PHẦN 5 PHI KIỀM(1) (ĐƯA RA ĐỂ KHỐNG CHẾ) Nguyên văn
Phàm độ quyền lượng năng, sở dĩ chinh viễn lai cận. (2) Lập thế (3) nhi chế sự, tất tiên sát đồng dị. Biệt thị phi chi ngữ, kiến nội ngoại chi từ, (4) tri hữu vô chi số, (5) quyết an nguy chi kế, định thân sơ chi sự, (6) nhiên hậu nãi quyền lượng (7) chi. Kỳ hữu ẩn quát, (8) nãi khả chinh, nãi khả cầu, nãi khả dụng. Dẫn (9) câu kiềm chi từ, phi nhi kiềm chi.
Chú thích
1. Phi kiềm: Có nghĩa là khéo dụ dỗ đối phương nói ra suy nghĩ thực sự trong lòng, khi đã hiểu rõ suy nghĩ của đối phương, thì tiến tới khống chế đối phương bằng biện pháp khen ngợi, biểu dương.
2. Chinh viễn lai cận: Có nghĩa là mời gọi và thu hút nhân tài xa gần
3. Lập thế: Có thể kiểm soát một cách chính xác địa vị, quyền thế toàn bộ cục điện.
4. Kiến nội ngoại chi từ: Kiểm tra xem lời nói khi đối nội và đối ngoại của đối phương có mâu thuẫn không?
5. Tri hữu vô chi số: Hiểu rõ đối phương là người có tài cán, học thức thực sự hay không.
6. Thân sơ chi sự: Khi dùng người cần phải hiểu rõ những người nào có thể tín dùng, những người nào cần phải lánh xa.
7. Quyền lượng: Đánh giá, cân nhắc
8. Ẩn quát: Đưa những vật méo mó và khuôn để chỉnh sửa lại. Hiểu rộng ra là những chỗ cần phải sửa chữa, những nhược điểm cần phải khắc phục.
9. Dẫn: có nghĩa là dùng.
Mục đích của phi kiềm rất nhiều, song chủ yếu là để kiểm tra con người, đánh giá năng lực, quyền biến của con người, cũng như phân biệt được thật giả, đúng sai.
Có được nhân tài, sẽ có thể thống trị thiên hạ, còn dùng người không thỏa đáng thì có thể gặp thất bại. Bởi vậy, muốn kiểm tra nhân tài thì cần giỏi vận dụng các biện pháp khác nhau, có thể dụ dỗ đối phương nói ra trước để hiểu rõ đối phương suy nghĩ gì, rồi nhanh chóng nắm chắc lấy không được để đối phương suy nghĩ lại.
Ngôn ngữ phi kiềm phong phú và đa dạng, bởi lẽ mỗi người mỗi khác, mỗi vật mỗi khác, sự biến đổi luôn khó lường, do đó, cần dựa vào từng đối tượng cụ thể để chọn ra thuật phi kiềm thích hợp.
Nếu dụ dỗ, thuyết phục đối phương vẫn không đạt được mục đích thì có thể dọa dẫm và uy hiếp đối phương bằng mọi cách, rồi liên tục thăm dò đối phương, cũng có thể thăm dò đối phương trước, sau đó tìm cách loại bỏ sự “đề phòng” của đối phương.
Dịch nghĩa
Phàm là đánh giá quyền mưu của con người, phán đoán tài năng của con người, chính là để mời gọi và thu hút nhân tài xa gần. Muốn tạo dựng quyền thế ổn định, nắm vững các việc trọng đại thì trước hết cần phải quan sát kỹ sự giống và khác nhau giữa hai bên. Phân biệt được đâu là lời nói thật, đâu là lời nói giả, phân tích xem lời nói đối nội và đối ngoại của đối phương có mâu thuẫn không, phải hiểu rõ đối phương có thực sự là người có tài cán và học thức không, phải quyết đoán mưu kế an nguy quốc gia, xác định “thân sơ chi sự”, sau đó mới so sánh mức độ nặng nhẹ của hai bên, phân tích sở trường và sở đoản của hai bên. Khi thời thế cần thì có thể huy động những nhân tài này, cùng họ lập mưu kế, cũng có thể trọng dụng họ. Cần khéo dụ dỗ họ để hiểu rõ suy nghĩ thực sự trong lòng của họ, tiếp đến khống chế họ bằng biện pháp khen ngợi và biểu dương.
Nguyên văn
Câu kiềm chi ngữ, kỳ thuyết từ (1) dã, sạ đồng sạ dị. (2) Kỳ bất khả thiện giả, (3) hoặc tiên chinh chi, nhi hậu trùng lũy (trọng lụy); (4) Hoặc tiên trùng lũy (trọng lụy), nhi hậu hủy chi; (5) Hoặc dĩ trùng lũy (trọng lụy) vi hủy; Hoặc dĩ hủy vi trùng lũy (trọng lụy). Kỳ dụng hoặc xứng tài hòa, kỳ vĩ, châu ngọc, bích bạch, thái sắc dĩ sự chi. (6) Hoặc lượng năng lập thế dĩ câu chi, (7) hoặc tứ hầu kiến giản nhi kiềm chi, kỳ sự dụng để hy.
Chú thích
1. Thuyết từ: Lời lẽ du thuyết, biện luận.
2. Sạ đồng sạ dị: Sạ là bỗng, chợt, có nghĩa là lúc thì nhất trí, lúc lại phản đối. Ở đây là nói về ngôn từ biện luận, du thuyết. Ý của cả câu là chốc chốc đồng ý, chốc chốc lại không đồng ý với lý lẽ của đối phương.
3. Bất khả thiện giả: Dù thuyết phục thế nào cũng không làm lay chuyển đối phương.
4. Ở đây được hiểu theo hai nghĩa “trùng lũy” hoặc “trọng lụy”: Khi là “trùng lũy” thì có nghĩa là tích lũy nhiều lần, chính là liên tục dụ dỗ đối phương nói ra suy nghĩ, tình cảm thực sự trong lòng. Còn khi là “trọng lụy” thì có nghĩa là cho thêm gánh nặng, chính là giao cho đối phương nhiệm vụ nặng nề hơn để kiểm tra tài năng của đối phương.
5. Hoặc tiên trùng lũy (trọng lụy), nhi hậu hủy chi: Trước hết liệt kê để so sánh, đánh giá nhiều lần, sau đó chỉ ra nhược điểm để bôi nhọ đối phương.
6. Kỳ dụng: chuẩn bị chọn dụng. Kỳ vĩ, châu ngọc: hòn ngọc đẹp và quý báu. Bích: ngọc bích. Bạch: sản phẩm tơ lụa. Thái sắc tức là màu sắc đẹp. Dĩ sự chi: có sự kiểm tra.
7. Hoặc lượng năng lập thế dĩ câu chi: Đôi lúc cần đánh giá năng lượng của đối phương, tạo ra tình thế để thu hút đối phương.
Dịch nghĩa
Ngôn ngữ câu kiềm chính là ngôn ngữ du thuyết biện luận. Trong quá trình trò chuyện, cần phải tỏ ý lúc thì đồng ý, lúc lại phản đối lý lẽ của đối phương để đạt mục đích “hiểu rõ tình cảm cũng như suy nghĩ thật sự của đối phương”, đây cũng chính là dùng thuật Bài hạp để điều khiển đối phương. Đối với những người không thể thuyết phục bằng ngôn ngữ câu kiềm thì có thể tập hợp họ lại, sau đó giao cho họ nhiệm vụ quan trọng để kiểm tra năng lực của họ; cũng có thể giao cho họ nhiệm vụ quan trọng, sau đó phê phán điểm yếu kém của họ. Đôi lúc, trọng dụng là để phê phán; đôi lúc phê phán là để trọng dụng. Tóm lại, vận dụng thuật Phi kiềm chính là hoặc có thể dụ dỗ, mua chuộc đối phương bằng tiền bạc, trang sức quý, lụa là gấm vóc, mỹ nữ; hoặc khống chế đối phương dựa vào tài năng của anh ta hoặc dựa vào thái độ muốn ở lại hay ra đi của anh ta; hoặc sử đụng thuật Để hy, quan sát ra “khe hở” trong lời nói hành động của anh ta để uy hiếp đối phương.
Đối tượng để ứng dụng thuật Phi kiềm chủ yếu có hai loại, một là cấp trên, hai là cấp dưới.
Cấp trên là chỉ nhà vua, người chức vụ cao hơn mình, còn cấp dưới là chỉ thuộc hạ, người chức vụ thấp hơn mình.
Đối với nhà vua thì trước hết cần xem xét cục diện giữa các nước, cần hiểu rõ tình hình thiên thời, địa lợi, nhân hòa và đất nước mình, cũng như tình hình ngoại giao giữa các nước, sau đó tìm cách hiểu rõ tâm tư vui mừng hay buồn bực, thích thú hay ghét bỏ của nhà vua để từ đó dẫn dắt nhà vua theo mình.
Bởi vậy, khi áp dụng biện pháp này trong việc trị vì đất nước thì nhất định cần hiểu tường tận tình hình các phương diện như thiên thời, địa lợi nhân hòa.
Đối với cấp dưới, thì trước hết nên xem xét tài năng của họ, hiểu rõ sở thích và sở trường của họ, sau đó dựa vào đó chọn ra người phù hợp, cần phải đánh giá chính xác năng lực, sức mạnh của mỗi cá nhân.
Nguyên văn
Tương dục dụng chi vu thiên hạ, (1) tất độ quyền lượng năng, kiến thiên thời (2) chi thịnh suy, chế địa hình chi quảng hiệp, trở hiểm (3) chi nan dị, nhân dân hòa tài chi đa thiểu, chư hầu chi giao thục thân thục sơ, thục ái thục tăng. Tâm ý chi lự hoài, (4) thẩm kỳ ý, tri kỳ sở hiếu ố, (5) nãi tựu thuyết kỳ sở trọng, (6) dĩ phi kiềm chi từ, câu kỳ sở hảo, dĩ kiềm cầu chi.
Chú thích
1. Dụng chi vu thiên hạ: Dụng thuật Phi kiềm trong thiên hạ, chính là du thuyết và trợ giúp nhà vua bằng biện pháp phi kiềm.
2. Thiên thời: Giống như nói “thiên mệnh”, “thiên vận”, “khí số”, chỉ xu thế phát triển của vận mệnh quốc gia.
3. Trở hiểm: Chỉ hình thế địa lý hiểm trở, bao gồm núi sông, cửa ải hiểm yếu.
4. Tâm ý chi lự hoài: Dự tính trong lòng nhà vua.
5. Hiếu ố: Yêu mến và ghét bỏ.
6. Sở trọng: Thứ quan trọng nhất.
Điều đáng chú ý là, khi xử lý mối quan hệ giữa con người với con người, cần hiểu rõ đối phương có những năng lực gì, khí khái và sức mạnh ra sao, từ đó chủ động thiết lập quan hệ hòa hợp, thân thiết với đối phương dựa vào biện pháp “khống chế”, như vậy sẽ đạt được hiệu quả “một công đôi việc”. Hơn nữa, cần nắm chắc thời cơ, nghiên cứu kỹ càng, để đối phương hành động theo mình, nhờ đó thực hiện được mục tiêu mà mình mong muốn.
Dịch nghĩa
Nếu áp dụng thuật Phi kiềm để du thuyết nhà vua trị vì thiên hạ thì trước hết cần hiểu rõ và dự đoán được tài năng, mưu trí, quyền biến của nhà vua, sau đó quan sát xem thời thế đang hưng thịnh hay suy tàn; nắm rõ tình hình địa lý rộng rãi hay chật hẹp, núi sông có hiểm trở hay không; nắm vững của cải của đất nước là bao nhiêu, tình cảnh của nhân dân như thế nào. Đồng thời, quan sát mối quan hệ giữa các chư hầu, hiểu rõ mối quan hệ thân sơ giữa các nước, nghiên cứu xem nước nào thân thiết, lạnh nhạt với nước nào, nước nào là bạn, là thù của nước nào. Nếu đất nước có vua tài giỏi thì mưu thần và thuyết khách cần quan sát kỹ nguyện vọng và suy nghĩ của nhà vua, cần hiểu rõ họ yêu và ghét cái gì, sau đó nhắm vào những cái họ yêu thích để tiến hành du thuyết, tiếp tục dùng biện pháp “phi” nhằm dụ dỗ đối phương bày tỏ sở thích, nguyện vọng, rồi sau đó dùng biện pháp “kiềm” để khống chế đối phương.
Nguyên văn
Dụng chi vô nhân, tắc lượng trí năng, quyền tài lực, liệu khí thế, vi chi khu cơ, (1) dĩ nghênh chi, tùy chi, dĩ kiềm hòa chi, dĩ ý nghi chi, (2) thử phi kiềm chi xuyết dã. Dụng vu nhân, tắc khống vãng nhi thực lai, (3) xuyết nhi bất thất, dĩ cứu kỳ từ. Khả kiềm nhi tung, khả kiềm nhi hoành, khả dẫn nhi Đông, khả dẫn nhi Tây, khả dẫn nhi Nam, khả dẫn nhi Bắc, khả dẫn nhi phản, khả dẫn nhi phúc. Tuy phúc năng phục, (4) bất thất kỳ độ. (5)
Chú thích
1. Khu cơ: Vị trí then chốt.
2. Dĩ kiềm hòa chi, dĩ ý nghi chi: Có được sự nhất trí với đối phương nhờ vào thuật khống chế, có được sự hòa thuận với đối phương nhờ vào lời lẽ.
3. Khống: Chỉ lời lẽ tán dương đối phương. Thực: Khiến đối phương nói ra tình hình thực tế, có được hiệu quả thực tế,
4. Phục: Lật đổ, thất bại. Phục: Khôi phục, phục hưng.
5. Độ: Chỉ huy, khống chế.
Dịch nghĩa
Nếu muốn áp dụng thuật Phi kiềm với người khác thì cần hiểu rõ trí tuệ và tài năng của đối phương, quan sát thực lực của đối phương, đánh giá khí thế của đối phương, rồi lấy đó làm điểm đột phá tạo dựng quan hệ với đối phương, tiếp đến dựa vào thuật Phi kiềm để có được sự thỏa thuận giữa hai bên. “Thích ứng với đối phương một cách có ý thức” chính là bí quyết của “phi kiềm”. Nếu vận dụng thuật Phi kiềm trong ngoại giao thì có thể dựa vào những lời lẽ hoa mỹ để có được tình hình thực tế của đối phương, duy trì mối quan hệ và không được để xảy ra sơ suất để có hiểu suy nghĩ thực lòng của đối phương. Như vậy thì có thể nắm vững điểm then chốt để thực thi thuật Hợp tung, cũng có thể thực thi thuật Liên hoành; cũng có thể nhờ dẫn dắt mà tiến về hướng đông, cũng có thể nhờ dẫn dắt mà tiến về hướng tây, cũng có thể nhờ dẫn dắt mà tiến về hướng nam, cũng có thể nhờ dẫn dắt mà tiến về hướng bắc; cũng có thể nhờ dẫn dắt mà quay, ngược trở về, cũng có thể nhờ dẫn dắt mà tiếp tục ra đi. Dù như vậy, vẫn cần thận trọng, không được để mất đi quyền chỉ huy của đối phương.
ĐIỂN CỐ MƯU LƯỢC
Gia Cát Lượng khéo khích Tôn Quyền
Bí quyết của thuật Phi kiềm chính là ở chỗ vận dụng mọi phương pháp để hiểu rõ tâm lý của đối phương, từ đó thực hiện được mưu lược của mình. Có thể khiến đối phương phấn chấn bằng những lơi lẽ tán dương khen ngợi, cũng có thể khiến đối phương “chui đầu vào thòng lọng” bằng hiện tượng giả. Thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng đã vận dụng thành công thuật Phi kiềm để thuyết phục Tôn Quyền và Lưu Bị liên minh chống quân xâm lược Tào Tháo.
Gia Cát Lượng
Vào năm Kiến An thứ 12, Lưu Bị đã phải “ba lần đến lều cỏ” mới gặp được Gia Cát Lượng và mời Gia Cát Lượng xuống núi mưu tính đại sự. Gia Cát Lượng thấy Lưu Bị thật lòng cầu xin nên đã chấp nhận làm quân sư cho Lưu Bị. Năm đó, Gia Cát Lượng mới có 27 tuổi, chính thức bước vào vũ đài chính trị. Gia Cát Lượng đã giúp Lưu bị cùng với Tôn Quyền đánh bại Tào Tháo trong trận Xích Bích. Ông giúp Lưu Bị dựng nên nước Thục ở phía nam, nước Thục cùng với nước Ngụy ở phía bắc, nước Ngô ở phía đông hình thành nên thế chân vạc. Khi Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, đã phong cho Gia Cát Lượng làm thừa tướng.
Khi đó quân Tào Tháo đang ở thế thắng, hùng dũng tiến lên. Tào Thào muốn ép Tôn Quyền đầu hàng và bắt sống Lưu Bị. Tôn Quyền cũng đang phái người đi nghe ngóng tình hình. Thế là Gia Cát Lượng và Lưu Bị nghĩ ra mưu kế liên minh với Tôn Quyền để đánh trả Tào Tháo, với mục đích là “nếu quân phía nam thắng thì sẽ cùng giết Tào Tháo để chiếm đất Kinh Châu; nếu quân phía bắc thắng thì sẽ nhân đó đoạt lấy Giang Nam”.
Gia Cát Lượng tới doanh trại Tôn Quyền, trước hết tìm gặp các mưu sĩ và tướng lĩnh của nước Ngô là Lỗ Túc, Chu Du để có thể “thẩm kỳ ý, tri kỳ sở hiếu ố” (thăm dò suy nghĩ có đối phương để hiểu được đối phương yêu và ghét cái gì). Khi gặp Tôn Quyền, nhìn thấy Tôn Quyền mắt xanh biếc, búi tóc màu tím, oai phong đĩnh đạc thì Gia Cát Lượng cảm thấy ông ta rất có phong thái, và vô cùng nghiêm túc, do đó chỉ có thể khích tướng, không thể du thuyết. Đợi khi Tôn Quyền hỏi, Gia Cát Lượng cố ý nói khích: “Tào Tháo dẫn triệu quân tiến về phía nam, đi kèm theo còn có vài nghìn mưu sĩ tài giỏi, ông ta vừa thôn tính Kinh Sở, chắc đang có ý đồ giành lấy Giang Đông”. Tôn Quyền nói: “Nếu Tào Tháo có mưu đồ thôn tính thì xin tiên sinh chỉ bảo nên đánh hay không đánh”.
Gia Cát Lượng tiếp tục khơi gợi sự quyết tâm của Tôn Quyền bằng lời lẽ “câu kiềm”, ông nói: “Lượng tôi có kế này, không biết tướng quân có muốn nghe không?”.
Tôn Quyền nói: “Ta rất muốn nghe”.
Tôn Quyền
Tôn Quyền tự là Trọng Mưu, vua nước Ngô. Ông là người xây dựng nước Ngô thời Tam Quốc. Tôn Quyền là người huyện Phúc Xuân, quận Ngô, là con của Tôn Kiên, thuở nhỏ từng theo cha và anh cả Tôn Sách đi bình định Giang Đông, Tôn Sách mất năm 200, Tôn Quyền thay anh trở thành người thống trị tối cao vùng Giang Đông.
Thế là Gia Cát Lượng tiếp tục khích tướng Tôn Quyền: “Hiện tại, Tào Tháo bình định thiên hạ, mới đây vừa phá Kinh Châu, gây chấn động khắp vùng biển, khiến cho anh hùng không có đất dụng võ. Lưu Bị cũng đã phải bỏ chạy. Tướng quân đang nắm giữ đội quân hùng hậu, nếu có thể sánh ngang với Tào Tháo thì nên sớm cắt đứt quan hệ với Tào Tháo, thề quyết chiến một phen. Còn nếu không thể sánh ngang Tào Tháo thì sao không nghe theo lời khuyên của các mưu sĩ, đầu hàng Tào Tháo có phải hơn không? Nếu tướng quân có ý đầu hàng thì nên quyết định sớm, nếu không hậu họa khó lường”.
Tôn Quyền nói: “Nếu ngươi đã nói như vậy thì sao Lưu Bị không đầu hàng Tào Tháo cho rồi?”. Gia Cát Lượng nói: “Tướng quân biết chuyện Điền Hoành chứ. Điền Hoành là tráng sĩ nước Tề, vô cùng trung nghĩa, không bao giờ chịu nhục. huống hồ Lưu Bị xuất thân quyền quý, tài hoa hơn người, ai cũng ngưỡng mộ. Dù sự nghiệp khó thành thì cũng là do ý trời, làm gì có chuyện chịu nhục trước người khác?”
Tôn Quyền vô cùng tức giận, vẩy ông tay áo bước đi. Sau này, Lỗ Túc khuyên Tôn Quyền rằng: “Tướng quân đừng tức giận, không thể tùy tiện nghe theo lời nói của Khổng Minh”. Tôn Quyền nói: “Hóa ra ông ta cố ý khích tướng ta sao?” Thế là lại cho gọi Gia Cát Lượng tới để nói rõ kế sách.
Gia Cát Lượng lại tiếp tục vận dụng thuật Phi kiềm để xóa bỏ băn khoăn trong lòng Tôn Quyền bằng cách đưa ra ưu thế của Lưu và Ngô, chỉ ra nhược điểm của Tào. Gia Cát Lượng nói: “Quân Lưu Bị mặc dù thất bại, song có đội quân tinh nhuệ hơn vạn người do Quan Vân Trường chỉ huy, có hơn vạn chiến sĩ ở Giang Hạ do Lưu Kỳ chỉ huy. Quân của Tào Tháo đã rệu rã do phải liên tục chiến đấu trong thời gian dài, hơn nữa vẫn đang đuổi theo tiến đánh quân Lưu Bị, mỗi ngày tiến thêm 300 dặm, có thể nói họ sắp bước vào giai đoạn suy yếu. Hơn nữa, người phương bắc không quen thủy chiến, còn người Kinh Châu bị bắt buộc phải đi theo Tào Tháo. Nếu tướng quân có thể đồng tâm hiệp lực với quân Lưu thì nhất định sẽ đánh bại quân Tào. Xin tướng quân nhớ cho, sự thành công hay thất bại trong cuộc chiến này đều là do ngài quyết định”. Lời lẽ khảng khái của Gia Cát Lượng đã thực sự kích động đến Tôn Quyền.
Sau khi nghe xong, Tôn Quyền nói với giọng đầy phấn kích: “Lời nói của tiên sinh đã giúp ta tìm ra lối thoát, ta quyết khởi binh chống lại quân Tào”.
Như vậy, Gia Cát Lượng đã từng bước dụ dỗ để Tôn Quyền tiếp nhận mưu kế của mình. Kết quả là, liên minh Lưu, Ngô đã đánh bại quân Tào, vì vậy mà hình thành nên thế chân vạc Tam Quốc.
Mao Tiêu thuyết phục vua Tần nhờ vào thuật Phi kiềm
Trò chuyện là một biện pháp quan trọng trong giao tiếp, sử dụng ngôn ngữ thích hợp thì sẽ để lại ấn tượng sâu sắc cho đối phương, thậm chí có thể hấp dẫn, cảm hóa và kiểm soát đối phương bằng hành vi và ngôn ngữ của mình. Thời Chiến Quốc, Mao Tiêu đã vận dụng thành công biện pháp “kiềm” để kiểm soát vua Tần nhờ giỏi suy đoán tâm lý của nhà vua, do đó mà anh ta đã thuyết phục thành công vua Tần.
Năm Tần Vương Chính thứ 9, mặc dù nước Tần rất mạnh song vẫn chưa thôn tính được sáu nước, có một người Thương Châu tên là Mao Tiêu trong một lần tới kinh đô Hàm Dương đã nghỉ chân tại một quán trọ, anh ta thấy những người nghỉ trọ ở đây túm năm tụm ba thầm thì to nhỏ chuyện gì đó rất bí mật, thấy anh ta lại gần thì họ lại thôi không nói nữa.
Mao Tiêu cảm thấy rất kỳ lạ, bèn hỏi chủ quán trọ xem ở đây đã xảy ra chuyện gì, chủ quán trọ nhất quyết không nói, Mao Tiêu phải nài nỉ mãi, ông ta mới chịu hé lộ: “Sáng sớm nay, Tần Vương lại giết thêm một đại thần nữa, đây là người thứ 27 rồi. Thi thể chất đống trước ngoài cung, thê thảm lắm!”.
Mao Tiêu ngạc nhiên hỏi: “Ồ, vì sao lại giết nhiều đại thần như vậy chứ?”
Chủ quán trọ nói: “Quan khách là người vùng khác tới không biết chuyện trong triều đình nước Tần chúng tôi là phải thôi. Chuyện này nói ra dài lắm”.
“Chuyện dài thì anh kể ngắn ngọn lại cho tôi nghe xem nào!” Mao Tiêu thỉnh cầu chủ quán kể lại sự tình.
Sau khi Lã Bất Vi đưa Lao Ái vào cung giả làm hoạn quan phục vụ thái hậu, thái hậu và Lao Ái thông dâm, sinh được hai con trai, Lao Ái đem hai đứa con đi giấu và lập mưu đợi Tần Thủy Hoàng chết thì lập con hắn lên làm vua. Khi phát hiện ra Lao Ái thực không phải là hoạn quan và thường thông dâm với thái hậu. Tần Thủy Hoàng liền giao cho pháp đình xét xử. Tháng 9 năm đó, Tần Thủy Hoàng giết ba họ nhà Lao Ái, còn giết hai con do thái hậu đẻ ra, xác họ chất đống trong ngoài cung, cảnh tượng thật thê thảm.
Tần Thủy Hoàng tức tối trước hành vi xấu xa của thái hậu, lại thấy thái hậu cấu kết với Lao Ái âm mưu làm phản thì đã không cho bà làm Quốc mẫu nữa, còn đuổi bà ra khỏi cung, đày sang đất Ung. Các đại thần trong triều ai đứng ra khuyên can đều bị mang ra ngoài chặt đầu, phơi thây, đã có 27 vị quan đại thần phải chịu số phận thê thảm này.
Mao Tiêu nghe xong thở dài một tiếng nói: “Con mà giam mẹ thì còn trời đất gì nữa!”. Rồi bảo chủ trọ cho nước nóng để tắm gội, sớm hôm sau sẽ vào can vua Tần. Những người cùng trọ can rằng: “Hai mươi bảy người kia đều là bề tôi thân tín của nhà vua thế mà còn bị vua xử chém, huống chi một người từ nơi xa tới như anh thì làm được gì chứ”. Song Mao Tiêu nhất quyết phải đi gặp vua Tần để khuyên can ông ta.
Sáng sớm hôm sau, Mao Tiêu tới cung Tần, nhìn thấy 27 thi thể chất đống trước cung thì nằm phục xuống trước đống thây kêu to rằng: “Tôi là khách nước Tề, tên là Mao Tiêu, xin được vào can đại vương”.
Nội thị chạy ra nói với Mao Tiêu: “Ngươi không thấy thây chồng đống đấy ư? Ngươi không sợ chết sao?”
Tần Thủy Hoàng
Tần Thủy Hoàng được xem là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, vì ông đã có công tiêu diệt các nước chư hầu thời Chiến Quốc để lập nên một đế quốc Trung Hoa rộng lớn. Ông là người hâm mộ tư tưởng Hàn Phi Tử, thoát ra khỏi tư tưởng sùng bái cổ nhân, cộng thêm tính cách mạnh mẽ đã lập nên đại nghiệp. Tuy nhiên, ông cũng được xem là bạo chúa vì chính sách cai trị hà khắc và tàn bạo của mình.
Mao tiêu nói: “Tôi nghe trên trời có hai mươi tám ngôi sao, hạ xuống nhân gian thì làm chính nhân. Nay số chết đã hai mươi bảy người rồi, còn thiếu một, nên tôi đến đây muốn cho đủ số ấy. Thánh hiền ngày xưa ai mà không chết, tôi đây lại sợ chết ư?”.
Mao Tiêu nói như vậy là để khích tướng vua Tần nhằm đạt mục đích được gặp mặt vua Tần. Nội Thị bẩm báo lại những lời nói của Mao Tiêu lên vua Tần, quả nhiên, vua Tần tức giận nói: “Thằng điên này to gan thật, dám tới đây làm trái lệnh ta!”. Nói xong thì phẩy tay ra lệnh cho thị thần tả hữu rằng: “Mau bắc một nồi nước sôi lên, ta sẽ luộc sống hắn, để xem hắn có được toàn thây để cộng thêm vào với 27 người kia cho đủ 28 người không?”
Các thị thần lập tức vâng lệnh, còn vua Tần chống gươm ngồi đó, lông mày dựng ngược, mặt đằng đằng sát khí hét lớn: “Cho thằng điên vào cung để luộc!”
Mao Tiêu tới trước thềm, dập đầu lạy vua Tần rồi nói: “Thần nghe nói có câu “người sống không kiêng nói đến cái chết; người có nước không kiêng nói đến chuyện mất nước; kiêng nói mất nước cũng không làm cho nước còn được, kiêng nói cái chết cũng không làm cho mình sống được”. Đức quân chủ anh minh sáng suốt cần phải biết rõ kế sống chết mất còn này. Chẳng hay bệ hạ có muốn nghe không?”
Vua Tần nghe Mao Tiêu nói vậy, nét mặt bỗng chốc dịu lại, rồi nói: “Ngươi có kế sách gì, nói ta nghe”
Mao Tiêu nói một cách khoan thai chậm rãi: “Trung thần sẽ không nịnh nọt nhà vua, nhà vua anh minh sáng suốt cũng sẽ không có hành vi ngông cuồng. Nếu nhà vua làm việc ngông cuồng mà bầy tôi không nói là bầy tôi phụ vua; Nếu bề tôi có lời ngay thẳng mà vua không nghe là vua phụ lòng bề tôi. Bệ hạ có việc làm trái đạo trời mà không tự biết, kẻ bề tôi hèn mọn này có lời nói ngay thẳng mà bệ hạ lại không muốn nghe. Cho nên thần e rằng nước Tần từ đây sẽ nguy mất!”
Vua Tần biến sắc, im lặng hồi lâu mới nhẹ nhàng hỏi: “Nhà ngươi định nói gì vậy? Ta bằng lòng nghe”
Như vậy, Mao Tiêu đã “kiểm soát” được vua Tần bằng chủ đề liên quan tới việc sống chết mất còn của quốc gia. Mao Tiêu thấy vua Tần thay đổi thái độ như vậy, bèn tiếp tục mưu kế của mình, hỏi lại nhà vua: “Hiện nay, bệ hạ đang muốn thống nhất thiên hạ phải không?”
Vua Tần nói: “Phải”
Mao Tiêu nói: “Sở dĩ, thiên hạ tôn sùng nước Tần, không phải chỉ vì nước Tần quá hùng mạnh, mà còn vì nước Tần có một vị vua anh hùng và rất nhiều trung thần, hào kiệt. Nay đại vương xé thây cha dượng Lao Ái là bất nhân; giết chết hai em còn nhỏ của mình là bất hữu; đuổi mẹ ra khỏi cung là bất hiếu; giết hại những người can ngăn, lại cho bày thây họ trước cửa cung, thực chẳng khác gì hành động của hai vị vua bạo tàn Kiệt nhà Hạ và Trụ nhà Thương! Muốn thống nhất thiên hạ mà có hành vi như vậy thì sao thiên hạ phục được?”
Tần Vương còn đang lúng túng không biết trả lời Mao Tiêu thế nào thì Mao Tiêu lại nói tiếp: “Xưa kia, vua Thuấn thờ bà mẹ ác nghiệt mà được tiếng là hiếu thảo, được thiên hạ khâm phục; vua Kiệt giết Long Phùng, vua Trụ giết Tỷ Can mà thiên hạ làm phản. Thần biết mình chắc chắn sẽ phải chết, nhưng e rằng sau khi thần chết, sẽ không còn ai dám nói nữa, chỉ dám gièm pha, trách móc bệ hạ sau lưng, trung thần không dám nói, trong lìa ngoài tan, chư hầu sẽ làm phản hết! Tiếc thay đế nghiệp của nước Tần đã gần thành rồi mà bệ hại lại tự phá hỏng đi. Thần nói hết rồi, xin chịu tội luộc!”.
Mao Tiêu nói xong lập tức đứng dậy cởi áo, chực nhảy vào nồi nước sôi. Vua Tần vội chạy xuống, tay trái nắm lấy Mao Tiêu, tay phải vẫy thị thần tả hữu bảo cất nồi nước sôi đi.
Mao Tiêu lại nói: “Đại vương đã ban lệnh không được khuyên can, nay lại không luộc thần thì còn ai sợ?”
Vua Tần lập tức bãi bỏ lệnh này đi. Rồi sai thị thần tả hữu đưa áo cho Mao Tiêu mặc, mời Mao Tiêu ngồi, rồi nói với giọng rất khiêm tốn: “Những người can trước chỉ kể tội quả nhân, chưa hề nói rõ lý lẽ được mất. Nay trời sai tiên sinh đến mới khiến quả nhân hiểu ra, quả nhân nào dám không nghe cao kiến của tiên sinh!”
Mao Tiêu lạy hai lạy nói rằng: “Bệ hạ đã nghe lời thần thì xin chuẩn bị xe ngựa đi đón thái hậu về cung ngay; còn đống thây chết trước cung, đều là xương cốt của trung thần, xin cho chôn cất cẩn thận”.
Vua Tần lập tức hạ lệnh cho người đi thu nhặt tử thi của hai mươi bảy người cho vào trong quan tài đem chôn ở núi Long Thủ, và để biểu dương lòng trung thành của họ, đã gọi nơi chôn cất này là “Hội trung mộ” (mộ tu tập các trung thần).
Ngay hôm ấy, vua Tần lệnh cho Mao Tiêu đánh xe đưa ông đi Ung Châu đón thái hậu về. Khi mẹ con họ gặp nhau, Tần Vương đã quỳ phục dưới chân thái hậu, dập đầu òa khóc, khiến thái hậu cũng khóc theo.
Vua Tần dẫn Mao Tiêu vào yết kiến thái hậu, còn chỉ Mao Tiêu nói rằng: “Đây là Dĩnh Khảo Thúc của con đây”!
Hôm sau, họ khởi hành trở về Hàm Dương, trên đường đi ai ấy đều khen ngợi vua Tần có hiếu.
Mao Tiêu không phải là thần dân của nước Tần, vốn không có trách nhiệm phải khuyên can vua Tần, song ông vẫn dám đứng ra làm chuyện này là vì ông hiểu rõ Tần Vương Chính có dã tâm thôn tính sáu nước để thống nhất thiên hạ, đây chính là điểm mấu chốt để anh ta có thể dựa vào đó biến “u dữ” thành “u lành” trong trái tim Tần vương.
Trước hết, Mao Tiêu cố ý dùng lời lẽ hù dọa để khống chế Tần Vương, sau đó lại nói lý lẽ và phân tích cái lợi hại và hậu quả mà Tần Vương có thể phải gánh chịu. Một vị vua tràn đầy dã tâm và hào khí như Tần Vương chắc chắn sẽ phải xuống nước và làm hòa với Mao Tiêu khi nghe thấy nói đế nghiệp đang đứng trước lâm nguy. Mao Tiêu hiểu rất rõ điều này thế nên anh ta đã thành công.
Phạm Thư lập hầu Chiêu Vương, lập công lưu thanh danh
Quỷ Cốc Tử cho rằng, muốn dùng thuật Phi kiềm để đối phó với người khác thì trước hết phải thăm dò và suy đoán ý đồ của đối phương. Phải biết anh ta thích gì, ghét gì, sau đó mới dựa vào đó để nói ra những điều anh ta thích nhất để khiến anh ta vui như mở cờ trong bụng, hoặc nói ra những điều anh ta ghét nhất để anh ta coi mình là người tri kỷ. Khi anh ta vui vẻ hoặc coi bạn là người tri kỷ để cởi mở tấm lòng và trò chuyện thân mật với bạn thì chính là lúc bạn đã có thể khống chế anh ta làm theo ý đồ của mình. Khi thăm dò và suy đoán tâm tư, ý nghĩ, sở thích của đối phương, có thể dùng thuật Phi kiềm để khéo dẫn dắt đối phương thể hiện rõ mong muốn thực sự trong lòng, rồi từ đó tìm cách khống chế anh ta.
Trên thực tế, thuật Phi kiềm chính là khéo léo thuyết phục người khác bằng những lời lẽ xúc động và bằng các kỹ xảo mưu lược khác nhau, coi đối phương là mưu lược để mình sử dụng. Sử dụng đúng cách thì có thể đạt được mục đích như mong muốn. Từ xưa tới nay, có rất nhiều người lập nghiệp thành công và được ghi danh sử sách nhờ biết cách vận dụng thuật Phi kiềm và khả năng ăn nói của mình. Như Phạm Thư là một ví dụ.
Phạm Thư tự là Thúc, là người nước Ngụy thời Chiến Quốc. Ông xuất thân nghèo khó, sau này trong một lần đi sứ sang nước Tề cùng đại phu nước Ngụy là Tu Giả, ông đã được vua Tề cảm phục vì tài ăn nói, và có ý giữ ông ở lại nước Tề làm khách khanh, nhưng ông từ chối, tuy nhiên khi về nước ông lại bị Tu Giả vu cáo có âm mưu cấu kết với nước Tề làm phản, thế là ông đã trốn chạy sang nước Tần. Năm 266 TCN, ông được phong làm tể tướng nước Tần, trợ giúp Tần Chiêu Vương trị vì đất nước, ông đã làm cho nước Tần trở nên cường thịnh. Có thể nói, Phạm Thư là nhà mưu lược tài ba trong các lĩnh vực như chính trị, ngoại giao trong thời kỳ cổ đại Trung Quốc. Khi đánh giá về những cống hiến của Phạm Thư đối với nước Tần, Lý Tư đã từng thốt lên trong cuốn “Gián trục khách thư” như sau: “Chiêu Vương có được Phạm Thư nên vương thất mạnh lên, tư môn được bịt kín, chư hầu phải kinh sợ, khiến Tần thành tựu Đế nghiệp”.
Khi Phạm Thư tới nước Tần, Tần Chiêu Vương đã làm vua được 36 năm, đất nước hùng mạnh. Quân Tần tiến đánh nước Sở ở phía nam, chiêm lĩnh hai thành lớn là Yên và Dĩnh, giam vua Sở ở nước Tần; Lại tiếp tục tiến đánh nước Tề ở phía đông và giành chiến thắng rực rỡ; đồng thời bắt sống được rất nhiều binh sĩ của Ngụy, Hàn, Triệu, khiến hai vua Ngụy và Hàn phải cúi đầu thuần phục. Mặc dù nhân tài trong triều đình nước Tần rất nhiều, song quyền hành lại nằm trọn trong tay “Tứ quý”, họ bài xích những người không cùng quan điểm với mình. Tần Chiêu Vương lúc nào cũng ở trong nội cung, lại bị bao vây bởi tôn thân quý thích. Hơn nữa, trong thời Chiến Quốc loạn lạc này, các mưu sĩ, thuyết khách hoạt động trên vũ đài chính trị nhiều không kể xiết, khó mà phân biệt rõ đâu là nhân tài thực sự. Trong thời kỳ này, tầng lớp thống trị nước Tần không hề có ấn tượng tốt đẹp đối với các tân khách, biện sĩ tới từ các nước khác, vì họ cho rằng những người này bất tài, chỉ nói suông chứ không làm được gì. Do đó, dù nghĩ đủ cách, Phạm Thư vẫn khó chen chân vào được triều đình nhà Tần để hiến đại kế giúp vua Tần an bang trị quốc.
Một lần, Phạm Thư nhờ người giới thiệu mình với Tần Chiêu Vương như sau: “Hiện có một người nước Ngụy, tên gọi Trương Lộc tiên sinh (để trốn chạy Tu Giả, ông đã đổi tên Phạm Thư thành Trương Lộc) trí tuệ hơn người, là bậc kỳ tài trong thiên hạ, ông ta muốn bái kiến hoàng thượng và bảo ‘hiện nay nước Tần đang lâm vào cảnh nguy khốn, cần Trương Lộc tới giúp’, vì sao lại như vậy thì phải để Trương Lộc vào gặp mặt hoàng thượng thì mới nói hết được”. Rõ ràng, Phạm Thư làm vậy là để hù dọa vua Tần, thu hút sự chú ý của ông ta, từ đó đạt mục đích “được bái kiến vua Tần”. Tuy nhiên, Tần Chiêu Vương lại không phải là một vị vua “dễ hù dọa”, những chuyện tương tự như vậy không phải xảy ra lần đầu. Nhà vua cho rằng, những nhà du thuyết, mưu sĩ trong thiên hạ thường vẫn thích rêu rao mình như vậy, cho nên ông không chú ý lắm. Thế là, Phạm Thư thất bại.
Tới năm Chu Noãn Vương thứ 45, thừa tướng nhà Tần Nhưỡng Hầu Ngụy Nhiễm muốn khởi binh đi qua đất Hán và Ngụy để tiến đánh nước Tề nhằm chiếm hai vùng đất Cương, Thọ để mở rộng phạm vi đất phong của mình, từ đó làm mạnh thêm thực lực bản thân. Đây chính là cơ hội tốt để Phạm Thư có thể lập công với nước Tần, từ đó chen chân vào triều đình nhà Tần. Bằng sự nỗ lực tìm hiểu, phân tích và phán đoán thế giới nội tâm của Chiêu Vương trong suốt một năm qua, ông đã mạnh đạn và quyết đoán gửi cho Chiêu Vương một bức thư bày tỏ lòng đại nghĩa của mình, và đề cập đến vấn đề mà nhà vua đang rất quan tâm, lo lắng khi đó - sự mục nát của triều đình.
Trong thư ông đã viết như sau: “Thần nghe nói vua anh minh khi chấp chính thường ban thưởng cho những người có công với đất nước và giao phó trọng trách cho những người có tài năng; Người có công thì được hưởng bổng lộc, người tài giỏi thì được phong chức cao. Thế nên, người bất tài không dám nhận chức, người có tài không dám bỏ bê nhiệm vụ. Còn vua u mê, bất tài thì sẽ không làm như vậy, mà chỉ thưởng cho người mình yêu thích, phạt người mình ghét bỏ, sự thưởng phạt hoàn toàn dựa theo cảm tính. Thần cũng nghe nói, người giỏi làm giàu cho bản thân thường lấy của cải của quốc gia, còn người giỏi làm giàu cho quốc gia thường lấy của cải của các chư hầu. Thiên hạ có vua anh minh thì chư hầu sẽ không thể chuyên quyền chuyên lợi, vì sao lại như vậy? Vì nhà vua anh minh giỏi phân chia quyền lực cho chư hầu. Một vị lương y có thể đoán biết sự sống chết của bệnh nhân, còn một vị minh chủ có thể dự đoán sự thành bại của quốc sự. Thấy việc có lợi thì thi hành, thấy việc có hại thì xóa bỏ, khi có nghi ngờ thì giảm bớt khen thưởng, những vị minh quân như vua Thuấn, vua Ngu đều làm như vậy cả. Còn một số điều thần không tiện nói ra ở bức thư này, song nếu nói không đầy đủ thì e rằng hoàng thượng không lưu tâm. Thần mong rằng hoàng thượng có thể bớt chút thời gian rảnh rỗi của ngài, cho phép thần được gặp mặt để nói thẳng những điều thần muốn nói. Nếu những lời nói của thần liên quan tới việc trị quốc hưng bang không có hiệu quả thì thần bằng lòng chịu mức hình phạt nặng nhất”.
Những lời lẽ trong bức thư của Phạm Thư đã thể hiện rõ hai tư tưởng đáng quý. Thứ nhất là, ông đã chủ trương chọn người hiền tài, khích lệ khen thưởng những người có công với đất nước, cực lực phản đối việc dùng người dựa theo cảm tính. Đây quả là tư tưởng tiến bộ trong thời kỳ đó. Thứ hai là, ông đả kích hiện tượng chuyên quyền chuyên lợi của những người nắm quyền hành, chỉ ra được mối hại của việc “triều đình suy yếu, còn thần tử thì mạnh lên”. Có thể thấy đây là một tư tưởng sáng suốt trong việc việc tăng cường tập trung quyền lực vào một mối, và củng cố địa vị thống trị của nhà vua. Hơn nữa, những lời nói của Phạm Thư đã đánh trúng nỗi niềm trăn trở của nhà vua lúc bấy giờ là đang trong sự bao vây của tôn thân quý thích, gia đình quý tộc ngày một giàu có, chính vì vậy mà nhà vua đặc biệt lưu tâm tới những lời nói của ông. Điều đáng nói ở đây là, Phạm Thư còn khẳng định chắc chắn rằng nếu không giúp được nhà vua trị quốc hưng bang thì sẽ chịu hình phạt nặng nhất, chính vì vậy mà Tần Chiêu Vương không thể không triệu kiến Phạm Thư.
Có thể nói, bức thư này của Phạm Thư đã vận dụng một cách hiệu quả thuật Phi kiềm, phỏng đoán chính xác tâm lý của đối phương để từ đó thuyết phục đối phương bằng lời nói, và rồi tiến tới kiểm soát đối phương. Quả nhiên, Tần Chiêu Vương rất tin và truyền lệnh cho đón Phạm Thư vào triều bằng xe riêng của mình.
Trước khi vào cung Tần, Phạm Thư đã suy nghĩ kỹ những điều cần nói với nhà vua, do đó khi vừa bước xuống xe, ông đi thẳng một mạch vào cung cấm. Nhìn thấy Tần Chiêu Vương bị kẹp giữa đoàn tôn thân quý thích bước ra, ông vẫn làm bộ đi như không hề biết. Một tên hoạn quan thấy vậy, vội chạy lại quát to: “Hoàng thượng đã tới, vì sao không tránh ra”. Phạm Thư không hề tỏ ra sợ hãi, ngược lại còn phản bác lại: “Nước Tần làm gì có vua, chỉ có thái hậu và Nhưỡng Hầu”, nói xong lại tiếp tục đi tiếp như không có chuyện gì xảy ra. Hành động này của Phạm Thư quả là rất mạo hiểm, tuy nhiên, câu nói nghe có vẻ mạo phạm này lại đánh trúng tâm tư của Chiêu Vương, do đó đã thu được hiệu quả rất cao. Chiêu Vương nghe vậy chẳng những không giận, trái lại còn mời Phạm Thư vào trong mật thất, đuổi hết tay chân ra ngoài, đối xử với ông như thượng khách, hai người đã cùng nhau thảo luận.
Phạm Thư giỏi đạo thực hư, hơn nữa khéo xử lý “xiết chặt và thả lỏng”. Tần Chiêu Vương càng tỏ ra nóng vội thì Phạm Thư càng khoan thai chậm rãi. Khi Tần Chiêu Vương kính cẩn hỏi: “Tiên sinh có điều gì dạy bảo quả nhân?” thì Phạm Thư lại rề rà né tránh câu hỏi trên, Chiêu Vương hỏi đến lần thứ ba mà vẫn không nhận được câu trả lời, đành phải nài nỉ: “Lẽ nào tiên sinh không muốn chỉ bảo quả nhân?”.
Thấy thái độ thành khẩn, tha thiết thỉnh giáo của Tần Chiêu Vương, Phạm Thư hiểu rằng mình đã hoàn toàn kiểm soát được vua Tần. Lúc này, ông mới nhẹ nhàng nói: “Thần đâu dám như vậy. Xưa kia, Lã Thượng suốt ngày ngồi câu bên bờ sông Vị Thủy chỉ cốt gặp cho bằng được Chu Văn Vương, và cuối cùng đã có buổi trò chuyện thân thiết với Chu Vương ở đó; sau này, Chu Vương mời ông về cung, lập làm thái sư, Lã Thượng đã giúp đỡ Chu Vương rất nhiều trong việc giành thiên hạ. Nếu khi đó, Văn Vương không để ý tới Lã Thượng, không tin vào mưu lược của Lã Thượng thì Chu Văn Vương đâu có cái đức của bậc thiên tử, mà Văn Vương, Võ Vương cũng khó mà hoàn thành nghiệp vương của mình”. Phạm Thư cố ý liên tưởng chuyện của Tần Chiêu Vương hiện tại với bậc thánh hiền thời cổ đại với nhau, vừa là để thỏa mãn lòng chuộc hư vinh của Tần Chiêu Vương, vừa là để khích lệ nhà vua trọng dụng hiền tài. Phạm Thư còn tự ví mình như Lã Thượng, đặt mình vào vị trí của hiền tướng, nếu Chiêu Vương từ chối, thì khác gì hành động tàn bạo của vua Kiệt, Trụ. Rõ ràng, những lời nói của Phạm Thư cứ thế chảy ra theo đúng như mạch suy nghĩ của Chiêu Vương, khiến nhà vua vô cùng hài lòng. Cũng chính là nói, Phạm Thư đã vận dụng thành công thuật Phi kiềm.
Tiếp đến, Phạm Thư nói về mình: “Thần là người rời bỏ quê hương, tới sinh sống tại nơi đất khách quê người, những lời thần nói đều liên quan tới sự hưng vong của quốc gia, thần chưa dám nói ra là vì chưa hiểu rõ suy nghĩ của hoàng thượng dù hoàng thượng đã hỏi tới ba lần. Thần e dè như vậy chính là vì không biết hoàng thượng tin hay không tin đó thôi. Hoàng thượng tin lời nói của thần thì dù chết thần cũng không xem đó là tai họa thiệt thân, không lấy đó làm buồn. Dù bị bôi vẽ khắp mình mẩy làm một thằng hủi, để tóc xõa rũ rượi làm một thằng điên thì thần cũng không lấy đó làm nhục. Thần chỉ sợ người trong thiên hạ thấy thần tỏ lòng tận trung mà lại bị chết, rồi từ đó không ai dám lên tiếng nói gì, không ai dám bước chân đến nước Tần nữa”. Những lời nói khảng khái và bi tráng này càng cho thấy rõ, Phạm Thư sẵn sàng “phơi gan trải mật” cốt để làm xúc động Chiêu Vương, tiếp đến ông lại nói những câu đầy đại nghĩa với mục đích là để tạo dựng một vị trí khá an toàn cho mình trong con mắt Tần Chiêu Vương.
Sau những lời “dọn đường” đó, Phạm Thư mới đề cập tới thực chất vấn đề, chỉ ra những chỗ mục nát của triều đình nhà Tần lúc đó: “Hoàng thượng trên thì sợ uy nghiêm của thái hậu, dưới thì mê hoặc trước những lời nịnh nọt, bợ đỡ của gian thần. Hoàng thượng suốt ngày ở trong cung, không tách rời kẻ hầu người hạ, cả đời chìm đắm trong mụ mị, khó mà phân biệt được đâu là thiện, đâu là ác. Lâu dần họa lớn sẽ làm lung lay tông miếu, họa nhỏ sẽ làm bản thân cô lập và lâm nguy. Đây là điều thần sợ nhất”.
Thực ra, những chỗ mục nát mà Phạm Thư nêu ra ở trên lại không phải là việc cấp bách cần giải quyết ngay của nước Tần. Sở dĩ, Phạm Thư thổi phồng chuyện này là với dụng ý nhắm trúng nỗi trăn trở bấy lâu của Chiêu Vương là “làm mạnh triều đình, làm yếu các thần tử xung quanh”, đồng thời, Phạm Thư cũng dựa vào đó để lật đổ kẻ thù chính trị để tạo chỗ đứng vững chắc cho mình, cũng như xác lập địa vị cho mình trong triều đình nhà Tần sau này. Chỉ cần có được địa vị rồi thì mọi cái khác sẽ được giải quyết êm xuôi. Có thể thấy, để thực hiện được ý đồ chính trị của mình, các nhà mưu lược đã phải suy nghĩ thấu đáo như thế nào.
Những lời nói của Phạm Thư đánh trúng tâm trạng băn khoăn, trăn trở bấy lâu nay của Chiêu Vương, nên nhà vua đã nói ra những lời lẽ từ tận tâm can của mình: “Nước Tần ở xa xôi, quả nhân là người ngu dốt. Nay tiên sinh tới đây quả là ông trời đã ban ân cho nước Tần. Từ nay, mọi chuyện lớn nhỏ, bên trên liên quan tới thái hậu, bên dưới liên quan tới đại thần thì mong tiên sinh hãy chỉ bảo cho quả nhân, chớ đừng ngại ngần”.
Chiêu Vương bãi miễn chức thừa tướng của Nhưỡng Hầu Ngụy Nhiễm, lệnh cho ông ta phải quay trở về không đánh nước Sở chiếm đất nữa. Đồng thời, trừ bỏ “Tam quý” còn lại, bố trí để thái hậu ở sâu trong cung, không biết chuyện chính sự nữa, tiếp đó phong Phạm Thư làm thừa tướng, cấp cho đất Ứng Thành, hiệu là Ứng Hầu. Từ đó, quyền hành dần dần tập trung vào một mối dưới sự chỉ huy của Tần Chiêu Vương, còn Phạm Thư rất được trọng dụng.
Sở dĩ Phạm Thư tìm được chỗ đứng ở nước Tần và trở thành nhất đại minh tướng, chính là vì ông là người tài trí, giỏi du thuyết. Trong quá trình du thuyết Tần Chiêu Vương, phần lớn Phạm Thư dùng thuật Phi kiềm để kiểm soát nhà vua và dần dần để nhà vua tiếp nhận mưu lược của mình, cuối cùng ông đã xây dựng thành công sự nghiệp của mình trên đất Tần và được ghi danh sử sách.
Gia Cát Lượng khẩu chiến quần nho
Quỷ Cốc Tử có cách kiến giải độc đáo đối với việc vận dụng ngôn ngữ. Ông nói: “Nếu vận dụng thuật dụ dỗ, lôi kéo mà không đạt được mục đích thì thử “đánh đòn phủ đầu” đối phương, sau đó thăm dò quan sát đối phương; hoặc thăm dò, quan sát đối phương nhiều lần, sau đó khiến đối phương phải “tuôn ra tâm sự thầm kín trong lòng”. Cũng chính là nói, hoặc dùng ngôn ngữ sắc bén để thăm dò hoặc liên tục hỏi vặn lại bằng ngôn ngữ sắc bén”.
Thời Tam Quốc, khi khẩu chiến quần nho, Gia Cát Lượng đã áp dụng kế sách đúng như “binh pháp” của Quỷ Cốc Tử nói ở trên.
Gia Cát Lượng theo Lỗ Túc tới Đông Ngô để thuyết phục Tôn Quyền liên minh với Lưu Bị chống lại Tào Tháo. Khi Gia Cát Lượng tới nơi thì đã thấy Trương Chiêu, Cố Ung và hơn hai chục quan văn bá võ ngồi sẵn ở đó, ai cũng mũ áo chỉnh tề. Lỗ Túc đưa Khổng Minh lại chào hỏi từng người. Trương Chiêu thấy Khổng Minh phong thái đàng hoàng, ung dung, khảng khái, biết rằng người này tới đây tất để thuyết khách, nên đã vội nói khích trước: “Chiêu tôi là một kẻ học trò ngu hèn ở Giang Đông, lâu nay vẫn nghe nói tiên sinh luôn tự cho mình là cao quý, sánh với Quản Trọng, Nhạc Nghị, lời ấy chẳng biết thực hay hư?”
Khổng Minh gật đầu cười nói: “Đúng là có điều đó thật”.
Trương Chiêu lập tức vặn hỏi: “Mới đây, tôi nghe nói Lưu Huyền Đức phải ba lần tới lều cỏ mới may mắn có được tiên sinh, đúng là như cá gặp nước, định thôn tính toàn Kinh, Tương, thế mà nay lại để rơi cả về tay Tào Tháo, không biết tiên sinh giải thích sao về điều này?”
Khổng Minh nghĩ thầm Trương Chiêu là tay mưu sĩ bậc nhất của Tôn Quyền, nếu mình không áp đảo được hắn thì sao thuyết phục được Tôn Quyền? Thế là đáp lại rằng: “Theo tôi thì lấy đất Hán Thượng dễ như trở bàn tay, hiềm vì chủ tôi là Lưu Dự Châu muốn làm điều nhân nghĩa, không nỡ cướp cơ nghiệp của người đồng tông, nào ngờ đứa cháu trẻ người non dạ là Lưu Tôn, vì quá cả tin vào lời ngon ngọt của Tào Tháo mà đã ngấm ngầm hàng Tào, cho nên mới để Tào Tháo ngông cuồng như vậy. Nay chủ tôi đóng quân ở Giang Hạ, sẽ có kế sách lâu dài, những kẻ tầm thường làm sao mà hiểu được?”
Trương Chiêu đã không phục lời giải thích của Khổng Minh, trái lại còn cảm thấy rất bực mình, lập tức phản bác lại: “Nói như vậy chẳng khác nào tiên sinh nói mà không đi đôi với làm. Tiên sinh đã ví mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị, mà Quản Trọng ngày xưa giúp Hoàn Công trị được chư hầu, định được thiên hạ; Nhạc Nghị ngày xưa giúp nước Yên đương suy yếu mà hạ được hơn bảy mươi thành nước Tề. Hai người ấy thực là có tài. Tiên sinh trước đây chỉ ở trong lều tranh, cười phong cợt nguyệt, xếp gối ngồi cao, nay theo Lưu Dự Châu thì phải vì dân mà mưu điều lợi, bỏ điều hại, dẹp trừ kẻ loạn tặc mới phải chứ!”
Khổng Minh hỏi vặn lại: “Thế các hạ thấy tôi không làm như vậy sao?”
Trương Chiêu cười ha hả nói rằng: “Trước khi Lưu Dự Châu chưa có được tiên sinh, chưa thể tung hoành dọc ngang, chưa có được thành trì, khi có được tiên sinh rồi thì ai cũng mong ngóng, đến đứa trẻ con cũng cho đó là hổ thêm cánh, nhà Hán sắp sửa lại hưng thịnh, nhà Tào sắp bị tiêu diệt. Cựu thần trong triều đình, ẩn sĩ nơi rừng rú, ai cũng lau mắt chờ xem tiên cứu vót dân chúng ra khỏi cơn nước lửa, giúp đỡ thiên hạ yên ổn làm ăn. Ai ngờ vừa gặp quân Tào, đã bỏ giáp quẳng gươm, trốn chạy; thua Đương Dương, chạy ra Hạ Khẩu, chẳng có lấy một chỗ dung thân. Thế chẳng hóa ra Quản Trọng, Nhạc Nghị chắc cũng như thế sao?”
Những lời nói của Trương Chiêu không ngoài mục đích châm biếm Khổng Minh. Các mưu sĩ có mặt ở đó thấy Trương Chiêu nói vậy thì hả lòng hả dạ, bắt đầu rộ lên những tiếng cười khoái chí, họ cho rằng Khổng Minh khó mà đổi đáp nổi.
Khổng Minh nghe xong, lại cười nói vui vẻ: “Chim bằng bay vạn dặm, chim yến tước làm sao mà biết được chí khí của nó? Giống như người bệnh nặng, trước hết phải cho húp nước cháo, cho mặc ấm và uống thuốc để cho phủ tạng điều hòa, thân thể hồi phục, tiếp đến tẩm bổ cá thịt và uống thuốc mạnh thì mới có thể trị bệnh tận gốc, sinh mệnh mới an toàn. Nếu bệnh còn nặng, phủ tạng còn yếu, đã trị ngay bằng thuốc mạnh, tẩm bổ ngay bằng vị ngon, thì khó lòng chữa khỏi được”. Sau khi đưa ra sự so sánh, Khổng Minh bắt đầu đi vào chủ đề chính: “Cách đây không lâu, chủ tôi là Lưu Dự Châu bị thua ở Nhữ Nam, khi đến nhờ Lưu Biểu, quân không đầy một nghìn, tướng chỉ có Quan Vũ, Trương Phi, và Triệu Vân, đây chính là lúc bệnh đang rất nặng; Tân Dã là một huyện nhỏ, hẻo lánh, dân cư thưa thớt, lương thực ít ỏi, chủ tôi chẳng qua đến nương tạm ở đó ít ngày, chứ có phải muốn khư khư ngồi giữ cái xó ấy đâu? Trong hoàn cảnh quân sĩ không sẵn, thành quách không bền, quân không luyện tập, chạy ăn từng bữa, thế mà khiến lửa cháy Bác Vọng (ý nói trận thiêu đồn Bác Vọng), nước ngập Bạch Hạ (ý nói trận thủy chiến ở sông Bạch) làm đại quân của Hà Hầu Đôn, Tào Nhân phải kinh hoàng khiếp đảm; Dù là Quản Trọng hay Nhạc Nghị dùng binh cũng chỉ như vậy mà thôi!”. Khổng Minh nói một cách khoan thai chậm rãi, tỏ rõ phong thái ung dung, đĩnh đạc. Ông tiếp tục phản bác lại sự chỉ trích của Trương Chiêu: “Đến như Lưu Tôn hàng Tào, Dự Châu hoàn toàn không biết, vả lại, không nỡ nhân lúc loạn mà cướp lấy cơ nghiệp người đồng tông. Thật là đại nhân, đại nghĩa! Còn trận thua ở Đương Dương, vì có vài vạn dân, già trẻ dắt díu nhau đi theo, không nỡ bỏ, nên mỗi ngày chỉ đi được mười dặm, không thiết lấy Giang Lăng, cam chịu thất bại, ấy cũng là đại nhân đại nghĩa; Còn như ít không dịch được nhiều thì được thua chỉ là chuyện thường tình. Ngày xưa Cao Tổ Lưu Bang thường thua Hạng Vũ, sau chỉ một trận ở Cái Hạ đã thành công! Kế lớn quốc gia, xã tắc an nguy, đều đã có chủ trương cả rồi. Không như đám người khoác lác hư danh, bịp bợm, ngồi một xó mà lý thuyết suông, đến lúc có việc thì trăm phần chẳng được phần nào, thật đáng để cho thiên hạ chê cười!”.
Những lời nói này nhằm trúng vào Trương Chiêu đang dương dương tự đắc, ngỡ mình giành thế chủ động, khiến ông ta sa sầm nét mặt, không nói được một lời.
Khi Trương Chiêu còn đang chưa biết phải nói gì thì đột nhiên có một người lên tiếng: “Nay Tào Tháo có triệu quân, nghìn tướng, uy thế như rồng như hổ, nuốt chửng Giang Hạ, Tiên sinh nghĩ sao?”
Khổng Minh trông xem ai thì ra là Ngu Phiên, một trong những mưu sĩ Giang Đông, ông bèn trả lời: “Tào Tháo thu quân rơm rác của Viên Thiệu, nhặt quân ô hợp của Lưu Biểu, dù đông mấy trăm vạn cũng không đáng sợ gì”.
Ngu Phiên nghe vậy, cười khẩy nói: “Quân thua ở Đương Dương, phải rút về Hạ Khẩu, đi xin cứu viện không xong, còn nói không sợ, khoác lác như vậy là để bịp người đó thôi!”
Khổng Minh vẫn bình tĩnh từ tốn nói: “Lưu Dự Châu đem vài nghìn quân nhân nghĩa sao địch nổi triệu quân tàn bạo? Lui về giữ Hạ Khẩu là để chờ thời cơ thôi! Nay quân Giang Đông các anh đang rất mạnh, lương thực đầy đủ, lại có sông Trường Giang hiểm trở, thế mà còn khuyên tướng quân uốn gối hàng giặc, không nè hà việc người đời cười chê. Từ đó mà suy, Lưu Dự Châu mới thật sự là người không sợ gì giặc Tào”
Trương Chiêu
Trương Chiêu là một nhân vật quan trọng thời Tam Quốc. Ông là người có công lao lớn trong việc giúp đỡ hai anh em Tôn Sách và Tôn Quyền sáng lập và củng cố chính quyền Đông Ngô, là công thần khai quốc và người đưa ra quyết sách của Đông Ngô. Ông ham học từ nhỏ, lớn lên đa tài đa trí. Ông đã dành phần lớn thời gian của mình cho việc nghiên cứu những bộ sách cổ của Trung Quốc. Với tài năng xuất chúng, ông nhanh chóng trở nên nổi tiếng và được đích thân Tôn Sách mời làm mưu sĩ. Điều đáng quý nhất ở Trương Chiêu là thẳng thắn, trung thành, cương trực bất khuất.
Ngu Phiên cứng họng không nói được gì. Một mưu sĩ khác có tên Bộ Trắc lên tiếng hỏi: “Khổng Minh muốn bắt chước Tô Tần, Trương Nghi sang làm thuyết khách ở Giang Đông này chăng?”
Khổng Minh đáp: “Anh chỉ biết Tô Tần, Trương Nghi là biện sĩ, chuyên nghề nói mép, chứ chưa biết Tô Tần, Trương Nghi cũng là những trang hào kiệt. Tô Tần từng đeo ấn tướng sáu nước, Trương Nghi hai lần làm tướng nhà Tần, họ đều có tài giúp vua gây nên cơ nghiệp, đâu thèm so sánh với những kẻ ham sống sợ chết, nhường người mạnh, chèn kẻ yếu. Các anh vừa nghe nói tới Tào Tháo đã vội co vòi xin hàng rồi, còn dám cười Tô Tần, Trương Nghi nữa à?”
Bộ Trắc bị giáng một cú đòn, lặng im không dám nói gì nữa.
Lại có một người hỏi rằng: “Thế Khổng Minh cho Tào Tháo là người thế nào?”
Khổng Minh nhìn xem ai thì là Tiết Tung, bèn đáp rằng: “Tào Tháo là giặc nhà Hán, can gì phải hỏi?”
Tiết Tung nói: “Tiên sinh lầm to. Nhà Hán sắp tới ngày tàn rồi, số trời đã định như vậy, hiện nay, Tào Tháo đã nắm được hai phầ