← Quay lại trang sách

PHẦN 6 NGỖ HỢP (HỢP VÀ PHẢN) Nguyên văn

Phàm xu hợp (1) bội phản, (2) kế hữu thích hợp. (3) Hóa chuyển (4) hoàn thuộc, (5) cách hữu hình thế, phản phúc tương cầu, (6) nhân sự vi chế. (7) Thị dĩ thánh nhân cư thiên địa chi gian, lập thân, ngự thế, thi giáo, dương thanh, minh danh dã, tất nhân sự vật chi hội, (8) quan thiên thời chi nghi, (9) nhân sở đa sở thiểu, dĩ thử tiên tri chi, dữ chi chuyển hóa.

Chú thích

1. Xu hợp: Xu hướng thống nhất.

2. Bội phản: Làm trái ngược, đối lập.

3. Kế hữu thích hợp: Vận dụng kế sách cho hợp lý.

4. Hóa chuyển: Thay đổi, chuyển dịch.

5. Hoàn thuộc: Liên tục giống như chuỗi xích.

6. Phản phúc tương cầu: Xu hướng thống nhất và mâu thuẫn đối lập có sự ràng buộc, yêu cầu lẫn nhau.

7. Nhân sự vị chế: Tùy theo tình hình cụ thể để có cách xử lý thích hợp,

8. Tất nhân sự vật chi hội: Phải hiểu rõ sự phát triển và thay đổi của sự vật.

9. Thiên thời chi nghi: Thời cơ thích hợp.

Nghĩa của “ngỗ” trong từ điển Hán ngữ hiện đại là ngỗ ngược, bướng bỉnh, không hòa thuận. “Hợp” có nghĩa là xu hướng hòa hợp. Quay lưng lại thì là “ngỗ”, mà quay mặt lại thì là “hợp”. Phần “ngỗ hợp” này nói về đạo lý bội phản (làm trái ngược), tiến hành song song với du thuyết cốt đạt được mục đích làm cho đối phương thay đổi. “Ngỗ hợp” trong phần này cùng có thể được thay bằng “phản ngỗ”, do đó có thể thấy “phản” cùng nghĩa với “hợp”, “phản ngỗ” tức là “ngỗ hợp”.

Dịch nghĩa

Mọi chuyện trên thế gian này dù có xu hướng thống nhất hay đối lập thì đều sẽ có mưu kế phù hợp với tình hình đó. Sự vật liên tục thay đổi giống sợi dây xích chuyển động hết vòng này tới vòng khác, song lại có tình thế biến đổi riêng và tình tiết cụ thể cho từng trường hợp. Do đó, mưu thần nên dựa vào tình huống cụ thể để tìm ra mưu lược tốt nhất, đồng thời chế định ra biện pháp thực thi cụ thế đối với từng sự biến đổi và phát triển khác nhau của sự vật, Vậy nên, thánh nhân sống trong trời đất này, dù là đang lập thân xử thế, hay đang kiểm soát thế sự, dù là đang thực thi giáo hóa hay đang mở rộng sức ảnh hưởng, tạo tiếng vang lớn thì đều cần chú trọng tới sự phát triển và biến đổi của sự vật, cần nắm chắc thời cơ thích hợp và cân nhắc kỹ lợi hại để phân tích ra được mặt nào là mặt mạnh của quốc gia, mặt nào là mặt yếu của quốc gia, đồng thời có thể kịp thời điều chỉnh khi có bất cứ sự thay đổi nào để tạo ra được cục diện có lợi nhất cho mình.

Phần này chỉ ra rằng, người thông minh sáng suốt trước hết phải biết khiêm tốn lắng nghe ý kiến quần chúng để có thể thu thập nhiều thông tin nhất có thể, sau đó, cân nhắc lợi hại, đánh giá được mất. Do vận dụng kế này có lợi cho người này mà bất lợi cho người kia nên khó lòng thỏa mãn cả hai bên, bởi vậy, nhất thiết phải suy nghĩ kỹ càng, rồi mới hành động. Hiền tướng thời xưa như Y Doãn nhà Thương, Lã Thương nhà Chu đều phải suy nghĩ, cân nhắc nhiều lần rồi mới đưa ra được biện pháp. Bởi vậy, dù là mưu thần hay thuyết khách đều cần phải “suy nghĩ kỹ trước khi hành động” cần phải tìm cho mình vị trí thích hợp nhất.

Nguyên văn

Thế vô thường quý, sự vô thường sư. (1) Thánh nhân thường vi vô bất vi, sở thính vô bất thính. (2) Thành vu sự nhi hợp vu kế mưu, dữ chi vi chủ. (3) Hợp vu bỉ nhi ly vu thử, kế mưu bất lưỡng trung, (4) tất hữu phản ngỗ. (5) Phản vu thị, ngỗ vu bỉ; ngỗ vu thử, phản vu bỉ. Kỳ thuật dã, dụng chi (6) vu thiên hạ, tất lượng thiên hạ nhi dữ chi; dụng chi vu quốc, tất lượng quốc nhi dữ chi; dụng chi vu gia, tất lượng gia nhi dữ chi; dụng chi vu thân, tất lượng thân tài năng khí thế nhi dữ chi. Đại tiểu tiến thoái, kỳ dụng nhất dã. Tất tiên mưu lự kế định, nhi hậu hành chi dĩ phi kiềm thuật.

Chú thích

1. Thế vô thường quý: Trên thế gian này không có sự vật nào mãi mãi cao quý. Sự vô thường sư: Không có sự vật nào lại có chuẩn tắc giá trị vĩnh viễn.

2. Thường vi vô bất vi: Thường làm những việc người khác không muốn làm. Sở thính vô bất thính: Thường nghe những chuyện mà người khác không muốn nghe. Cả câu có ý nói thánh nhân thường để ý tới những chuyện “vụn vặt” mà người bình thường không để ý tới, nhờ đó mà có được những thông tin có giá trị.

3. Thành vu sự: Làm chuyện cần làm. Hợp vu kế mưu: thực hiện mưu kế đã định. Dữ chi vi chủ: đều là vì vua của mình.

4. Hợp vu bỉ nhi ly vu thử: Hợp với bên này thì đương nhiên mâu thuẫn với bên kia. Kế mưu bất lưỡng trung: Không thể cùng một mưu kế mà làm thỏa mãn được 2 vị vua.

5. Phản ngỗ: “Phản” ở đây là chỉ “hợp”, phản ngỗ tức là “ngỗ hợp”.

6. Dụng chi: Thực thi ở.

Dịch nghĩa

Trên thế gian này không có sự vật nào mãi mãi cao quý, cũng không có sự vật nào lại có phép tắc mang giá trị vĩnh viễn. Thánh nhân thường làm những việc không ai làm, nghe những điều không ai nghe. Làm việc cần làm, thực hiện mưu kế đã định, đều là vì vua của mình. Hợp với lợi ích của bên này thì chắc chắn sẽ gây bất lợi cho bên kia. Cũng chính là nói, một kế không thể cùng một lúc làm thỏa mãn hai vị vua, chắc chắn sẽ làm mất lòng một trong hai người. Nếu làm phản người này thì phải phục tùng người kia, nếu làm phản người kia thi phải phục tùng người này, đây chính là thuật Ngỗ hợp. Khi vận dụng thuật “Ngỗ hợp”, phải đánh giá mọi tình thế để nắm vững toàn bộ cục diện, áp dụng nó cho chư hầu thì phải dựa vào tình hình của đất nước để có biện pháp thực thi phù hợp; áp dụng nó vào việc phong đất cho đại phu thì cần phải đánh giá xem tình trạng đất đai của người này thế nào rồi mới quyết định biện pháp cụ thể; áp dụng nó vào cá nhân thì cần nắm rõ năng lực, trí tuệ, trình độ của người này rồi mới quyết định sử dụng anh ta như thế nào, Dù phạm vi lớn hay nhỏ, dù là kế tấn công hay sách lược rút lui thì vận dụng thuật Ngỗ hợp đều như nhau. Trước hết, cần phân tích, vạch ra mưu kế rồi mới thực thi, bước tiếp theo là dụng thuật Phi kiềm làm biện pháp bổ sung.

Cuộc đời của mỗi người chẳng qua chỉ xảy ra một thoáng chốc trong lịch sử xã hội dài dằng dặc của loài người, “thánh nhân lập thân, cai trị, giáo hóa, tạo tiếng vang trong thiên hạ” cũng chính là “lập công, lập đức, lập nhân”. Vậy nên mưu thần “cần giỏi nắm bắt thời thế, quan sát hiện tượng, biết trước để mà thay đổi”. Có thể thấy rõ ẩn ý của thuật Ngỗ hợp: Nắm vững thời cơ, giữ chặt cơ hội.

Nguyên văn

Cổ chi thiện bội hướng giả, (1) nãi hiệp (2) tứ hải, bao (3) chư hầu, ngỗ hợp chi địa nhi hóa chuyển chi, nhiên hậu dĩ chi cầu hợp. (4) Cố Y Doãn ngũ tựu Thang, Ngũ tựu Kiệt, nhi bất năng hữu sở minh, (5) nhiên hậu hợp vu Thang. Lã Thượng tam tựu Văn Vương, tam nhập Ân, nhi bất năng hữu sở minh, nhiên hậu hợp vu Văn Vương. Thử tri thiên mệnh chi kiềm, (6) cố quy chi bất nghi dã.

Chú thích

1. Thiện bối hướng giả: Người hiểu rõ đạo lý lòng người hướng về hay làm phản.

2. Hiệp: Làm hòa hợp.

3. Bao: Dung nạp, chứa đựng.

4. Ngỗ hợp chi địa, nhi hóa chuyển chi, nhiên hậu dĩ chi cầu hợp: Cả câu có nghĩa là đạt tới giới hạn ngỗ hợp, sau đó tìm cách thay đổi, di chuyển tình thế, sáng tạo nên vương triều mới.

5. Bất năng hữu sở minh: Chưa thể thực hiện được hoài bão, mơ ước.

6. Thiên mệnh chi kiềm: Sự hướng về của thiên mệnh.

Dịch nghĩa

Người “giỏi vận dụng thuật phản ngỗ và am hiểu đạo lý lòng người hướng về hay làm phản” có thể khiến bốn phương thiên hạ hòa hợp, khiến các nước chư hầu đoàn kết, đạt tới giới hạn ngỗ hợp thì tìm cách cảm hóa lòng người, thay đổi tình thế, khiến thiên hạ quy thuận, tìm được vị vua anh minh sáng suốt, lập nên triều đại mới. Bởi vậy, mới có chuyện Y Doãn năm lần thần phục Thương Thang, năm lần thần phục Hạ Kiệt, cuối cùng thuận hợp ở Thương Thang. Lã Thượng ba lần thần phục Chu Văn Vương, ba lần thần phục Ân Trụ Vương mà không thể thực hiện được hoài bão của mình, cuối cùng thuận hợp ở Chu Văn Vương. Hai người họ đều hiểu rõ sự hướng về của thiên mệnh, bởi vậy cuối cùng trung nghĩa, không làm phản, quy thuận minh chủ.

Khi vận dụng thuật Ngỗ hợp cần chú ý những điều sau: Phải có sẵn kiến thức, có khả năng ứng phó linh hoạt trước mọi biến đổi có thể xảy ra, dự đoán phương hướng phát triển của sự vật dựa theo điều kiện chủ quan và khách quan, hơn nữa phải biết dung hòa con người thì mới có thể “giành được quyền trong thiên hạ”. Khi ở vào vị trí chủ động, bất bại trong thế sự rối ren, hỗn loạn thì chính là nói “Kỳ thuật dã, dụng chi vu thiên hạ, tất lượng thiên hạ nhi dữ chi; dụng chi vu quốc, tất lượng quốc nhi dữ chi; dụng chi vu gia, tất lượng gia nhi dữ chi; dụng chi vu thân, tất lượng thân tài năng khí thế nhi dữ chi. Đại tiểu tiến thoái, kỳ dụng nhất dã. Tất tiên mưu lự kế định, nhi hậu hành chi dĩ phi kiềm thuật”.

Nguyên văn

Phi chí thánh (1) đạt áo, (2) bất năng ngự thế; phi lao tâm khổ tứ, bất năng nguyên sự; (3) bất tất tâm kiến tình, (4) bất năng thành danh; tài chất (5) bất huệ, bất năng dụng binh; (6) trung thực vô chân, (7) bất năng tri nhân. Cố ngỗ hợp chi đạo, kỷ tất tự độ tài năng tri nhuệ, lượng trường đoản viễn cận (8) thục bất chi, nãi khả dĩ tiến, nãi khả dĩ thoái, nãi khả dĩ tung, nãi khả dĩ hoành.

Chú thích

1. Chí thánh: Chỉ thánh nhân phi thường.

2. Đạt áo: Đạt tới trình độ uyên bác.

3. Nguyên sự: Hiểu rõ chân tướng sự vật.

4. Tất tâm kiến tình: Nỗ lực hết sức để tìm hiểu sự thực của vấn đề.

5. Tài chất: Tài năng và tố chất.

6. Dụng binh: ở đây là chỉ tiến hành sách lược quân sự.

7. Trung thực vô chân: Trung thực song lại không có kiến thức thực sự.

8. Lượng trường đoản viễn cận: Đánh giá sở trường, sở đoản, cũng như trình độ kiến thức của bản thân.

Dịch nghĩa

Nếu không đạt được trình độ cao siêu của thánh nhân, không am hiểu sâu sắc đạo lý thì không thể chế ngự thiên hạ; nếu không suy nghĩ thấu đáo thì sẽ không thể nhìn nhận ra quy luật của sự vật; nếu không nỗ lực quan sát sự thực của vấn đề thì không thể thực thi thành công; nếu không đủ tài năng và tố chất thì không thể tiến hành sách lược quân sự; nếu trung thực, song lại không có kiến thức thật sự thì không thể là người quan sát thông minh. Bởi vậy, nguyên tắc của thuật Ngỗ hợp là: Trước hết cần đánh giá tài trí, cũng như như sở trường, sở đoản của bản thân, phân tích và so sánh xem mình còn kém ai ở xung quanh, như vậy mới có thể “hoành hành dọc ngang, tiến lùi thoải mái”.

ĐIỂN CỐ MƯU LƯỢC

Tô Tần khích Trương Nghi đến nước Tần

Thuật Ngỗ hợp chính là phương pháp lấy phản cầu hợp, muốn đạt một mục đích nào đó, muốn thực hiện được mong muốn của mình thì cần phải “đi theo lối vòng” “lấy cái này đổi cái kia”, “cho trước nhận sau”. Trong lịch sử, đã có rất nhiều người đạt được mục đích của mình nhờ vận dụng thuật Ngỗ hợp, Tô Tần là một ví dụ điển hình, ông rất giỏi vận dụng thuật Ngỗ hợp, thậm chí còn khiến người bạn đồng học của mình là Trương Nghi “trúng kế”.

Tô Tần và Trương Nghi cùng là học trò của Quỷ Cốc tiên sinh, cùng từ biệt thầy ra đi dưới chân núi. Tô Tần du thuyết Yên Triệu, rất được hai nước này trọng dụng. Khi Tô Tần đang làm tể tướng nước Triệu thì nước Tần tiến đánh nước Ngụy, sau khi chiếm được nước Ngụy, nước Tần lại muốn thôn tính nước Triệu. Trước tình hình này, Tô Tần đã nghĩ ra một kế, muốn để người bạn học của mình là Trương Nghi tới nước Tần thuyết phục vua Tần không đánh nước Triệu nữa. Tuy nhiên, nếu nói thẳng với Trương Nghi thì e rằng Trương Nghi không chịu, thế nên Tô Tần đã vận dụng kế Phản ngỗ.

Tô Tần sai tay chân thân tín của mình là Giả Xá Nhân sau khi đón Trương Nghi về Hàm Đan thì để Trương Nghi tự đi tới phủ tướng quốc. Khi Trương Nghi tới phủ tướng quốc rồi thì người trong phủ lại không để cho anh ta vào. Trương Nghi nghĩ bụng: “Chắc người nhà Tô Tần không biết mình có quan hệ với anh ta nên mới không cho mình vào”. Thế là, ngày hôm sau mang theo danh thiếp tới phủ tướng quốc, tuy nhiên sau khi xem danh thiếp của Trương Nghi xong, người trong phủ vẫn không chịu vào báo với tướng quốc là anh ta đến. Trương Nghi trong lòng rất tức tối, mất mấy ngày liền mà vẫn không gặp được tướng quốc, tới ngày thứ 5, người nhà mới nhận tấm danh thiếp của Trương Nghi, tuy nhiên khi trở ra, người này lại nói rằng đã đưa danh thiếp của Trương Nghi cho tướng quốc, nhưng tướng quốc đang bận, hẹn hôm sau hãy đến. Ngày hôm sau, Trương Nghi lại tới mà không gặp được Tô Tần, Trương Nghi đùng đùng bỏ về. Vài ngày nữa lại qua đi, Trương Nghi đang định tới chào từ biệt tướng quốc thì nhận được lời mời của Tô Tần là ngày mai có thể đến gặp.

Hôm sau, Trương Nghi quần áo chỉnh tề, tới phủ tướng quốc từ sáng sớm, song Trương Nghi phải ngồi chờ rất lâu mới được người nhà Tô Tần dẫn vào phủ bằng cửa bên. Tô Tần ngồi trên đường, Trương Nghi đứng ở phía trước, song người của phủ tướng quốc vẫn không cho anh ta vào gặp Tô Tần, vẫn bảo anh ta phải đợi. Tô Tần tiếp hết lượt khách này đến lượt khách khác mà vẫn chưa gọi Trương Nghi vào. Trương Nghi đứng lâu, chân mỏi rã rời, mới nghe thấy Tô Tần hỏi vọng từ trên đường xuống: “Khách ở đâu tới vậy?”. Trương Nghi giận tím mặt mày, song vẫn cung kính chắp tay cúi chào Tô Tần, tuy nhiên Tô Tần lại ngồi im không đáp lễ, chỉ nói một câu “ăn cơm đã, rồi chuyện sau”. Trương Nghi và Tô Tần mỗi người ngồi ăn ở một bàn, Trương Nghi thấy trên bàn Tô Tần toàn sơn hào hải vị, còn bàn của mình chỉ có cơm canh đạm bạc, Trương Nghi tức nghẹn cổ họng, nuốt không trôi cơm. Tô Tần ăn xong, mới truyền lệnh cho Trương Nghi tới nói chuyện. Trương Nghi không nén nổi cơn giận trong lòng, đã mắng Tô Tần rằng, ngày còn đi học chơi thân với nhau là thế, đi đâu cũng có nhau là thế, vậy mà hôm nay tới thăm Tô Tần lại bị Tô Tần đối xử lạnh nhạt như người dưng nước lã, không ngờ Tô Tần mới có chút quyển lực mà đã huênh hoang, tự đắc như thế. Tô Tần nghe Trương Nghi mắng mình như vậy lại không hề bực tức, chỉ nhẹ nhàng nói: “Tôi từng nói chỉ có anh Trương mới có thể thắng tôi, không ngờ hôm nay anh lại phải tới đây nhờ vả tôi. Cần tôi tiến cử không phải chuyện khó, song chỉ sợ anh không làm nổi thì tôi còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ nữa. Anh đừng trách tôi”. Trương Nghi quát to: “Đại trượng phu cần gì người tiến cử, tôi có thể tự làm được việc của mình”. Tô Tần nói: “Vậy thì tốt, tôi xin tặng anh chút tiền bạc này, xin cứ tự nhiên”.

Trương Nghi phủi ông tay áo ra về, trong lòng vô cùng tức giận. Trên đường về nhà trọ, vừa hay gặp Giả Xá Nhân, thế là Trương Nghi kể hết mọi bực tức trong lòng cho Giả Xá Nhân nghe. Giả Xá Nhân nói rằng mình cũng đang có việc tới nước Tần, và hỏi Trương Nghi có muốn đi cùng với anh ta sang Tần lập nghiệp không, thế là Trương Nghi đồng ý đi cùng Giả Xá Nhân. Trên đường đi, Giả Xá Nhân quan tâm chăm sóc Trương Nghi rất chu đáo, còn lấy tiền bạc của mình ra cho Trương Nghi tiêu xài. Tới nước Tần, Giả Xá Nhân còn cho Trương Nghi tiền vàng để hối lộ tay chân Tần Vương với mục đích nhờ họ giới thiệu lên Tần Vương.

Nhờ sự giúp đỡ của Giả Xá Nhân và nhờ vào trí tuệ mưu lược của mình mà Trương Nghi đã có được vị trí ở nước Tần, rất được vua Tần trọng dụng, và được phong làm khách khanh. Lúc này, Giả Xá Nhân kiếm cớ về nước, tới chào từ biệt Trương Nghi. Trương Nghi tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới ân nhân của mình. Nhưng Giả Xá Nhân lại nói: “Tiên sinh đừng cám ơn tôi, ngài nên cám ơn Tô Tần tiên sinh”. Thấy Trương Nghi ngạc nhiên, Giả Xá Nhân bèn Chú thích: “Tất cả đều là do Tô Tần tiên sinh sắp xếp. Tô Tần hi vọng rằng, sau khi tiên sinh có quyền có thế ở nước Tần thì có thể ngăn nước Tần tiến đánh nước Triệu”. Trương Nghi xấu hổ đỏ mặt nói: “Tôi đã trách oan Tô Tần rồi. Nhưng đúng là tôi đã mắc mưu của Tô Tần mà không biết, thật đáng hổ thẹn. Tô Tần là tướng quốc của nước Triệu thì làm sao tôi lai có thể bảo vua Tần tấn công nước Triệu được chứ?”.

Sau đó, Trương Nghi phân tích tình thế, nói ra cái lợi và hại khiến vua Tần không tiến đánh nước Triệu nữa. Tô Tần giỏi vận dụng kế Phản ngỗ nên đã đạt được mục đích của mình.

Trương Lương giỏi đối nhân xử thế, thấy được cái hại trong cái lợi

Thuật Ngỗ hợp chính là nói tới mưu lược “ứng biến linh hoạt” Quỷ Cốc Tiên sinh cho rằng, trên thế gian này không có sự vật nào cao quý mãi, cũng không có ai nắm giữ quyền lực mãi. Thánh nhân nên “làm những việc không ai làm”, “nghe những điều không ai nghe”, vạch sách lược cần tùy thuộc vào từng tình huống cụ thể. Sự việc thường có chính tất có phản, có thuận tất có nghịch, có lợi tất có hại, có thẳng tất có cong. Nhà chính trị cần giỏi thấy thẳng trong cong, thấy cong trong thẳng, thấy hại trong lợi, thấy lợi trong hại. Sở dĩ Trương Lương vào đầu thời Tây Hán có thể giúp Lưu Bang diệt Tần trừ Sở và lập nên nhiều chiến công hiển hách, là vì ông hiểu rõ đạo lý “phúc cực họa lai” (trong phúc có họa), cũng chính là nói Trương Lương giỏi thấy cái cong trong cái thẳng, cái hại trong cái lợi.

Trương Lương

Trương Lương tự Tử Phòng, là một trong “tam kiệt” đầu thời Hán. Ông vốn xuất thân từ dòng dõi sĩ tộc nước Hàn thời Chiến Quốc. Sau khi Tần diệt Hàn, ông tìm cách giúp nhà Hàn phục thù, kết giao thích khách để hành thích Tần Thủy Hoàng nhưng không thành, ông chạy trốn tới Hạ Phì. Trong chiến tranh nông dân cuối thời Tần, ông đã đầu quân cho Lưu Bang, không lâu sau thì thuyết phục Hạng Lương lập dòng dõi sĩ tộc Hàn làm Hàn vương, còn ông làm Hàn tư đồ. Sau này Hàn Vương Thành bị Hạng Vũ giết hại, ông lại chạy tới đầu quân cho Lưu Bang và trở thành mưu sĩ quan trọng của Lưu Bang. Nhà Hán được lập nên, ông được phong làm Lưu Hầu.

Trương Lương là một nhân vật rất khác thường vào thời cuối Tần đầu Hán. Sự khác thường của ông thể hiện ở bốn điểm: Thứ nhất, ông dùng toàn bộ gia sản của mình để thuê người làm thích khách ám sát Tần Thủy Hoàng báo thù cho nhà Hán. Mặc dù không thành công, song sự dũng cảm và nghị lực của ông đã khiến mọi người phải khâm phục. Thứ hai, ông có mối duyên tình cờ với binh pháp nên đã được học binh pháp. Thứ ba, ông là người túc trí đa mưu, giúp Lưu Bang chiến thắng Hạng Vũ và trở thành công thần khai quốc của Tây Hán. Thứ tư, là người ngay thẳng, không tham danh lợi.

Hán Cao Tổ sau khi lên ngôi đã khen thưởng cho hơn hai mươi công thần trong triều đình, những tướng lĩnh không được khen thưởng đã tụ tập nhau lại bàn tán không ngớt, ngày nào trong triều đình cũng có vài ba nhóm người chụm đầu thầm thì bí mật. Lưu Bang rất ngạc nhiên trước sự việc này đã hỏi Trương Lương xem nên làm thế nào? Trương Lương khuyên Lưu Bang nên khen thưởng tướng lĩnh Ung Xỉ vừa có công nhưng cũng hay đố kỵ, quả nhiên sau khi khen thưởng cho Ung Xỉ thì không còn tình trạng này nữa, ai ai cũng vui vẻ. Trương Lương thực thi kế nhỏ, không chỉ giúp Lưu Bang khen thưởng đúng người cần khen thưởng, mà còn thu phục được lòng người, ổn định chính cục. Do Trương Lương có nhiều cống hiến đối với đất nước nên Hán Cao Tổ đã cho ông được tự ý chọn lấy ba vạn hộ thuộc vùng lãnh thổ nước Tề, Trương Lương cảm tạ Hán Cao Tổ vì đã trọng thưởng ông, nhưng chỉ xin được chọn huyện Lưu với một vạn hộ và làm Lưu hầu ở đó. Trương Lương hiểu rõ bất cứ giai cấp thống trị tối cao thuộc triều đình phong kiến nào đều chứa đầy sự đố kỵ, kèn cựa lẫn nhau, nếu không thận trọng dễ mất mạng như chơi. Do đó, khi thiên hạ đã định, ông xin từ quan về luyện công phu, học Tịch cốc (phép tu luyện của đạo sĩ), muốn dần dần thoát khỏi bụi trần cho tâm hồn thanh thản.

Lần cuối cùng Lưu hầu bị ép dùng kế là để thỉnh cầu “Thương Sơn tứ hạo” vào triều giúp con trai Lã Hậu là Lưu Ích lên làm thái tử, sau đó ông không bao giờ tham gia chính sự nữa. Ngoài tu hành dưỡng đạo, ông còn chuyên tâm nghiêm cứu binh pháp cổ đại. Những cuốn binh thư truyền tới thế hệ sau như “Kỳ môn độn giáp”, “Thái Công binh pháp” đều được ông nghiên cứu và bổ sung hoàn thiện.

Có thể thấy được rằng, cả cuộc đời Trương Lương đều là hiến kế giúp Lưu Bang, ông cũng tự nghĩ kế giúp mình bảo toàn tính mạng và thoát khỏi bụi trần, tất cả những sự việc này đều ẩn chứa một chữ “nhẫn”, đúng như Tô Thức đã nói:

Sở dĩ Cao Tổ thắng, sở dĩ Hạng Tịch thua đều liên quan tới “nhẫn” và “không thể nhẫn”. Hạng Tịch không thể nhẫn, chỉ muốn bách chiến bách thắng nên tùy tiện tiến công; Cao Tổ nhẫn nhịn biết chờ đợi thời cơ mới đánh, là nhờ có công của Tử Phòng (Trương Lương).

Nhìn vào những thành công vang dội của Trương Lương, mọi người đều sẽ cho rằng ông là một đại trượng phu tướng mạo uy nghiêm, phong thái hơn người, song kỳ thực ông lại có ngoại hình của một bậc công tử thư sinh. Khi cơn giận dữ bùng lên, ông có thể gây chấn động bốn biển, tỏ rõ sự uy nghiêm của mình; khi nhàn rỗi, ông có thể nhẫn nại cung kính lắng nghe lời nói của những lão già gian trá, xảo quyệt; lúc “rồng tranh hổ đấu”, ông đã nghĩ ra rất nhiều mưu kế trợ giúp minh quân; khi công thành danh toại, ông lại khôn ngoan rút khỏi bụi trần. E rằng, trong lịch sử chỉ có một vị quan như vậy, người đó không ai khác là Tử Phòng.

Phù điêu Lưu Bang

Theo “Sử ký”, Lưu Bang vốn chỉ là một kẻ lưu manh, song nhờ có tài tụ tập dân chúng đứng lên khởi nghĩa nhân lúc thời thế loạn lạc nên đã thành công, giành được thiên hạ và trở thành vị hoàng để đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc xuất thân từ tầng lớp hạ lưu. Tây sở Bá Vương Hạng Vũ uy danh lừng lẫy là thế mà cuối cùng cũng bị thất bại trước ông, các anh hùng hào kiện như Hàn Tín, Bành Việt, Anh Bố đã giúp Lưu Bang rất nhiều trong việc lập nên nhà Hán, song sau khi thành công, họ lại lần lượt bị giết hại bởi chính tay Lưu Bang.

Tô Tần tìm cành để đậu

Trong phần “Quỷ Cốc Tử - Ngỗ hợp” có nói: “cổ chi thiện bối hướng giả, nãi hiệp tứ hải, bao chư hầu, ngỗ hợp chi địa, nhi hóa chuyển chi, nhiên hậu dĩ chi cầu hợp. Cố Y Doãn ngũ tựu Thang, ngũ tựu Kiệt, nhi bất năng hữu sở minh, nhiên hậu hợp vu Thang. Lã Thượng tam tựu Văn Vương, tam nhập Ân, nhi bất năng hữu sở minh, nhiên hậu hợp vu Văn Vương. Thủ tri thiên mệnh chi kiềm, cố quy chi bất nghi dã”

Nhà tung hoành Tô Tần thời Chiến Quốc là một người nổi tiếng nhờ Hợp tung chống Tần, song mới đầu ông là người chủ trương Liên hoành (khi đó, sáu nước Tề, Sở, Yên, Triệu Hàn, Ngụy liên kết nhau lại chống Tần, gọi là Hợp tung; còn Tần liên kết với các nước khác như Tề, Sở tiến đánh nước khác thì bị gọi là Liên hoành).

Tô Tần mới đầu muốn gặp Chu Thiên Tử, tuy nhiên, cận thần của Chu Thiên Tử lại coi thường ông nên không cho vào gặp. Tô Tần đành phải thay đổi ý định, tới nước Tần cầu kiến Tần Huệ Văn Vương. Tô Tần phân tích thấy thiên hạ đang trong thời kỳ loạn lạc, ai cũng muốn lên làm bá chủ, tuy nhiên, không nước nào có thể mạnh bằng nước Tần, nếu có thể liên kết 1, 2 nước lại với nhau, rồi lần lượt tiến đánh các nước khác thì có thể giúp Tần Vương hoàn thành nghiệp đế vương. Do đó, nếu được vua Tần trọng dụng thì cả đời sẽ có thể làm quan to, hưởng bổng lộc giàu sang phú quý. Suy nghĩ như vậy nên Tô Tần quyết định tới nước Tần.

Mùa đông năm đó, tuyết rơi dày đặc, Tô Tần mặc một chiếc áo da chồn màu đen mới mua, vai khoác hành lý gọn nhẹ, chào tạm biệt bố mẹ và vợ con lên đường sang nước Tần. Ông đi suốt một ngày đêm không nghỉ thì tới kinh đô nước Tần, sau khi ăn uống xong xuôi, Tô Tần vội vàng tới cầu kiến Tần Huệ Văn Vương. Tần Huệ Vàn Vương nể mặt ông, cho ông vào gặp.

Tô Tần thẳng thắn nói ra chủ trương của mình với nhà vua, song đáng tiếc là nhà vua lại tỏ vẻ dửng dưng như không, bởi vì vua Tần không ưa gì người du thuyết, trước đó không lâu vua Tần mới giết chết du thuyết gia Thương Ưởng, nhà vua cho rằng Tô Tần cũng chỉ giống như Thương Ưởng mà thôi, mọi kẻ du thuyết chỉ nói ba hoa khoác lác chứ chẳng làm nên trò trống gì. Trước lời khuyên thẳng thắn của Tô Tần, vua Tần chỉ trả lời: “Tiên sinh nói rất hay, song để quả nhân về suy nghĩ xem sao”.

Tô Tần đành phải quay về nhà trọ, chờ đợi hồi âm từ Tần Huệ Văn Vương, song nhiều ngày sau vẫn không thấy nhà vua cho triệu kiến Tô Tần, thế là Tô Tần bèn viết một bức thư xin được hiến mười kế, tuy nhiên thư gửi lên nhà vua rồi mà vẫn chẳng nhận được bất cứ sự hồi âm nào. Lúc này, ông lâm vào tình trạng khó khăn, quần áo rách nát, tiền tiêu hết, đành phải từ bỏ nước Tần thất thểu trở về nhà với đôi dép cỏ rách.

Sau lần đó, Tô Tần không tới thăm bạn bè, không tiếp khách khứa, chỉ đóng cửa đọc sách, ông lật tung mấy chục hòm sách tìm được cuốn chuyên giảng về mưu lược có tên “Thái Công âm phù”, chợt nhớ Quỷ Cốc tiên sinh có nói nếu đọc kỹ cuốn sách này thì vô cùng có ích. Thế là, từ hôm đó, ông ngày đêm đọc sách không nghỉ, cốt tìm ra hàm nghĩa sâu xa ẩn chứa trong cuốn sách, có đêm buồn ngủ quá, ông đã tự cầm dùi đâm vào đùi máu chảy khắp chân để cho tỉnh ngủ. Một năm sau, ông tự thấy rằng mình đã nắm vững toàn bộ mưu kế của Thái Công nên vô cùng tự tin nói: “Ta đã có kiến thức uyên thâm như thế, lần này nhất định sẽ thuyết phục được các bậc vua anh minh”

Thương Ưởng

Thương Ưởng là nhà tư tưởng, nhà chính trị thời Chiến Quốc, là nhân vật tiêu biểu của Pháp gia. Ông là hậu duệ của vua nước Vệ, họ Công Tôn, nên được gọi là Vệ Ưởng, hay Công Tôn Ưởng, sau này được phong đất Thương, và được mọi người gọi là Thương Ưởng. Ông thâu tóm quyền lực nhà Tần trong 19 năm, lịch sự gọi đó là Thương Ưởng biến pháp, tuy nhiên ông dùng hình phạt quá nặng gây nhiều thù oán mà ít ân đức, bị giới quý tộc nước Tần ghét bỏ, sau này ông đã phải chịu nhận hình phạt “xe kéo phanh thây”.

Sau lần thuyết phục vua Tần thất bại, Tô Tần quyết định thay đổi chiến lược du thuyết, từ chỗ chủ trương giúp nước Tần thôn tính thiên hạ, nay chuyển sang liên kết các nước chống Tần. Thế là ông hạ quyết tâm thuyết phục vua các nước liên minh nhau lại để cô lập Tần. Trước tiên, ông tới nước Triệu, vua nước Triệu khi đó là Triệu Túc hầu, em trai là công tử Thành làm tướng quốc, gọi là Tần Dương Quân. Tô Tần trước tiên tới du thuyết Tần Dương Quân, tuy nhiên Tần Dương Quân không nghe, thế là Tần bèn bỏ Triệu sang Yên.

Khi tới nước Yên, Tô Tần không có cơ hội yết kiến Yên Văn Hầu, ông bèn kết giao bạn bè, thiết lập các mối quan hệ trong xã hội, hơn một năm sau, ông mới có dịp bái kiến Yên Văn Hầu. Ông nói với Yên Văn Hầu: “Quý quốc là nơi Thiên phủ, không có họa chiến tranh, dân chúng an cư lập nghiệp, làm gì có đất nước nào được hòa bình như nước Yên. Tuy nhiên, đại vương có biết vì sao nước Yên không bị nước Tần hùng mạnh ở phía Tây xâm chiếm không?”

Yên Văn Vương thành thật thừa nhận: “Quả nhân không biết”.

“Đó là vì nước Yên có nước Triệu che chắn ở giữa, đại vương thử nghĩ xem, làm sao nước Tần dám vượt hàng nghìn dặm, băng qua nước Triệu để tấn công nước Yên. Tuy nhiên, nước Triệu mà tiến đánh nước Yên thì dễ không gì bằng. Chỉ cần vua Triệu hạ lệnh thì hàng vài chục vạn quân Triệu sẽ ồ ạt băng qua sông Hô Đà, vượt qua sông Dịch Thủy, chỉ mất 4, 5 ngày là có thể tới được kinh đô nước Yên. Do đó, thần mong đại vương kết giao với vua Triệu, rồi lại tiếp tục kết giao với các nước khác ở trung nguyên cùng chống lại nước Tần, như vậy, chẳng phải nước Yên có thể kê gối cao mà ngủ kỹ sao?”.

Yên Văn Hầu nghe xong mừng rỡ nói: “Chủ ý của tiên sinh quả là rất hay. Quả nhân biết nước Yên nhỏ bé, yếu ớt, nếu kết giao với nước Triệu phía Tây, nước Tề phía Nam thì còn gì bằng. Tề và Triệu đều là hai nước mạnh. Tiên sinh muốn dùng kế Hợp tung để làm yên nước Yên, đó cũng là mong muốn của quả nhân”

Sau khi cáo từ Yên Văn Hầu, Tô Tần lại tới nước Triệu, phải mất mười mấy ngày đêm ông mới tới được kinh thành nước Triệu. Bấy giờ Tần Dương Quân đã mất, Triệu Túc hầu nghe nói có sứ giả của nước Yên tới thì đích thân ra đón, còn cung kính thỉnh giáo Tô Tần: “Thượng khách hạ cố đến đây, có điều gì dạy bảo quả nhân”.

Tô Tần nói luôn vào vấn đề chính: “Hiện nay, các nước đang tiến đánh lẫn nhau để tranh giành quyền lực, muốn đất nước yên bình, dân chúng an cư lập nghiệp thì chỉ còn cách liên minh nhau lại, còn không hậu họa khó lường. Đại vương có giận thì thần cũng vẫn xin được nói thẳng, chính sách ngoại giao của nước Triệu hiện tại không hợp lý, nước Triệu không nên nhượng bộ nước Tần”.

Triệu Túc Hầu thở dài nói: “Nước Tần quá mạnh, nước Triệu không thể làm gì khác”.

Tô Tần nói: “Đương nhiên nếu chỉ dựa vào một mình nước Triệu không thôi thì không thể đánh thắng nước Tần. Thần đã nghĩ kỹ rồi, đất đai của các nước trung nguyên cộng lại lớn gấp 5 lần so với nước Tần, binh sĩ cộng lại nhiều gấp hơn 10 lần nước Tần, nếu các nước liên kết nhau lại cùng hợp sức đánh Tần thì chắc chắn nước Tần sẽ phải thua. Tuy nhiên, những người chủ trương Liên hoành đều muốn các nước cắt đất của mình đem tặng nước Tần với mong muốn được êm ấm. Song họ lại quên rằng, làm như vậy sẽ khiến nước Tần đã mạnh lại càng mạnh, còn nguy cơ các nước lần lượt bị nước Tần thôn tính sẽ càng ngày càng lớn. Theo ý thần thì 6 nước nên liên minh nhau lại để chống Tần, nếu Tần đánh nước nào thì 5 nước còn lại sẽ tới cứu. Như vậy, nước Tần sẽ bị cô lập, nhất định sẽ không dám tùy tiện tiến đánh các nước trung nguyên”.

Triệu Túc Hầu cũng hoàn toàn tán thành chủ trương Hợp tung chống Tần của Tô Tần, thế là cấp cho Tô Tần 100 cỗ xe ngựa, 20 nghìn lạc vàng, 100 đôi ngọc bích, một ngàn súc lụa để ông tiếp tục tới du thuyết chư hầu các nước khác.

Tô Tần từ biệt Triệu Túc Hầu, lần lượt tới bái kiến Hàn Tuyên Vương, Ngụy Tương Vương, Tề Tuyên Vương, Sở Uy Vương, cũng nói rõ mối nguy lại nếu cứ tiếp tục cắt đất cho nước Tần và ích lợi nếu liên kết nhau lại chống Tần, chủ trương của ông đều được bốn vị vua này tán thành. Do đó, Tô Tần đã hoàn thành mục tiêu Hợp tung liên minh của mình. Không lâu sau đó, dưới sự sắp xếp của Tô Tần, chư hầu sáu nước đã có cuộc hẹn gặp tại sông Hằng Thủy ở nước Triệu, chính thức ký kết Minh ước Hợp tung chống Tần, hơn nữa còn cử Tô Tần làm “Tung ước trưởng” và giao ấn tướng sáu nước cho Tô Tần giữ.

Tô Tần trở về nước Triệu, Triệu Túc Hầu phong cho ông làm Võ An Quân. Tô Tần còn không quên trả nợ mối thù bị Tần Vương khinh thường năm đó, đã sai người sao một bản Minh ước Hợp tung gửi cho vua Tần. Quả nhiên, trong suốt một thời gian dài, quân Tần không dám tùy tiện tiến đánh bất cứ nước nào. Tô Tần đã thực hiện được ý nguyện của mình, do đó cảm thấy rất hài lòng.

Mưu thần tài giỏi phải biết phán đoán tình thế và dựa vào tình hình cụ thể để chọn ra quân chủ phù hợp với bản thân, có như vậy mới xây dựng thành công sự nghiệp. Sau khi du thuyết Chu Vương và Tần Vương thất bại, Tô Tần đã chuyển hướng sang Yên Vương, và đã thành công, hơn nữa còn thiết lập nên liên minh sáu nước chống Tần, Có thể nói, Tô Tần có được thành công như vậy là nhờ giỏi vận dụng triệt để thuật Ngỗ hợp.

Thúc Tôn Thông chứng tỏ vai trò của Nho sinh

“Xu hợp” và “bội phản” tồn tại rộng khắp trên thế gian này, cần vận dụng các biện pháp khác nhau tùy thuộc vào từng sự việc cụ thể, hơn nữa cũng nên có biện pháp cụ thể tùy thuộc vào từng giai đoạn khác nhau của sự vật. Đôi khi “xu hợp” và “bội phản” chuyển hóa lẫn nhau, người thông minh sáng suốt nên hiểu rõ quy luật này, nắm vững đạo Phản ngỗ, hoặc hợp cái này phản cái kia, hoặc phản cái này hợp cái kia. Thuật Phản ngỗ có thể áp dụng cho mọi trường hợp dù là phạm vi lớn như xây dựng cơ đồ hay phạm vi nhỏ như quan hệ giao tiếp.

Thúc Tôn Thông đã có những cống hiến to lớn đối với chính trị phong kiến và văn hóa nhân loại.

Thúc Tôn Thông là một nhân tài văn học được Tần Thủy Hoàng triệu tập vào cung giúp nhà vua xây dựng đất nước. Sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng cho mời tất cả nhân tài văn hóa khắp mọi miền đất nước tới Hàm Dương để thành lập nên Trí nang đoàn (tương đương với các cố vấn của nguyên thủ quốc gia thời hiện đại). Khi Tần Thủy Hoàng đốt sách và chôn nho gia thì đa số thành viên trong Trí nang đoàn bị sát hại, Thúc Tôn Thông đã may mắn thoát khỏi kiếp nạn này. Sách sử không nói tới nguyên nhân khiến ông thoát chết, tuy nhiên qua cuốn sách này chúng ta có thể thấy, ông khác với những Nho sinh khác; Ngoài ra, ông may mắn thoát chết cũng có thể một phần là do số mệnh chưa bắt ông phải chết.

Sau khi Tần Nhị Thế lên ngôi, Trần Thắng và Ngô Quảng tạo phản, Tần Nhị Thế Hồ Hợi triệu tập hơn 30 bác sĩ tới hỏi: “Nghe nói có người tạo phản đúng không?” Trong khi các vị bác sĩ khác trả lời là “phải” và đua nhau hiến kế thì Thúc Tôn Thông lại nói: “Chẳng qua chỉ là mấy tên trộm vặt. Quận thủ đang bắt chúng, không có gì phải lo lắng cả”. Tần Nhị Thế nghe vậy rất vui mừng bèn hạ lệnh phạt những bác sĩ “tung tin đồn nhảm”, còn ban thưởng hậu hĩnh cho Thúc Tôn Thông. Các bác sĩ về tới nơi ở đã trách hỏi Thúc Tôn Thông: “Sao tiên sinh lại có thể nói những lời trái với lương tâm như vậy chứ?” Thúc Tôn Thông nói: “Các vị không biết đấy thôi, tôi vừa thoát khỏi miệng hùm đấy!”

Tự biết không có hy vọng gì ở Tần Vương triều, Thúc Tôn Thông đã âm thầm rời bỏ kinh đô Hàm Dương tới nơi khác lập nghiệp.

Sau này, Thúc Tôn Thông tới xin được làm việc dưới trướng Lưu Bang. Lưu Bang vốn chẳng ưa gì các Nho sinh, thậm chí có lần còn tiểu tiện vào mũ Nho sinh để hạ nhục họ. Ngày Thúc Tôn Thông mới tới, đến cơm ông cũng không dám ăn no, ai mắng gì cũng không dám cãi. Lưu Bang thấy Thúc Tôn Thông mặc quần áo Nho gia thì rất bực mình, Thúc Tôn Thông bèn thay quần áo nước Sở thì Lưu Bang mới nở nụ cười trên nét mặt.

Lưu Bang

Lưu Bang thời trẻ chơi bời lêu lổng, khinh ghét Nho sinh. Sau khi xưng đế, ông cho rằng mình sắp có được thiên hạ, nên tỏ ra khinh thường “Thi”, “Thư”. Lục Giả nói: “Đánh nhau để có được thiên hạ, chẳng nhẽ cũng đánh nhau để trị vì thiên hạ sao?” Nghe vậy, Lưu Bang lập tức lệnh cho Lục Giả tìm hiểu nguyên nhân khiến nhà Tần mất nước và viết thành sách để lấy đó mà học tập. Ông còn lệnh cho Tiêu Hà chế định lại luật lệ, chính là cuốn “Hán luật cửu chương”.

Tới xin làm việc dưới trướng Lưu Bang cùng Thúc Tôn Thông còn có hơn 100 đệ tử của ông. Thấy Thúc Tôn Thông chỉ chọn những người khỏe mạnh hành nghề trộm cắp giới thiệu lên Lưu Bang thì các đệ tử oán trách nói: “Theo tiên sinh đã nhiều năm như vậy mà lại không tiến cử chúng tôi, một mực chỉ tiến cử những kẻ trộm cắp, như vậy là vì lý do gì cơ chứ?” Thúc Tôn Thông trả lời: “Hán Vương liều chết giành được thiên hạ, các ngươi sức yếu, trói gà không chặt thì có đánh nhau được không? Có biết đánh nhau không? Hiệu tại, Hán Vương còn đang coi thường Nho sinh, mọi người phải kiên nhẫn chờ đợi thời cơ tới”.

Năm 201 TCN, sau khi Lưu Bang thống nhất thiên hạ, đã phong thưởng công lao cho hơn hai mươi võ tướng, những người không được khen thưởng thì bực tức, bàn tán xôn xao. Ngồi trên lầu cao, Lưu Bang thấy các quan văn bá võ từ lớn tới bé đều đang khua tay múa chân, thì thầm to nhỏ, bèn hỏi Trương Lương: “Họ đang tranh luận gì thế?” Trương Lương nói: “Bệ hạ không biết sao? Họ đang bàn nhau làm phản”. Lưu Bang ngạc nhiên hỏi: “Thiên hạ đang thanh bình, vì sao còn muốn làm phản?”. Trương Lương nói: “Những người được khen thưởng đều là người thân của bệ hạ, còn những người đang tranh luận dưới kia đều không được khen thưởng, họ không phục, hơn nữa còn lo sợ bệ hạ tìm cách trừ khử họ nên muốn tụ nhau lại làm phản”. Lưu Bang hỏi: “Vậy nên làm thế nào?”. Trương Lương trả lời: “Chọn ra một người mà bình thường bệ hạ không ưa nhất mà ai cũng biết để khen thưởng cho anh ta thì mọi người sẽ yên tâm, không tranh luận nữa”. Lưu Bang bèn làm theo lời khuyên của Trương Lương, chọn ra tướng lĩnh có công lao lớn, song lại bị ông ghét bỏ nhất là Ung xỉ để khen thưởng, quả nhiên, không còn tình trạng bàn tán xôn xao trong triều đình nữa.

Tuy việc khen thưởng đã được giải quyết êm xuôi, song trật tự trong triều đình hỗn loạn, các đại thần uống rượu say nói năng bừa bãi, thậm chí ẩu đả lẫn nhau, không ra thể thông gì. Lưu Bang lấy làm lo lắng trước tình trạng này.

Thúc Tôn Thông thấy thời cơ đã tới, bèn xin gặp Lưu Bang hiến quy tắc lễ nghi triều đình, Lưu Bang nghiêm giọng nói: “Ta sắp có được thiên hạ rồi, bọn Nho sinh các ngươi chỉ biết đọc sách chứ làm được trò trống gì?”. Thúc Tôn Thông không hề rụt rè, sợ hãi như trước đây nữa mà hỏi vặn lại Lưu Bang: “Đánh nhau để có được thiên hạ, chẳng nhẽ cũng đánh nhau để trị vì thiên hạ sao?”. Lưu Bang thấy có lý, bèn hỏi Thúc Tôn Thông nên làm thế nào. Thúc Tôn Thông đưa ra kế hoạch chế định lễ nghi trong triều đình. Lưu Bang đồng ý và lệnh cho Thúc Tôn Thông thực thi.

Dưới sự giúp đỡ của Lưu Bang, Thúc Tôn Thông thu thập các lễ nghi triều đình thời cổ và mời vài chục Nho sinh đến kinh thành trợ giúp. Trải qua hơn một tháng thảo luận, nghiên cứu và diễn tập, nhóm Thúc Tôn Thông đã đưa ra bản lễ nghi triều đình hoàn chỉnh. Sau khi xem xét, Lưu Bang rất vừa ý, ra lệnh cho quần thần diễn tập. Vừa lúc đầu năm, cung Trường Lạc mới xây dựng xong, trăm quan và các chư hầu đến chúc tụng, Lưu Bang nhân cơ hội này chính thức ban bố Lễ nghi triều đình mới do nhóm Thúc Tôn Thông lập ra.

Lễ nghi triều đình được xác lập, những hành vi tranh giành, ẩu đả lẫn nhau không còn xảy ra nữa, khiến Lưu Bang rất thỏa mãn. Thúc Tôn Thông được thăng lên chức Phụng thường trong hàng cửu khanh, nắm quyền đứng đầu về hành chính và được ban thưởng rất hậu hĩnh. Những Nho sinh theo ông từ ngày đầu cũng lần lượt được khen thưởng.

Lễ nghi triều đình của Thúc Tôn Thông được mọi triều đại đời sau áp đụng suốt hai ngàn năm, đến cuối nhà Thanh mới kết thúc, có thể nói ông có sức ảnh hưởng to lớn đối với văn hóa và nghi lễ phong kiến.

Thúc Tôn Thông rất giỏi vận dụng thuật Ngỗ hợp, ông không hề ngu trung với Tần Nhị Thế “không biết lẽ phải”, mà lại sáng suốt tìm ra minh chủ để đi theo - đầu hàng Lưu Bang và xin được làm việc dưới trướng Lưu Bang. Khi trò chuyện với Lưu Bang, ông cũng đã sử dụng thuật Ngỗ hợp một cách hiệu quả, trước hết lấy lòng Lưu Bang để tạo tình cảm tốt đẹp với Lưu Bang, cũng chính là tự bảo vệ mình, rồi từ đó chờ đợi thời cơ tới, cuối cùng ông đã tìm ra cơ hội cho mình khi thấy triều chính rối ren, không có trật tự trước sau. Ông đã làm trái với suy nghĩ của Lưu Bang để cuối cùng làm Lưu Bang thay đổi thái độ nhờ vào những Lễ nghi mà mình đặt ra.

Lỗ Túc cân nhắc nhiều lần chọn minh chủ

Quỷ Cốc Tử cho rằng, mưu thần nên tùy thuộc vào sự vật và đối tượng cụ thể để tìm ra biện pháp phù hợp. Thực sự cầu thị, ứng phó linh hoạt, phản phục tương cầu, nhân sự vi chế, tất cả đều chính là nói “cần suy nghĩ thấu đáo, so sánh kỹ lưỡng để tìm ra vị trí thích hợp với mình”.

Lỗ Túc, tự là Tử Kính, người Đông Thành, Lâm Hoài. Lỗ Túc sinh ra trong một gia đình khá giả. Cha ông mất ngay từ khi ông mới chào đời chưa được bao lâu, ông ở với bà ngoại. Bà ông thấy ông thông minh lanh lợi nên rất yêu quý, thường hay kể chuyện cho ông nghe. Lỗ Túc thích nghe nhất là những câu chuyện về anh hùng hào kiệt thời cổ đại.

Do không được cha dạy dỗ nên Lỗ Túc tỏ ra bướng bỉnh, ngang tàng ngay từ nhỏ. Tới năm 17, 18 tuổi, Lỗ Túc đã trở thành một tay hảo hán đầu đội trời chân đạp đất. Lỗ Túc tìm thầy giỏi học kiếm thuật, học cưỡi ngựa, bắn cung, tập hợp được hơn 100 thanh thiếu niên, cho họ quần áo, nuôi ăn, rồi thường xuyên đưa họ tới Nam Sơn săn bắn, coi những con mãnh thú như hổ, báo, sói là kẻ thù để vây bắt, những cuộc săn bắt mãnh thú này chẳng khác gì những buổi diễn tập theo mệnh lệnh trong nhà binh. Để chuẩn bị cho sự nghiệp sau này, Lỗ Túc còn chăm chỉ học về chính trị, quân sự, kinh tế, lịch sử, văn học, đặc biệt, ông rất thích nghiên cứu “Binh pháp Tôn Tử”.

Mặc dù những người hào kiệt như Lỗ Túc có tài năng phi thường và ảnh hưởng nhất định, song họ lại không có địa vị cao trong xã hội, không thể đứng lên xưng hùng xưng bá. Do vậy, lựa chọn bậc quân chủ sáng suốt để phục vụ là vấn đề then chốt quyết định việc họ có thực hiện thành công lý tưởng và phát huy triệt để tài năng của mình hay không.

Người có thể lực mạnh mẽ thời đó là Viên Thuật nghe nói về danh tiếng của Lỗ Túc thì phái người đi mời Lỗ Túc về làm huyện trưởng huyện Đông Thành. Lỗ Túc thấy Viên Thuật làm việc bừa bãi, không theo nguyên tắc gì, hơn nữa tính tình hẹp hòi, tầm mắt hạn hẹp, nên đã cho rằng không đáng để mình tới làm việc, bèn kiên quyết từ chối, song vẫn không quên gửi lời cám ơn tới Viên Thuật. Sau đó, Lỗ Túc đã đưa toàn bộ gia đình, cùng hơn 300 thanh thiếu niên nguyện theo ông học võ nghệ, tới huyện Cự Sào đầu quân cho Chu Du.

Chu Du tới đầu quân cho Tôn Sách, Lỗ Túc cũng đi theo, cả nhà ông sống ở Khúc A. Vào ngày bà mất, Lỗ Túc quay về Đông Thành làm tang lễ. Lúc này, một người bạn rất thân của Lỗ Túc tên là Lưu Tử Dương có viết cho Lỗ Túc một bức thư nói rằng: “Anh hùng hào kiệt thời nay đang hiếm, người tài năng như anh có thể làm nên việc lớn, mong anh mau chóng làm tang lễ cho bà xong thì đi ngay, đừng lưu lại Đông Thành thêm ngày nào nữa. Gần đây, có một người tên là Trịnh Bảo, đang tập hợp quân khởi nghĩa ở Sào Hồ, ông ta đã chiêu mộ được hơn 1 vạn người, lại chiếm được vùng đất phì nhiêu màu mỡ. Rất nhiều người có học ở Lư Giang đều tới xin đầu quân, huống hồ là chúng ta. Tôi thấy Trịnh Bảo có triển vọng phát triển, không nên để lỡ mất thời cơ này, anh mau chóng thu xếp đi ngay đi!”

Lỗ Túc cảm thấy Lưu Tử Dương nói có lý, song ông vẫn lưỡng lự, cân nhắc xem nên theo ai. Sau khi làm tang lễ cho bà ngoại xong, Lỗ Túc trở lại Khúc A, vừa hay gặp Chu Du đang đưa mẹ mình về Đông Ngô, thế là Lỗ Túc cũng tới Đông Ngô luôn. Lỗ Túc đã kể lại toàn bộ sự việc mà mình nghe được cho Chu Du nghe và hỏi xin ý kiến Chu Du.

Lúc này là vào năm 200, Tôn Sách bị thích khách giết hại, Tôn Quyền vẫn ở tại Ngô quận. Chu Du khuyên Lỗ Túc đừng nghe theo lời của Lưu Tử Dương, thế là Lỗ Túc không tái đầu quân cho Trịnh Bảo nữa mà ở lại Đông Ngô. Không lâu sau đó, quả nhiên Trịnh Bảo thất bại, bị Lưu Việp giết chết.

Chu Du nói với Tôn Quyền: “Lỗ Túc là một anh tài hiếm có, tướng quân nhất thiết phải giữ anh ta ở lại”.

Tôn Quyền nghe theo sự tiến cử của Chu Du, lập tức mở tiệc cho gọi Lỗ Túc tới gặp mặt. Hai người vừa gặp nhau thì đã trò chuyện rất tâm đầu ý hợp, Tôn Quyền tỏ vẻ rất hài lòng. Khi bữa tiệc kết thúc, các quân thần lần lượt ra về, Lỗ Túc cũng đứng dậy chuẩn bị cáo từ thì Tôn Quyền giữ ông ở lại, mời ngồi xuống và tiếp tục uống rượu trò chuyện. Tôn Quyền nói với Lỗ Túc: “Nay nhà Hán suy yếu, bốn phương rối loạn, ta nôi nghiệp cha anh, muốn lập nghiệp thành công giống như Tề Hoàn Công và Tấn Văn Công, tiên sinh có thể tới giúp ta một tay được không?”

Túc nói: “Xưa kia Hán Cao Tổ Lưu Bang hết lòng tôn vinh Nghĩa Đế, song cuối cùng không làm được, là vì Hạng Vũ cản trở. Nay Tào Tháo cũng ví như Hạng Vũ, tướng quân làm sao có thể làm nên sự nghiệp giống như Tề Hoàn Công và Tấn Văn Công được. Thần nghĩ nhà Hán không thể phục hưng, Tào Tháo không thể trừ được. Tướng quân chỉ nên giữ vững Giang Đông, quan sát thời thế biến đổi. Dù Giang Đông không quá rộng lớn, song cũng đừng chê nó nhỏ bé. Vì sao lại như vậy? Hiện nay, phương Bắc đang rối ren loạn lạc, nhân lúc Tào Tháo còn chưa lo nổi thân mình thì chúng ta có thể diệt trừ Hoàng Tổ, tiến đánh Lưu Biểu, chiếm lấy các vùng đất quanh Trường Giang, dựng hiệu đế vương để mưu việc lớn. Chẳng phải Hán Cao Tô cũng làm như vậy sao!”.

Tôn Quyền nghĩ một lát rồi nói: “Hiện nay, ta đang nỗ lực hết sức ở Đông Nam chỉ là vì muốn bảo vệ Hán thất mà thôi, những điều tiên sinh vừa nói không phải là việc ta muốn làm”. Lúc này, Tôn Quyền mới chỉ chiếm được có năm quận là Cối Kê, Đan Dương, Ngô, Dự Chương, Lư Giang, còn vẫn chưa chiếm được những vùng hiểm yếu ở xa. Anh trai Tôn Quyền là Tôn Sách mới chết chưa được bao lâu, Tôn Quyền kế tục sự nghiệp của anh, song vẫn chưa tìm được vị trí hoàn toàn vững chắc. Bấy giờ, Đông Ngô không thiếu những người tài giỏi, song họ thường ngồi im quan sát tình thế rồi mới lựa chọn nên theo ai. Chỉ có Chu Du, Lỗ Túc và Trương Chiêu là quyết tâm ủng hộ Tôn Quyền.

Dựa theo tình hình đất nước khi đó thì chiến lược của Lỗ Túc quả là rất hay, trước hết cần củng cố Giang Đông, sau đó giành lấy Kinh Châu, cuối cùng là thống nhất đất nước. Tôn Quyền chỉ muốn xây dựng sự nghiệp giống như Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công để bảo vệ Hán thất, còn Lỗ Túc lại chỉ ra được Hán thất không thể phục hưng, rồi phân tích ra được rằng Tôn Quyền nên thực hiện đại nghiệp thống nhất Trung Quốc giống như Hán Cao Tổ Lưu Bang, điều này cho thấy rõ kiến thức và tầm nhìn của Lỗ Túc hơn hẳn Tôn Quyền. Cuối cùng, trong số rất đông quan thần võ tướng thì chỉ có một mình Lỗ Túc vạch ra phương châm chiến lược từng bước thống nhất toàn quốc. Khi đó, Lỗ Túc chỉ mới 29 tuổi, lần đầu gặp Tôn Quyền, đã hoạch định ra chiến lược phát triển Đông Ngô trong tương lai. Mặc dù ý đồ thống nhất Trung Quốc của Tôn Quyền cuối cùng không thực hiện được, song Tôn Quyền vẫn đạt được mục tiêu chiến lược củng cố Giang Đông, giành lấy Kinh Châu và xưng đế ở Đông Ngô. Tất cả những điều đó đều là do tài chính trị quân sự và kiến thức nhìn xa trông rộng của mưu sĩ Lỗ Túc.

Có lẽ khi đó Tôn Quyền quả thực không nghĩ rằng mình phải làm hoàng đế, hoặc cũng muốn nhưng cố ý không biểu lộ sắc mặt, bởi vậy mới nói những câu hoàn toàn trái ngược như vậy. Song dù thế nào thì từ hôm đó, Tôn Quyền cũng nhìn Lỗ Túc với con mắt kính trọng và khâm phục.

Sau bao lần suy nghĩ, cân nhắc, Lỗ Túc cuối cùng mới quyết định theo Tôn Quyền và được Tôn Quyền trọng dụng, để có được thành công đó là do Lỗ Túc khéo vận dụng thuật Phản ngỗ.

Phạm Thư dùng kế đoạt Trường Bình

Vào năm Chu Noãn Vương thứ 55, quân Tần tấn công nước Triệu ở phía Bắc, lão tướng Liêm Pha nước Triệu dẫn quân đi nghênh chiến, hai tướng Tần và Triệu đối đầu nhau ở Trường Bình. Dù quân Tần lực lượng hùng hậu lại giỏi võ nghệ, song vẫn còn sợ lão tướng Liêm Pha nên không dám tùy tiện tiến đánh, còn quân Triệu thận trọng, giữ chắc doanh trại chờ thời cơ tới, chưa dám quyết chiến với quân Tần. Cứ như vậy, hai bên dè chừng nhau gần 2 năm mà vẫn chưa phân thắng bại. Các quân thần nước Tần nghĩ nát óc mà vẫn chưa tìm ra kế sách có hiệu quả.

Tần Chiêu Vương nói với Phạm Thư: “Liêm Pha tài giỏi, thấy quân Tần mạnh thì không dám tùy tiện quyết chiến. Tình trạng này cứ kéo dài thì quân Tần khó mà trụ nổi, ta nghĩ rằng quân Tần phải tự mình thoát khỏi sự bế tắc này thôi, ngươi thấy sao?”. Phạm Thư đã sớm ý thức được tính quan trọng của vấn đề, là một nhà mưu lược tài ba, ông đã nhanh chóng tìm ra nguyên nhân dẫn tới sự bế tắc này. Ông hiểu khá rõ nhược điểm và ưu điểm của văn thần võ tướng nước Triệu, hơn nữa cũng biết được rằng, nếu quân Tần muốn đánh nhanh thắng nhanh thì trước hết phải nghĩ kế trừ khử Liêm Pha, thế là ông trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu, rồi hiến cho Chiêu Vương một kế phản gián rất hay.

Sau hôm đó, Phạm Thư tới thành Hàm Đan của nước Triệu, lấy tiền bạc mua chuộc tay chân thân tín của Triệu Vương để họ phao tin đồn rằng: “Quân Tần sợ nhất là Triệu Khoát, con trai của tướng Triệu Xa vì anh ta còn trẻ lại thông hiểu binh pháp, nếu anh ta mà làm tướng thì khó lòng đánh thắng. Lão tướng Liêm Pha già rồi nên nhát, hiện không dám quyết chiến vì sợ quân Tần, sắp sửa hàng Tần rồi”.

Tin tức đến tai Triệu Vương khiến nhà vua bán tín bán nghi, sai người thúc chiến, song Liêm Pha vẫn kiên quyết thực hiện mưu lược “cố thủ” của mình, không chịu xuất quân, thấy Liêm Pha như vậy, Triệu Vương càng tin vào lời đồn đại đó nên đã không cần tìm hiểu kỹ sự thực, vội phong cho Triệu Khoát làm thượng tướng, ban thưởng tiền vàng, lụa là gấm vóc, cấp cho anh ta 20 vạn quân tinh nhuệ tới thay thế Liêm Pha.

Liêm Pha

Liêm Pha là tướng lĩnh quân sự kiệt xuất của nước Triệu thời Chiến Quốc. Ông là một người trung thực, thắng thắn, biết sai thì sửa. Ông từng làm tướng dưới ba triều: Triệu Huệ Văn vương, Triệu Hiếu Thành vương, Triệu Điệu Tương vương.

Mặc dù Triệu Khoát là con trai của danh tướng Triệu Xa, cũng am hiểu binh pháp, song chỉ là học qua sách vở chứ chưa từng áp dụng vào thực tế, hơn nữa lại tự kiêu tự đại, vừa lên làm tướng đã tỏ vẻ ta đây, chuyên quyền độc đoán khiến tướng sĩ không ai dám cãi lời. Triệu Khoát còn đem cất giữ hết số tiền vàng và lụa là gấm vóc ở trong nhà, lúc nào cũng chỉ nghĩ l?