. Vương Khâm Nhược nói với giọng đầy ác ý: “Bệ hạ không lấy làm hổ thẹn về cuộc chiến Thiền Uyên thì chớ, lại còn coi Khấu Chuẩn là công thần, quả thực thần không hiểu”. Chân Tông vô cùng ngạc nhiên trước những lời nói này của Vương Khâm Nhược. Vương Khâm Nhược nói tiếp: “Chịu ký kết minh ước dưới chân thành, “Xuân Thu” xem đó là hành vi đáng hổ thẹn, Trong cuộc chiến Thiền Uyên, bệ hạ đích thân chinh chiến, là thiên tử mà lại chịu ký minh ước dưới chân thành với ngoại di, chẳng phải là điều đáng hổ thẹn hay sao?”. Nghe những lời nói này của Vương Khâm Nhược, sắc mặt của Chân Tông từ tái chuyển sang đỏ rực. Vương Khâm Nhược thấy rõ sự kích động trong Chân Tông, lại nói tiếp: “Thần có một câu so sánh rất đơn giản, thì cũng giống như đánh bạc, sắp thua hết tiền rồi, song vẫn phải cố nốt lần cuối, đây gọi là “dốc túi đánh ván bạc cuối cùng”. Bệ hạ chính là “ván bạc cuối cùng” của Khấu Chuẩn, lẽ nào không nguy hiểm sao? May mà bệ hạ có phúc lớn, mới tránh được thất bại”. Lúc này, Chân Tông mặt đỏ phừng phừng nói: “Trẫm biết rồi”.
Chỉ với mấy câu nói ngắn ngủi, Vương Khâm Nhược mà đã làm Chân Tông thay đổi suy nghĩ. Rõ ràng, minh ước Thiền Uyên là kết quả của sự thỏa thuận giữa hai bên, tuy nhiên, dựa vào tình hình thực tế sức mạnh của hai bên khi đó thì đây là sự lựa chọn tốt nhất. Khi đó, nếu Chân Tông không thân chinh ra trận, khích lệ quân sĩ Bắc Tống thì sự tồn vong của Bắc Tống khó mà dự đoán được. Khi xử lý quan hệ Tống - Liêu, Khấu Chuẩn hoàn toàn xuất phát từ lợi ích quốc gia và dân tộc mà không hề có chuyện hưởng lợi riêng tư, song vẫn khó tránh khỏi sự nghi ngờ của Chân Tông. Vương Khâm Nhược hiểu rõ nhược điểm này của Chân Tông, nên đã khích bác, gièm pha, khiến Chân Tông tức giận Khấu Chuẩn, từ đó hình thành nên vết rạn nứt giữa hai người. Chân Tông ngày càng đối xử lạnh nhạt với Khấu Chuẩn, cuối cùng cách chức thừa tướng của Khấu Chuẩn, còn lệnh cho ông rời khỏi Thiểm Châu với chức danh là thượng thư bộ Hình, và chuyển tới Thiên Hùng quân. Sứ giả Khiết Đan đi qua vùng đất này đã hỏi Khấu Chuẩn rằng “Tướng công đức cao trọng vọng là thế, sao lại bị điều tới nơi đây?”. Khấu Chuẩn trả lời: “Ta vâng mệnh thiên tử, trong triều đình không có việc gì nên cử ta tới nơi đây, nắm giữ chìa khóa Bắc môn, có gì mà ngươi phải nghi ngờ như vậy?”. Khấu Chuẩn trung thành với đất nước, song lại bị gian thần Vương Khâm Nhược ghen ghét, nghĩ đủ mưu kế để hại ông. Cuộc đấu đá giữa Khấu Chuẩn và Vương Khâm Nhược vừa là cuộc đấu trí giữa cái thiện và cái ác, vừa là cuộc chiến đấu giữa mưu lược và quyền thuật.
Khấu Chuẩn
Khấu Chuẩn (961 - 1023) tự là Bình Trọng, quê ở Hoa Chân, là một nhân vật trứ danh đời Tống, từng làm đến chức Tể tướng. Ông đậu tiến sĩ thời vua Thái Tông, đến thời vua Chân Tông, vào niên hiệu Cảnh Đức được phong làm Tể tướng. Năm 1004, giặc Liêu xâm lấn bờ cõi, ông đốc thúc vua Chân Tông ra trận, sau đó lập kế để ký minh ước Tống - Liêu ở Thiền Uyên, đẩy lui quân Khiết Đan. Sau này, ông bị đại thần Vương Khâm Nhược bài xích mà mất chức tể tướng. Cuối đời, ông lại được trọng dụng và được phong làm Lai Quốc Công. Sau đó lại bị đại thần Đinh Vị gièm pha mà rời tới Đạo Châu, Lôi Châu. Ông bị bệnh chết ở Lôi Châu vào năm Nhân Tông Thiên Thánh nguyên niên, thụy hiệu là Trung Mẫn.
Nếu nói Vương Khâm Nhược báo thù Khấu Chuẩn vì ân oán cá nhân thì ông ta lại làm hại tể tướng Vương Đán chỉ đơn giản là do tâm địa quá hẹp hòi. Hàn lâm học sĩ Lý Tông Ngạc là người tài hoa xuất chúng, tể tướng Vương Đán có ý cất nhắc Lý Tông Ngạc làm tham tri chính sự, bèn tới hỏi ý kiến Vương Khâm Nhược trước. Vương Khâm Nhược bề ngoài tỏ ý bằng lòng, song lại ngấm ngầm tâu với Chân Tông rằng: “Lý Tông Ngạc nợ Vương Đán ba nghìn xâu tiền, Vương Đán tiến cử anh ta là có ý muốn đòi lại tiền”. Hóa ra, theo lệ triều Tống thì vào ngày nhận chức tham tri chính sự, người nhận chức sẽ được thưởng ba nghìn xâu tiền. Quả thực, Lý Tông Ngạc có vay của Vương Đán ba nghìn xâu tiền, song Vương Đán tiến cử ông ta hoàn toàn không phải vì muốn đòi nợ, mà là vì thấy ông ta có tài đức, có thể giúp ích cho triều đình. Kết quả là, khi Vương Đán tiến cử Lý Tông Ngạc với vua Chân Tông thì nhà vua đã một mực từ chối.
Vương Đán
Vương Đán tự là Tử Mình, là danh tướng Bắc Tống. Vương Đán thuở nhỏ hiếu học, là tiến sĩ thời Thái Bình Hưng Quốc. Năm Thuần Hóa thứ 2, ông nhận chức hữu chính ngôn, tri chế cáo và được phong làm Lễ bộ Lang trung, Binh bộ Lang trung. Khi Chân Tông lên ngôi, ông liên tục được thăng chức trong bốn năm liền, ban đầu là trung thư xá nhân, sau là tham tri chính sự. Năm Cảnh Đức thứ 2, ông được phong làm Thượng thư tả thừa. Năm tiếp theo lại lên làm Công bộ Thượng thư, sau đó lên làm Tể tướng.
Một lần, Chân Tông đọc một bài thơ do ông sáng tác cho hai phủ Trung Thư và Khu Mật nghe. Vương Đán sau khi biết được bài thơ này, đã nói với các quan trong triều rằng bài thơ sai một chữ, nên bảo hoàng thượng sửa lại. Khi đó, Vương Khâm Nhược đã nói rằng sai sót này không có gì đáng nói, tuy nhiên, sau đó lại lập tức bẩm báo về lỗi sai này với Chân Tông. Hôm sau, Chân Tông tỏ ý không hài lòng với Vương Đán vì đã không thẳng thắn chỉ ra lỗi sai của vua. Vương Đán lại thừa nhận mình đọc thơ không cẩn thận, nên đã hiểu sai. Khu Mật sử Mã Tri Tiết tỏ ý bất bình cho Vương Đán đã nói: “Rõ ràng vương công có ý tốt, nhưng Vương Khâm Nhược đã ngăn lại, vương công chẳng hề thanh minh cho mình, quả xứng đanh là một vị tể tướng đức độ”.
Kỳ thực, Vương Đán hiểu quá rõ Vương Khâm Nhược là kẻ nham hiểu, xảo trá, trước khi lâm chung, ông đã nhiều lần tiến cử với Chân Tông cho Khấu Chuẩn, Lý Đích, Vương Tăng làm tể tướng, song không được Chân Tông đồng ý, lại còn bổ nhiệm cho Vương Khâm Nhược là đồng bình chương sự (tể tướng). Vương Khâm Nhược là một người gầy gò, thấp bé, cổ nổi đầy mụn, bị mọi người gọi là “cù tướng” (tể tướng gầy gò). Sau khi lên chức tể tướng thay Vương Đán, Vương Khâm Nhược thường buông ra những lời lẽ oán hận, trách móc, nói Vương Tử Minh (Tử Minh là tên tự của Vương Đán) đã làm ông ta lỡ mất chức tể tướng mất 10 năm. Vương Đán đang bệnh nặng, nghe nói Vương Khâm Nhược lên làm tể tướng, vừa giận vừa hận, không lâu sau thì qua đời.
Trong lịch sử chốn quan trường, những kẻ tiểu nhân đê tiện như Vương Khâm Nhược không hiếm, chúng đều là những người không có năng lực, tài cán, trình độ, chẳng làm nổi việc gì, thậm chí không đủ tư cách làm đại gian thần, tuy nhiên, để đạt được địa vị cao, chúng đã cố gắng tìm ra kẽ hở dù là nhỏ nhất nhờ nắm bắt được tâm lý của nhà vua, rồi thông qua những hành động bỉ ổi, đê tiện của mình để đạt được mục đích “hại người lợi ta”.
Tây Thi mê hoặc vua Ngô
Liên quan tới mỹ nhân kế, cuốn “Lục thao - Văn phạt” có nói: “Dưỡng kỳ loạn thần dĩ mê chi, tiến mỹ nữ dâm thanh dĩ hoặc chi” (nuôi dưỡng kẻ loạn thần để làm u mê, dâng mỹ nữ, nhạc dâm để mê hoặc), có nghĩa là khi khó có thể chinh phục được kẻ địch bằng hành động quân sự thì cần sử dụng “đạn bọc đường”, trước hết làm lung lay ý chí, tư tưởng của tướng tá bên kẻ địch, khiến nội bộ kẻ địch mất đi sức chiến đấu, sau đó mới tấn công để giành thắng lợi. Cũng chính là nói bằng mọi cách tấn công vào điểm yếu của kẻ địch, từ đó bảo toàn thực lực của bản thân. Điều này ngẫu nhiên cũng phù hợp với thuật Để hy của Quỷ Cốc Tử, trước hết phải tìm ra “khe hở” của tướng tá bên đối phương, sau đó tìm cách bịt khe hở này cho nó kín lại.
Năm 496 TCN, vua Việt là Doãn Thường mất, con trai Câu Tiễn lên nối ngôi, bất chấp sự khuyên can của các đại thần, vua Ngô là Hạp Lư nhân cơ hội này cất quân đi đánh nước Việt. Câu Tiễn mang quân ra chống cự. Câu Tiễn thấy quân Ngô hàng ngũ chỉnh tề, oai phong lẫm liệt, khó mà đánh thắng nổi, bèn sai hơn 30 phạm nhân bị xử tội chết xếp thành hàng đi tới trước quân lính của vua Ngô nói rằng: “Hoàng thượng của chúng tôi đắc tội với nước Ngô, nên cử chúng tôi tới đây nhận tội thay hoàng thượng”, nói xong thì lần lượt từng người tự chặt đầu mình. Quân Ngô còn đang không hiểu chuyện này nghĩa là sao thì quân Việt bất ngờ xông tới, quân Ngô đại bại, vua Ngô bị quân Việt chặt đứt một ngón chân, trên đường rút chạy về nước, đã bị chết do vết thương quá nặng.
Ngũ Tử Tư
Ngũ Tử Tư tên là Viên, tự là Tử Tư, được phong đất Thân, nên còn gọi là Thân Tư, là người nước Sở thời Xuân Thu. Cha ông và anh em ông bị Sở Bình Vương xử tội chết, còn ông trốn chạy sang nước Ngô, giúp vua Ngô Hạp Lư xây dựng thành lũy rèn luyện võ nghệ cho quân lính, sau này ông được bổ nhiệm làm tướng quốc. Ông đã có công lớn trong việc giúp nước Ngô xưng bá nhiều năm ở khu vực đông nam. Vào thời vua Phù Sai, ông đã khuyên nhà vua không được giúp đỡ nước Việt và ngừng tấn công nước Tề, song nhà vua không nghe, còn nghe theo lời gièm pha của tể tướng Bá Hy và mỹ nhân nước Việt là Tây Thi bức ông phải tự sát.
Phù Sai lên ngôi thay cha, thề rằng sẽ trả nợ mối thù này, còn cử ra một người chuyên nhắc nhở ông hàng ngày rằng: “Hoàng thượng đã quên rằng vua Việt giết chết phụ thân của hoàng thượng rồi sao?”. Phù Sai trả lời trong nước mắt: “Ta không quên, ta nào dám quên”. Ba năm sau, Ngô Phù Sai dẫn binh tiến đánh nước Việt để trả thù xưa. Trước hết, quân Ngô tiêu diệt thủy quân của nước Việt tại hồ Thái, vua Việt Câu Tiễn phải trốn chạy lên núi Cối Kê, Câu Tiễn bất đắc dĩ phải cử người tới giảng hòa với vua Ngô. Sau khi được sự đồng ý của Phù Sai, Câu Tiễn cho Văn Chủng ở lại chăm lo việc triều chính, còn mình cùng vợ và đám Phạm Lãi tới nước Ngô hầu hạ vua Ngô. Vua Ngô giao cho vợ chồng Câu Tiễn chăm sóc bầy ngựa, còn Phạm Lãi làm một số việc nô bộc. Hàng ngày, Phù Sai ra ngoài dã ngoại, Câu Tiễn theo hầu dắt ngựa cho Phù Sai. Có lần, Phù Sai bị bệnh, Câu Tiễn đưa Phù Sai đi đại tiện, sau khi Phù Sai đại tiện xong, Câu Tiễn còn nói với Phù Sai rằng: “Thần vừa nếm thử phân của bệ hạ, lại nhìn vào sắc mặt của bệ hạ, thần thấy bệnh khí sắp tiết hết ra khỏi người bệ hạ rồi, vài hôm nữa là khỏi bệnh thôi”. Quả nhiên, vài ngày sau, Phù Sai khỏi bệnh. Phù Sai rất cảm động, cho rằng Câu Tiễn đã quy phục, liền thả vợ chồng Phù Sai và đám bầy tôi theo cùng về nước sau ba năm phục dịch ở nước Ngô.
Câu Tiễn trở về nước, để không quên mối nhục này, hàng ngày ông trải rơm rạ lên giường để ngủ, ăn những thức ăn của người nghèo khó. Ngày ngày cùng với đại thần Văn Chủng lên kế hoạch tiêu diệt nước Ngô. Văn Chủng đề xuất ra bảy kế sách, trong đó có một kế là tặng mỹ nữ cho Phù Sai, vì Văn Chủng biết Phù Sai là người háo sắc. Câu Tiễn đồng ý kế sách này, giao cho Phạm Lãi tìm mỹ nữ. Phạm Lãi nói: “Thần sớm đã tìm giúp bệ hạ rồi, nàng tên là Tây Thi, là mỹ nhân nổi tiếng của nước Việt, nàng cam tâm tình nguyện hiến thân để báo thù cho vua Việt. Ngoài ra, thần còn tìm cho nàng một người đi cùng tên là Trịnh Đán, nhất định hai người này sẽ hoàn thành sứ mệnh mà bệ hạ giao phó”. Thế là, Câu Tiễn cho người đưa Tây Thi và Trịnh Đán tới tặng nước Ngô.
Tây Thi và Trịnh Đán vừa tới nước Ngô đã mê hoặc Phù Sai, khiến Phù Sai ngày đêm chỉ tơ tưởng tới hai nàng mà lơ là việc triều chính. Một năm sau, Trịnh Đán bị bệnh nặng qua đời, Phù Sai càng sủng ái Tây Thi. Tây Thi biết, nếu chỉ dựa vào nhan sắc để mê hoặc Phù Sai không thôi chưa đủ, còn cần nỗ lực tìm kiếm cơ hội lật đổ vua Ngô bằng việc tham chính. Một ngày nọ, nhân lúc đang vui đùa bên vua Ngô, Tây Thi đã nói với vua Ngô: “Anh hùng hảo hán không nên suốt ngày chỉ chạy theo mỹ nữ, nên xông pha trận chiến, giành vinh quang về cho đất nước”. Phù Sai nghe những lời nói như vậy thì ngỡ ngàng, bừng tỉnh, thấy Tây Thi nói rất có lý. Đúng lúc này đang có chiến tranh giữa nước Tề và nước Lỗ, vua Ngô Phù Sai muốn tỏ rõ phong độ phi thường của mình đã giúp nước Lỗ đánh nước Tề. Kết quả là, nước Tề thua thảm hại, tướng nước Tề đã giết chết Tề Điệu Công để cầu hòa với nước Ngô, tỏ ý hàng năm sẽ đều đặn cống nạp lễ vật cho nước Ngô. Vua Ngô không ngờ mình lại giành được thắng lợi nhanh chóng như vậy khi nghe theo lời khuyên của Tây Thi, vì thế mà ông vô cùng đắc ý, càng sủng ái Tây Thi hơn.
Có một năm, để làm hao hụt quốc khố của nước Ngô, Câu Tiễn đã phái đại phu Văn Chủng tới vay nước Ngô 10 vạn thạch lương thực. Các đại thần của nước Ngô đang thảo luận xem có nên cho nước Việt vay không thì vua Ngô tới hỏi Tây Thi. Tây Thi giảng giải một hồi thì vua Ngô gật đầu đồng ý cho nước Việt vay lương thực. Năm sau, nước Việt trả đủ số lương thực cho nước Ngô, đã thế bao nào cũng chứa đầy thóc. Phù Sai hạ lệnh đem toàn bộ số thóc này đi gieo. Kỳ thực, số thóc này đều đã bị nước Việt luộc qua rồi, do đó sau khi người nước Ngô trồng xuống đất, chúng đã không nảy mầm, nước Ngô có muốn gieo lại thóc khác thì cũng đã lỡ vụ mất rồi, kết quả là năm đó, nước Ngô hầu hầu như bị mất mùa hoàn toàn. Câu Tiễn đang từng bước thực hiện kế hoạch của mình bắt đầu từ việc làm hao hụt quốc khố của nước Ngô.
Phù Sai
Phù Sai tên thật là Cơ Phù Sai, là vị vua thứ 25 của nước Ngô thời Đông Chu trong lịch sử Trung Quốc, là con thứ của vua Hạp Lư. Để báo thù cho cha bị chết thảm dưới tay quân Việt, năm đó Phù Sai đã phong cho Bá Hy làm tể tướng, cùng với lão tướng Ngũ Tử Tư tích cực luyện quân để tiến đánh nước Việt Năm 494 TCN, vua Ngô Phù Sai đã đánh bại nước Việt, buộc vua Việt Câu Tiễn đầu hàng trong nhục nhã, vua Việt đã phải đem theo vợ sang nước Ngô để hầu hạ vua Ngô.Sau này, trải qua bao nhẫn nhục, khổ sở và chờ đợi, nước Việt đã tiêu diệt lại nước Ngô, buộc Phù Sai phải tự sát.
Câu Tiễn đang âm thầm làm đất nước giàu mạnh, binh sĩ tinh nhuệ, chờ thời cơ tiến đánh nước Ngô. Mưu đồ này của Câu Tiễn đã bị Ngũ Tử Tư biết được, Ngũ Tử Tư đã nhiều lần nhắc nhở vua Ngô phải đề phòng cảnh giác, song vua Ngô không nghe, còn tỏ ra lạnh lùng với Ngũ Tử Tư. Tây Thi biết rõ Ngũ Tử Tư là người đáng gờm, dù tạm thời bị vua Ngô xa lánh, song chỉ cần ông ta còn sống thì sẽ tìm cơ hội phục thù, như vậy sẽ rất bất lợi cho nước Việt, do vậy Tây Thi quyết nhân cơ hội này trừ khử Ngũ Tử Tư. Tây Thi nói với Phù Sai: “Ngũ Tử Tư là hạng người nào? Ngay cả đất nước mình cũng muốn diệt, ngay cả thi thể của Sở Bình Vương cũng muốn kéo lê, lẽ nào còn biết sợ ai nữa? Ngũ Tử Tư chủ trương tiêu diệt nước Việt, thiếp cũng là người Việt, xin hoàng thượng giết thiếp trước, nếu không thì đừng giữ Ngũ Tử Tư lại nữa”, nói xong thì làm động tác đau tim dữ dội. Phù Sai thấy vậy thì lập tức lệnh cho Ngũ Tử Tư phải tự sát, như vậy Tây Thi đã giúp nước Việt loại bỏ một chướng ngại vô cùng to lớn trên con đường tiêu diệt nước Ngô, Sau khi trừ khử được Ngũ Tử Tư, Tây Thi lại tiếp tục khích lệ vua Ngô tiến về phía bắc đánh chiêm trung nguyên giành quyền bá chủ, mục đích là làm tiêu hao lực lượng và tiền bạc của nước Ngô. Phù Sai lại nghe theo lời Tây Thi, vào năm 484 TCN, nước Ngô đã tiêu tốn rất nhiều tiền bạc và sức lực trong việc chiếm đoạt hàng loạt con sông lớn như Trường Giang, Hoài Hà, Tứ Thủy, Nghi Thủy, Tế Thủy, nước Ngô lúc này chỉ cần đi thuyền là có thể sang được nước Tề và nước Lỗ. Tuy nhiên, không lâu sau đó, thực lực nước Ngô suy yếu thấy rõ.
Năm 478 TCN, nhân lúc Phù Sai mải mê tranh bá phía bắc, nước Việt lúc này đã lớn mạnh và đủ thực lực bất ngờ tấn công nước Ngô, nước Ngô trở tay không kịp, vua Ngô chỉ còn biết lui về trấn giữ thành Cô Tô. Nước Việt chọn chiến thuật “bao vây lâu dài”, cuối cùng đã phá được thành Cô Tô vào năm 473 TCN, vua Ngô tự sát, toàn bộ đất đai nước Ngô đều thuộc về nước Việt. Nước Ngô hùng mạnh, xưng bá nhiều năm ở phía Nam là thế, vậy mà đã để lộ ra “vết nứt” (vua Ngô hiếu sắc) để nước Việt biết được và dùng mỹ nhân kế tiêu diệt.
Tô Tần “bịt vết rạn nứt” nhờ tài ăn nói
Có rất nhiều cách để bịt khe hở, có thể trấn áp, cũng có thể dẫn dắt. Thời Chiến Quốc, Tô Tần đã thuyết phục thành công Yên Dịch Vương nhờ vận dụng thuật Để hy.
Sau khi theo học thầy Quỷ Cốc Tử nhiều năm, Tô Tần xuống núi đi phiêu bạt khắp mọi nơi, nhờ tài ăn nói của mình, ông đã từng được đeo tướng ấn của sáu nước Yên, Triệu, Hàn, Ngụy, Tề, Sở và thực hành thuật Hợp tung mà mình được học. Khi Yên Dịch Vương mới lên ngôi, nước Tề nhân cơ hội này chiếm của nước Yên 10 thành quách. Thế là, Yên Dịch Vương lệnh cho Tô Tần tới nước Tề du thuyết để đòi lại 10 thành này, Tô Tần đã không phụ sự ủy thác của vua Yên, ông đã thuyết phục vua Tề trả lại 10 thành cho nước Yên, và đẩy lui quân Tề. Tuy nhiên, có kẻ lại gièm pha, nói xấu Tô Tần sau lưng với Yên Dịch Vương rằng: “Tô Tần là gian thần bán nước, bất trung bất hiếu, nham hiểm khó lường, sắp hô hào binh sĩ làm phản”. Thế là Yên Dịch Vương sinh lòng nghi ngờ Tô Tần, sau khi Tô Tần đi sứ trở về đã tỏ ra rất lạnh nhạt với ông.
Sau khi biết chuyện này, Tô Tần quyết định giải thích với vua Yên để trừ bỏ “vết rạn nứt” này. Trước hết, ông nói với Yên Vương: “Khi thần chỉ là một anh nông dân quèn, chưa có công lao gì thì lại được hoàng thượng ưu ái. Nay thần đi sứ thành công, đòi được 10 thành lũy, lại khuyên được vua Tề rút quân về, song lại bị hoàng thượng đối xử lạnh nhạt, nhất định là có kẻ nhân cơ hội này nói xấu thần, nói thần không trung tín. Tuy nhiên, thần không trung tín thì lại chính là phúc phận của hoàng thượng. Nếu hiếu tử như Tăng Sâm, liêm sĩ như Bá Di, tín sĩ như Vỹ Sinh tới hầu hạ hoàng thượng thì hoàng thượng thấy thế nào?”
Yên Vương trả lời: “Nếu vậy thì ta thỏa mãn lắm”.
Tô Tần thấy Yên Vương trả lời như vậy thì càng chắc chắn rằng mình đã tìm thấy nguyên do gây nên rạn nứt giữa mình và nhà vua, thế là nói tiếp: “Tăng Sâm là hiếu tử, không chịu rời xa phụ mẫu lấy nửa bước, vậy thì hoàng thượng sao có thể gọi anh ta tới thuyết phục vua Tề lui quân về và trả lại 10 thành quách cho nước Yên đây? Liêm sĩ Bá Di chí hướng ngút trời, chắc chắn thà chết cũng sẽ không làm thần tử của Võ Vương, vậy làm sao hoàng thượng có thể bảo anh ta đi thuyết phục vua Tề lui quân về và trả lại 10 thành quách cho nước Yên đây? Tín sĩ Vỹ Sính đã hẹn hò với một cô gái dưới chân cầu, nhưng nước sông dâng cao, anh ta vẫn ôm chặt cột thà chết quyết không thất hứa với cô gái đó, vậy thì hoàng thượng sao có thể gọi anh ta tới thuyết phục vua Tề lui quân về và trả lại 10 thành quách cho nước Yên đây? Còn thần vì quá trung tín mà đắc tội với hoàng thượng rồi!”.
Yên Vương vẫn có chút nghi ngờ nói: “Đắc tội với nhà vua thường là vì không trung tín, chứ làm gì có chuyện trung tín mà đắc tội với vua?”
Tô Tần
Tô Tần, tự Quý Tử, người Lạc Dương, nước Đông Chu, là một nhà du thuyết nổi tiếng thời Chiến Quốc. Ông sớm theo học thuật Tung hoành Bài hạp và phỏng đoán của Quỷ Cốc Tiên sinh. Vào thời Yên Chiêu Vương, ông làm nhà du thuyết cho nước Yên và rất được vua Yên trọng dụng, sau đó được vua Tề phong làm Tề tướng, vua Triệu phong làm Võ An Quân, từng đeo tướng ấn của 6 nước. Sau này, hoạt động phản gián của ông được phơi bày, ông bị xử xe kéo phanh thây.
Tô Tần nói: “Không hẳn đã là vậy, Thần nghe nói có chuyện thế này, một người nọ đi sứ sang nước khác, vợ anh ta ở nhà tư thông với người khác, sắp tới ngày sứ giả này về nước, vợ anh ta rất hoang mang lo lắng, bèn bàn mưu với người tình giết chết chồng và họ đã chọn cách đầu độc sứ giả. Tới ngày sứ giả trở về, vợ anh ta cho người hầu bưng rượu độc tới mời anh ta uống. Người hầu này biết được mưu kế của người vợ, muốn nói với sứ giả trong rượu có độc, song lại sợ đắc tội với bà chủ, mà nếu không nói ra thì lại sợ rượu độc hại chết ông chủ. Chẳng còn cách nào khác, cô ta liền giả vờ lỡ tay làm đổ chén rượu xuống đất. Sứ giả đang vui mừng vì vợ cho người bưng rượu tới mời mình, giờ thấy rượu bị đổ hết thì vô cùng tức giận, đánh cho người hầu một trận, người hầu vô cùng trung tín, song chính vì trung tín nên đã phải chịu đựng đau đớn về thể xác. Chẳng phải thần cũng đang bất hạnh giống thế sao?”.
Yên Vương nghe vậy thì không còn nghi ngờ Tô Tần nữa, còn trọng thưởng Tô Tần, đồng thời khôi phục lại chức vụ của ông. Hai bên quân thần “bịt được rạn nứt”, quan hệ sẽ trở nên hòa thuận, gắn bó.
ỨNG DỤNG TRONG THỜI HIỆN ĐẠI
Tìm ra điểm đột phá bắt đầu từ chỗ rò rỉ
Có câu nói: đê dài nghìn dặm, có thể bị tổ kiến đục ruỗng; nhà cao vạn trượng, có thể bị lửa thiêu trụi. Phòng họa thì phải để ý từ chỗ nhỏ nhất. Đây cũng chính là nội dung của “thuật Để hy” của Quỷ Cốc Tử.
Hiểu theo nghĩa ngược lại thì chính là người thành công cần bắt đầu từ những việc nhỏ. Muốn xử lý tốt một việc nào đó thì cần giỏi tìm ra điểm đột phá bắt đầu từ chỗ rò rỉ của nó.
Mấy năm trước, một ngôi sao bóng đá của câu lạc bộ Milan nước Ý đã nhiều lần thương lượng với ban lãnh đạo của câu lạc bộ trong suốt mấy mùa bóng liền để được tăng lương, song yêu cầu của anh ta đều bị từ chối. Cầu thủ này mặc dù rất giàu có, hơn nữa lại thông minh, nhưng anh ta rất hay xấu hổ. Anh ta thừa nhận rằng, bản thân không thể thắng nổi vị tổng giám đốc lạnh lùng của câu lạc bộ, bởi vì vị tổng giám đốc này đang nắm trong tay một quân bài: Trong hợp đồng ký kết với các ngôi sao bóng đá đã ghi rõ điều khoản “giữ chân” các cầu thủ - cầu thủ không được tự ý đầu quân cho câu lạc bộ khác khi chưa hết hạn hợp đồng.
Làm sao có thể thuyết phục tổng giám đốc đồng ý yêu cầu tăng lương cho mình đây? Sau nhiều ngày vắt óc suy nghĩ, cầu thủ này nghĩ ra một tuyệt chiêu. “Điều khoản giữ chân” đó chính là chướng ngại vật quan trọng khiến anh ta không được tăng lương, cũng không thể đầu quân cho câu lạc bộ khác, tuy nhiên, điều khoản này lại không cấm anh ta rút lui khỏi làng thể thao. Thế là anh ta quyết định dựa vào “kẽ hở” này để gây áp lực cho tổng giám đốc bằng cách xin rút lui khỏi làng thể thao để tấn công sang lĩnh vực điện ảnh.
Mặc dù cầu thủ này hay xấu hổ, song sự bẽn lẽn của anh ta lại được mọi người yêu thích, thêm vào đó anh ta lại là ngôi sao bóng đá lừng danh nên nhanh chóng gây được sự chú ý của mọi người. Một hãng phím còn muốn ký hợp đồng 5 năm với anh ta để anh ta trở thành diễn viên độc quyền của hãng, đồng thời sẽ thông báo tất cả việc này cho giới báo chí biết. Thế là, giới truyền thông trong cả nước đã đồng loạt đăng tin về sự kiện này.
Như vậy, vị giám đốc đó đã phải chịu một áp lực to lớn, bởi vì nếu ngôi sao bóng đá này ra đi thì các fan hâm mộ nhất định sẽ la ó, phản đối, câu lạc bộ của ông ta sẽ gặp trở ngại lớn. Chẳng còn cách nào khác, ông ta đành phải chấp nhận yêu cầu tăng lương của ngôi sao bóng đá này.
Trên thế gian này không có gì hoàn mỹ, bản thân sự vật cũng luôn bao hàm nhân tố “tự đặt mình vào chỗ chết”; Trên thế gian này không có bức tường nào nguyên vẹn không rạn nứt, tường có thể sập đổ bởi những vết nứt đó; Cây lấy gỗ đều có mấu, gỗ có thể bị gẫy do những mấu này. Chỉ cần mọi người hiểu được điều này và quan sát kỹ tình hình khách quan thì sẽ nhận ra được “kẽ hở” của đối phương, sau đó nắm vững kẽ hở này để tạo nên điểm đột phá thì có thể đạt được mục đích của mình.
Trước khi là tổng thống Mỹ, Lincoln từng là luật sư. Một lần, con trai của một người bạn đã mất của Lincoln tên là Amsterdam bị tố cáo vì tội giết người cướp của, anh ta đã bị xử tội theo đúng luật của nước Mỹ. Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu kỹ toàn bộ vụ án và tới tận hiện trường điều tra, xem xét, Lincoln đã đứng ra bào chữa cho bị cáo với tư cách là luật sư, ông đã yêu cầu tòa án xét xử lại vụ án này.
Điểm mấu chốt của toàn bộ vụ án chính là ở một nhân chứng của nguyên cáo có tên là Folsom, khi anh này thề rằng, vào đêm trăng ngày 18 tháng 10, anh ta đã tận mắt nhìn thấy rõ Amsterdam bắn súng vào người nạn nhân. Theo luật pháp nước Mỹ thì trong quá trình xét xử, luật sư biện hộ cho bị cáo sẽ phải tiến hành đối chất với nhân chứng của nguyên cáo. Nội dung đối chất diễn ra như sau:
Lincoln: Anh thề rằng đã nhìn thấy rõ Amsterdam?
Folsom: Đúng vậy.
Lincoln: Anh đứng phía sau gò đất, còn Amsterdam đứng phía dưới tán cây to, khoảng cách giữa người là khoảng 20, 30m mà anh vẫn nhìn thấy rõ?
Folsom: Nhìn thấy rất rõ vì hôm đó trăng rất sáng.
Lincoln: Anh khẳng định là nhìn rõ Amsterdam vì bộ quần áo trên người anh ta phải không?
Folsom: Không, tôi khẳng định đã nhìn thấy rõ mặt của Amsterdam nhờ ánh trăng chiếu vào.
Lincoln: Anh có thể chắc chắn lúc đó là mấy giờ đêm chứ?
Folsom: Tôi có thể khẳng định lúc đó khoảng 11 giờ, vì ngay sau đó, tôi về nhà và nhìn đồng hồ là 11 giờ 11 phút.
Hỏi tới đây, Lincoln đã phát hiện ra “kẽ hở” của đối phương. Thế là dựa vào “kẽ hở” này, ông đưa ra những lời biện luận sắc bén: “Tôi buộc phải nói với mọi người rằng, nhân chứng này là một kẻ lừa bịp trắng trợn. Anh ta thề rằng đã nhìn rõ khuôn mặt của bị cáo dưới ánh trăng vào lúc 11 giờ ngày 18 tháng 10. Xin mọi người lưu ý, ngày 18 tháng 10 là ngày trăng thượng huyền. Vào lúc 11 giờ thì trăng đã xuống núi, làm gì còn ánh trăng nữa. Hơn nữa, dù cho nhân chứng không nhớ chính xác thời gian thì ánh trăng chiếu từ phía tây lại, nếu mặt bị cáo hướng về phía cây to, tức là hướng tây thì ánh trăng có thể chiếu qua mặt được, tuy nhiên, do vị trí của nhân chứng là ở phía sau gò đất phía đông nam của cây, nên anh ta sẽ không thể nhìn thấy mặt bị cáo được. Nếu mặt bị cáo hướng về phía gò đất, tức là hướng đông thì dù trăng có sáng tới đâu cũng sẽ chỉ chiếu vào gáy anh ta mà thôi, vậy thì làm sao nhân chứng có thể nhìn thấy ánh trăng chiếu vào mặt bị cáo được? Lại càng không thể nhìn thấy rõ mặt bị cáo từ gò đất cách đó 20, 30m”.
Suy đoán và phân tích của Lincoln đã đủ chứng minh những lời nói của Folsom là giả dối. Trước lời biện luận của Lincoln, anh ta không thể nói được l?