PHẦN 7 SỦY THIÊN (PHỎNG ĐOÁN) Nguyên văn
Cổ chi thiện dụng thiên hạ (1) giả, tất lượng (2) thiên hạ chi quyền, (3) nhi sủy chư hầu chi tình. (4) Lượng quyền bất thẩm, bất tri cường nhược khinh trọng chi xứng; (5) Sủy tình bất thẩm, bất tri ẩn nặc biến hóa chi động tĩnh.
Chú thích
1. Thiện dụng thiên hạ: Giỏi thống trị thiên hạ, trị vì thiên hạ.
2. Lượng: Đánh giá, cân nhắc.
3. Thiên hạ chi quyền: Chỉ tình thế trong thiên hạ.
4. Tình: Suy nghĩ thực sự trong lòng,
5. Xứng: Cái cân. ở đây là chỉ thực hư của chư hầu.
Dịch nghĩa
Người giỏi thống trị thiên hạ phải biết đánh giá đúng quyền thế trong thiên hạ, suy đoán tốt tình hình cụ thể của các nước chư hầu. Nếu không hiểu cặn kẽ lợi hại của quyền thế thì sẽ không thể biết được thực lực mạnh yếu của nước chư hầu, nếu không thể đoán chính xác tình thế thì sẽ không thể thông tỏ sự biến đổi cục diện trong thiên hạ.
“Sủy” chính là suy đoán, phỏng đoán, suy luận,… thông qua phương pháp “sủy” để đưa ra sự phán đoán chính xác về đối tượng du thuyết, từ đó đạt mục đích của mình. Ngay đầu phần này đã chỉ ra rằng: Người giỏi trị vì thiên hạ thì phải biết phán đoán toàn bộ tình thế xảy ra trong thiên hạ. Các mưu thần muốn làm nhà chính trị tài ba thì cần phải giỏi “lượng quyền” (đánh giá quyền thế), giỏi “sủy tình” (suy đoán tình cảm), có vậy mới có thể thành công. Từ đó có thể thấy “sủy” trong phần này thực tế bao gồm hai phạm vi: “lượng quyền” và “sủy tình”.
Nguyên văn
Hà vị lượng quyền? Viết: Độ (1) vu đại tiểu, (2) mưu vu chúng quả; (3) xứng tài hòa chi hữu vô, liệu nhân dân đa thiểu, nhiêu phạp, hữu dư bất túc kỷ hà? Biện địa hình chi hiểm dị, thục lợi thục hại? (4) Mưu lự thục trường thục đoản? (5) Quỹ quân thần chi thân sơ, thục hiền thục bất tiếu? (6) Dữ tân khách chi trí duệ, (7) thục đa thục thiểu? Quan thiên thời chi họa phúc, thục cát thục hung? Chư hầu chi thân, (8) thục dụng thục bất dụng? Bách tính chi tâm, khứ tựu (9) biến hóa, thục an thục nguy? Thục hiếu thục tăng? Phản trắc (10) thục biện? Năng tri như thử giả, thị vị lượng quyền.
Chú thích
1. Độ: Đo đạc, đánh giá
2. Đại tiểu: Chỉ mức độ rộng lớn và quyền lực của quốc gia.
3. Chúng quả: Chỉ số lượng nhân khẩu.
4. Thục lợi thục hại: Có lợi cho ai, có hại cho ai
5. Thục trường thục đoản: Mặt nào sáng suốt, mặt nào kém cỏi.
6. Bất tiếu: Bất tài, không có năng lực.
7. Trí duệ: Thông minh, có trí tuệ.
8. Chư hầu chi thân: Chỉ mối quan hệ thân sơ, xa gần trong quan hệ với chư hầu.
9. Khứ tựu: Rời xa và tiến lại gần, ở đây chỉ lòng người trung thành hoặc làm phản.
10. Phản trắc: Mang nghĩa phản bội.
“Lượng quyền” thực tế chính là đánh giá toàn bộ sức mạnh của một đất nước, trong đó bao gồm những vấn đề cụ thể như số lượng nhân khẩu là bao nhiêu, tài nguyên thiên nhiên dồi dào như thế nào, địa hình có hiểm trở không, mưu thần tài giỏi đến đâu, mối quan hệ của quân thần ra sao, thiên thời như thế nào, dân chúng có trung thành không,…
“Sủy tình” chính là suy đoán tâm tư tình cảm của đối tượng du thuyết, hiểu rõ đối phương thích gì, ghét gì, từ đó làm thỏa mãn tâm tư của đối phương, có lợi cho bước tiếp theo của kế hoạch du thuyết, cũng chính là thuận lợi cho việc vạch kế sách du thuyết cụ thể, sát thực tế và khả thi.
Dịch nghĩa
Thế nào gọi là đánh giá quyền thế? Chính là chỉ, suy đoán mức độ quyền lực của quốc gia, số lượng mưu sĩ trong quốc gia đó; đánh giá được quốc khố đang ở trong tình trạng còn hay hết; biết được số lượng nhân khẩu và mức độ sống của người dân như thế nào, hiểu rõ mặt nào dư thừa, mặt nào thiếu thốn? nghiên cứu địa thế đất nước, nơi nào địa thế thuận lợi, nơi nào địa thế hiểm trở? Suy nghĩ xem mưu lược hay ở đâu, sơ hở ở đâu? Quan sát mối quan hệ thân sơ của quân thần, những thần tử nào là người hiền đức, thần tử nào chưa đủ mưu trí? Quan sát sự vận hành của thiên thời, lúc nào họa tới, lúc nào phúc tới? Suy đoán mối quan hệ giữa các chư hầu, chư hầu nào có thể lợi dụng, chư hầu nào không thể lợi dụng? Suy xét tâm tư của quần chúng cũng rất quan trọng, nơi nào dân chúng sống vui tươi, êm ấm, nơi nào dân chúng sống không yên ổn, dân chúng yêu ai, ghét ai? Liệu lòng người có thay đổi không, liệu tình thế có đảo ngược không,… hiểu rõ những điều này thì chính là giỏi đánh giá quyền thế.
Nguyên văn
Sủy tình giả, tất dĩ kỳ thậm hỷ chi thời, vãng nhi cực kỳ dục dã; (1) Kỳ hữu dục dã, bất năng ẩn kỳ tình. Tất dĩ kỳ thậm cụ chi thời, vãng nhi cực kỳ ố dã; (2) Kỳ hữu ố giả, bất năng ẩn kỳ tình. Tình dục tất xuất kỳ biến. (3) Cảm động nhi bất tri kỳ biến giả, (4) nãi thả (5) thác (6) kỳ nhân vật dữ ngữ, nhi canh vấn kỳ sở thân, tri kỳ sở an. Phù tình biến vu nội giả, hình thiên vu ngoại, cố thường tất dĩ kỳ kiến giả nhi tri kỳ ẩn giả, thử sở vị trắc thâm sủy tình.
Chú thích
1. Cực kỳ dục dã: Khiến dục vọng của đối phương đạt tới cực điểm.
2. Cực kỳ ác dã: Khiến sự chán ghét của đối phương đạt tới cực điểm.
3. Tình dục tất xuất kỳ biến: Tình cảm của con người chắc chắn sẽ biểu hiện ra trong lúc cực kỳ vui mừng hoặc cực kỳ sợ hãi.
4. Cảm động nhi bất tri kỳ biến giả: Tình cảm lại không được biểu lộ ra trong lúc xúc động.
5. Nãi thả: Tạm thời.
6. Thác: Tương tự như “thố” là bố trí, sắp xếp.
Dịch nghĩa
Sở dĩ gọi là sủy tình chính là khi tâm tư của đối phương đạt độ cao trào thì tìm cách gây ảnh hưởng tới anh ta, để anh ta bộc bạch hết dục vọng trong lòng. Chính vì có dục vọng trong lòng nên khi tâm tư đạt tới cao trào sẽ dễ bộc lộ ra ngoài. Hoặc khi đối phương đang lo lắng, sợ sệt nhất thì nỗ lực làm cho anh ta bày tỏ nỗi tức tối và sợ hãi trong lòng. Do có sẵn tâm lý sợ sệt nên anh ta sẽ không giấu nổi suy nghĩ thực sự trong lòng. Suy nghĩ thực sự trong lòng chắc chắn sẽ bộc lộ hết ra ngoài vào lúc tâm tư tồi tệ nhất. Nếu gặp phải người không dễ bộc lộ tâm tư thực sự trong lòng vào lúc tồi tệ nhất thì tạm thời “thả lỏng” anh ta, không hỏi gì đến anh ta nữa, song lại nên tới hỏi người thân của anh ta để tìm hiểu rõ ỷ đồ của anh ta. Những người tình cảm thay đổi từ bên trong thì chắc chắn sẽ thể hiện ra bên ngoài thông qua hình thái. Bởi vậy, thông thường, chúng ta đều nên tìm hiểu tâm tư thực sự ẩn chứa trong lòng đối phương dựa vào sự biến đổi nét mặt và cử chỉ của anh ta, đó chính là suy đoán tâm tư trong lòng đối phương để nắm bắt được ý đồ thực sự của đối phương.
Sự hoạt động của bất cứ sinh mệnh nào cũng là để “cầu lợi tránh hại”, tìm kiếm thành công. Do đó, người có trí tuệ thường có thể khai thác triệt để suy nghĩ từ tận đáy lòng người khác. Phán đoán được chính xác tâm lý của đối phương chính là vì tình cảm của con người thường biểu lộ hết ra ngoài. Phần này nói về kỹ xảo “sủy”, Quỷ Cốc Tử đã liên kết ba vấn đề là thống trị thiên hạ, du thuyết quân chủ và suy đoán hoạt động tâm lý của đối phương với nhau, điều này đủ cho thấy Quỷ Cốc Tử có trình độ nhận thức và tầm nhìn hơn hẳn người khác.
Nguyên văn
Cố kế quốc sự giả, (1) tắc đương thẩm quyền lượng; thuyết nhân chủ, (2) tắc đương thẩm sủy tình. Mưu lự tình dục, tất xuất vu thử. Nãi khả quý, nãi khả tiện; nãi khả trọng, nãi khả khinh; nãi khả lợi, nãi khả hại; nãi khả thành, nãi khả bại. Kỳ số (3) nhất dã. Cố tuy hữu tiên vương chi đạo, thánh trí chi mưu, phi sủy tình ẩn nặc, vô khả sách chi. Thử mưu chi đại bản dã, (4) nhi thuyết chi pháp dã. Thường hữu sự vu nhân, nhân mạc tiên sự nhi chí, (5) thử tối nan vi. Cố viết: Sủy tình tối nan thủ tư. Ngôn tất thời kỳ (6) mưu lự. Cố quan quyên phi nhu động, (7) vô bất hữu lợi hại, khả dĩ sinh sự mỹ. Sinh sự giả, cơ (8) chi thế dã. Thử sủy tình sức ngôn thành văn chương, (9) nhi hậu luận chi dã.
Chú thích
1. Kế quốc sự giả: Người vạch mưu kế cho đất nước.
2. Thuyết nhân chủ: Trần thuật, Chú thích rõ ràng với quân chủ.
3. Số: Quy luật, phép tắc.
4. Sách: Tìm kiếm. Thử: chỉ sủy tình. Đại bản: thứ cơ bản nhất.
5. Tiên sự nhi chí: Có thể dự đoán trước khi sự việc xảy ra nên đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng.
6. Thời kỳ: Lựa chọn thời cơ.
7. Quyên phi nhu động: Chỉ côn trùng đang bay.
8. Cơ: chỉ mầm mống của sự vật.
9. Sức ngôn thành văn chương: Dùng lời lẽ hoa mỹ như văn chương.
Dịch nghĩa
Do vậy, người vạch sách lược quốc gia đại sự nên nắm vững tình thế đất nước; khi Chú thích kế sách với quân chủ thì nên suy đoán kỹ suy nghĩ thực sự trong lòng quân chủ. “Vạch mưu lược kế sách” hay “tìm hiểu tâm tư, dục vọng của đối phương” thì đều cần dùng sách lược này. Hiểu được đạo lý của thuật Sủy và tăng cường vận dụng nó thì có thể phú quý, cũng có thể nghèo hèn; có thể được coi trọng, cũng có thể bị khinh thường; Có thể thu về lợi ích, cũng có thể rước họa cho bản thân; Có thể thành công, cũng có thể thất bại,… tất cả đều do bản thân quyết định và kiểm soát. Bởi vậy, mặc dù có đức hạnh của bậc cổ thánh tiên vương, có trí tuệ cao siêu của bậc thánh nhân, song nếu không biết suy đoán thấu đáo sự tình ẩn giấu bên trong thì sẽ không thể làm nên việc lớn. Đây là nguyên tắc cơ bản của mưu lược, là phương pháp cơ bản để du thuyết quân chủ. Con người thường cảm thấy bất ngờ trước một số sự việc nào đó chính là vì không lường trước được sự việc xảy ra. Đoán định trước sự việc xảy ra là điều khó khăn nhất. Bởi vậy mới nói, suy đoán sự tình là việc khó nhất, cần tìm ra thời điểm đối phương đang suy nghĩ để thuyết phục đối phương. Bởi vậy, chúng ta quan sát sự chuyển động của côn trùng khi chúng bay thi sẽ thấy được mối quan hệ lợi hại của bản thân chúng, từ đó sẽ thấy, có thể làm nên sự nghiệp dựa vào đạo lý thuận nghịch, lợi hại. Sự tình thay đổi thường sẽ thể hiện ở một hiện tượng tự nhiên cực tinh tế nào đó. Khi suy đoán tâm tư, cần dùng lời lẽ hoa mỹ như văn chương thì mới có được kết luận chính xác.
ĐIỂN CỐ MƯU LƯỢC
Vương Tiễn dùng binh tùy theo tình thế, đối nhân xử thế theo tình
Quỷ Cốc Tử cho rằng “sủy tình” quan trọng nhất, song cũng khó khăn nhất, có thể phỏng đoán và lường trước sự việc xảy ra là điều rất khó. Tuy nhiên tướng quân nhà Tần là Vương Tiễn lại rất giỏi điều này, ông không chỉ phân tích chính xác tình thế của Tần Sở, mà còn phán đoán tốt tính cách của Tần Vương, vì thế ông mới có thể yên tâm tấn công nước Sở và giành được thắng lợi.
Năm 228 TCN, Tần Vương Chính lấy lý do Thái Tử Đan nước Yên phái Kinh Kha tới hành thích mình nên đã lệnh cho Vương Tiễn đem quân tấn công nước Yên. Quân Yên liên minh với nước Đại chống lại Tần. Quân Tần dưới sự chỉ huy của Vương Tiễn đã đánh bại liên minh Yên Đại ở Dịch Thủy. Tháng 10 mùa đông năm sau, Vương Tiễn dẫn quân tấn công kinh đô Kế của nước Yên, đuổi Yên Vương Hỷ ra khỏi kinh thành, nước Yên hoàn toàn bị tiêu diệt.
Vương Tiễn không chỉ giỏi về mặt quân sự, mà còn biết suy đoán thời thế, biết dựa vào sự biến đổi của thời thế để vạch ra phương án tác chiến phù hợp. Đặc điểm này của ông thể hiện rõ trong cuộc chiến tiêu diệt Sở vào năm Tần Thủy Hoàng thứ 23.
Trước cuộc chiến, Tần Vương Chính hỏi vị tướng trẻ Lý Tín: “Ta muốn giành Kinh Châu, Lý tướng quân thử đoán xem cần bao nhiêu người mới đủ?”. Lý Tín nói: “Chưa cần tới 20 vạn”. Tần Vương Chính lại hỏi Vương Tiễn, Vương Tiễn trả lời: “Không thể ít hơn 60 vạn”. Thế là, Tần Thủy Hoàng nghĩ ngay rằng Vương Tiễn già rồi nên nhát chết, còn Lý Tín trẻ tuổi, đầy sức lực, thế là lệnh cho Lý Tín và Mông Khoát dẫn 20 vạn quân tấn công nước Sở.
Kỳ thực, Vương Tiễn cho rằng “không thể ít hơn 60 vạn” là vì ông đã phân tích rõ tình hình thực tế của Tần Sở. Hiện tại, nước Sở đất rộng người đông, binh mã hùng hậu. Ngay từ thời Xuân Thu đã từng mưu toan cướp lấy Trung Nguyên, xưng bá một thời. Sau thời Chiến Quốc, dù binh lực có yếu đi, song vẫn còn rất mạnh mẽ, nước Sở vẫn là nước duy nhất có thể sánh với nước Tần.
Sau khi nước Tần tiêu diệt Yên, Đại, Triệu, Ngụy, vua Sở cảm thấy tình hình rất nguy khốn, nên sẽ quyết dốc hết sức lực để chống lại nước Tần nhằm cứu vãn lại tình thế. Hơn nữa, nước Sở còn có vị tướng tài ba là Hạng Yên, nên không thể xem thường.
Lý Tín dẫn 20 vạn quân Tần chia thành hai ngả đường tấn công nước Sở. Mông Khoát dẫn quân đánh đất Tẩm, còn Lý Tín dẫn quân đánh Bình Dư, bước đầu giành được thắng lợi. Thế là Lý Tín lại tiếp tục dẫn quân tiến về phía Tây, cùng Mông Khoát tấn công Thành Phụ. Quân Sở dưới sự chỉ huy của Hạng Yên cứ theo sau quân Tần để chờ thời cơ hành động. Khi quân Tần gặp nhau ở Thành Phụ còn chưa chỉnh đốn lại quân ngũ thì quân Sở sau 2, 3 ngày đuổi theo đã bất ngờ tấn công quân Tần từ phía sau và đã giành được thắng lợi.
Tần Vương thấy Lý Tín bại trận thì vô cùng hối hận, đã đích thân tới nhà Vương Tiễn thành khẩn nói: “Ta hối hận không nghe lời tướng quân, để quân Tần đại bại. Hiện nay quân Sở đang từ hướng Tây đánh lại, uy hiếp nước Tần. Tướng quân dù đang bị bệnh, lẽ nào thấy vận mệnh nước nhà nguy vong mà không cứu?” Vương Tiễn từ chối: “Thần già rồi, lại bệnh nặng, hoàng thượng còn nhiều hiền tướng khác tài giỏi hơn thần”. Tần Vương hạ mình cung kính, cố gắng thuyết phục Vương Tiễn đồng ý. Vương Tiễn không còn cách nào từ chối, bèn nói: “Hoàng thượng bất đắc dĩ phải dùng thần, không cho thần 60 vạn quân thì không xong”. Tần Vương đành phải đồng ý cho Vương Tiễn 60 vạn quân tiến đánh Sở.
60 vạn quân, con số này dường như là toàn bộ đội quân của nước Tần. Vương Tiễn nắm giữ trọng binh, rất sợ Tần vương nghi ngờ, nên khi Tần vương đến đất Bá để tiễn binh, ông đã cố ý xin Tần Vương ban cho thật nhiều nhà cửa ruộng vườn. Tần Vương không hiểu bèn hỏi: “Tướng quân xuất chinh, còn lo gia cảnh nghèo đói sao?”. Vương Tiễn nói: “Làm tướng lĩnh của hoàng thượng có công cũng chẳng được phong hầu, thần đây nhân lúc này xin hoàng thượng chút ít điền sản làm của cải cho con cháu”. Thấy Vương Tiễn trước khi xuất chinh cứ nhất quyết xin Tần vương phong đất tốt nhà đẹp cho mình, có người hỏi: “Tướng quân cứ một mực xin đại vương ban thưởng như vậy, chẳng phải hơi quá đáng sao?”. Vương Tiễn Chú thích: “Tần Vương tính kiêu ngạo, lại không tin người, nay giao cho ta toàn bộ quân lính đi đánh Sở, nếu ta không xin thêm nhà cửa đất đai để ổn định cơ nghiệp cho con cháu thì Tần Vương nhất định sẽ nghi ngờ lòng trung thành của ta”
Vương Tiễn
Vương Tiễn không rõ năm sinh năm mất, là người ở làng Tân Dương Đông (nay thuộc đông bắc huyện Phú Bình, Thiểm Tây, Trung Quốc). Ông là nhà quân sự kiệt xuất của nhà Tần, là danh tướng kế tục Bạch Khởi. Ông có công lớn trong việc giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất đất nước. Ngoài nước Hàn, 5 nước còn lại đều do cha con Vương Tiễn tiêu diệt.
Việc Vương Tiễn xin xỏ, tuy có phải khổ sở trong lòng, song ông đã sớm suy đoán được rằng, Tần Vương là người kiêu ngạo, lại đa nghi. Xin Tần Vương ban cho đất đai, chẳng qua chỉ là muốn chứng tỏ mình không có ý phản nghịch, luôn trung thành với Tần vương, chứ không phải có ý để lại tài sản cho con cháu, nhờ đó khiến Tần Vương không còn nghi ngờ gì. Chỉ có như vậy, mới có thể yên tâm chỉ huy quốc sự, bảo đảm giành thắng lợi trong cuộc chiến với nước Sở.
Thấy Vương Tiễn dẫn quân tới uy hiếp biên giới, Sở Vương cũng huy động toàn bộ binh lính trong nước, lệnh cho Hạng Yên dẫn quân đi quyết chiến với Tần. Vương Tiễn thấy quân Sở khí thế đang hăng, liền áp dụng phương pháp phòng thủ, quân Sở đến khiêu chiến, quân Tần nhất quyết ở trong doanh trại không ra đánh. Vương Tiễn hàng ngày cho quân nghỉ ngơi, ăn uống no đủ. Lúc này, quân Sở không tìm ra cơ hội để tấn công, lòng quyết tâm và nhuệ khí đã giảm, bắt đầu lùi về hướng Đông. Nắm lấy thời cơ này, Vương Tiễn đã xuất quân truy quét, đánh cho quân Sở thua tan tành.
Sở dĩ nước Tần có thể chiến thắng 6 nước và thống nhất thiên hạ là nhờ có những tướng lĩnh tài giỏi như Vương Tiễn. Thành công của Vương Tiễn một phần là nhờ ông giỏi dùng binh dựa theo phán đoán tình thế, giỏi đối nhân xử thế dựa theo suy đoán tâm tư.
Lã Bất Vi cân nhắc lợi hại tìm phương hướng
Người giỏi trị vì đất nước chắc chắn phải biết đánh giá tình hình trong thiên hạ, đồng thời suy đoán được suy nghĩ thực sự trong lòng chư hầu. Cũng chính là nói, phải biết suy xét mức độ nặng nhẹ của sự vật, phán đoán được số lượng binh lực nhiều ít, tính toán ra thực lực kinh tế của đất nước, hiểu rõ điều kiện sống của người dân, phân biệt được thiên thời địa lợi ai được ai không được, quan sát tốt mối quan hệ thân sơ giữa quân thần và suy nghĩ của dân chúng. Hiểu tất cả những việc nêu trên thì gọi là biết cân nhắc lợi hại. Từ xưa tới nay, những người thành công đều là những người giỏi cân nhắc lợi hại, phán đoán tốt tình thế, vạch ra phương hướng phát triển cho sự nghiệp của mình, một trong số những người đó phải kể đến Lã Bất Vi.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, các nước chư hầu hỗn chiến, xâu xé lẫn nhau. Những nước yếu hoặc bị thôn tính ngay từ rất sớm, hoặc phải phục tùng nước mạnh. Những nước này trở thành nước phụ thuộc. Vì ở vào vùng ranh giới giữa hai nước hoặc nhiều nước nên những nước này chính là vùng đất màu mõ cho cho các nước khác lợi dụng. Do đó, sự diệt vong của những nước này cũng chỉ còn là vấn đề về thời gian mà thôi.
Nước Vệ mới đầu là một nước lớn. Trong thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc kéo dài hơn 400 năm, hết đời vua này đến đời vua khác của nước Vệ đều bất tài vô dụng, nên dần dần khiến thế lực của nước Vệ giảm sút. Tới giữa thời Chiến Quốc, nước Vệ đã trở thành một nước nhỏ mà bất cứ nước nào cũng có thể thôn tính, ngày diệt vong có thể đến bất cứ lúc nào. Trong lúc này, giữa các nước mạnh đang tiến đánh lẫn nhau theo sách lược “Hợp tung” và “Liên hoành”. Còn các nước nhỏ bé như nước Vệ nằm ở giữa sự “Hợp tung”, “Liên hoành” của các nước, thường là đối tượng bị lợi dụng và là món mồi ngon béo bở của các nước lớn.
Năm Lã Bất Vi 1, 2 tuổi, vua nước Vệ là Vệ Hoài Quân tới bái kiến Ngụy Chiêu Vương với mục đích “nước Vệ bé nhỏ xin được nương nhờ nước Ngụy lớn mạnh”, nào ngờ Hoài Vương vừa tới đã bị vua nước Ngụy bắt lại, rồi đem đi giết ngay. Sau đó, nước Ngụy tự ý lập Nguyên Quân làm Vệ Quốc quốc quân (Nguyên Quân chính là con rể của Ngụy Chiêu Vương). Mặc dù nước Ngụy xưng vương xưng bá trước nước Vệ nhỏ bé, song lại sợ hãi, trốn chạy trước sự tấn công của nước Tần hùng mạnh, có thể thấy, đây chính là nguyên tắc ngoại giao giữa các nước thời Chiến Quốc. Nước Vệ lúc này đã trở thành nước phụ thuộc của nước Ngụy. Đất đai của nước Vệ khi đó chỉ còn lại mỗi vùng Bộc Dương mà thôi.
Trong tình hình này, người biết nhìn xa trông rộng chắc chắn sẽ không mong chờ gì ở nước Vệ. Đến ngày cả một số vương công quý tộc và chính trị gia nước Vệ cũng đều lần lượt chạy tới các nước chư hầu khác. Lã Bất Vi cũng nhận thấy nước Vệ không có tiền đồ phát triển nên có ý định làm giàu để lấy tiền mua quyền lực, thiết lập các mối quan hệ với giới thượng lưu nhằm mở rộng tiền đồ phát triển. Có suy nghĩ như vậy nên khi thấy sứ giả nước Triệu rao bán 100 chiếc khuê bích (vật làm bằng ngọc, dựa vào đó để biết được tước vị của tầng lớp quý tộc) thì Lã Bất Vi quyết định mua ngay. Khi đó, nước Vệ nghiêm cấm vận chuyển và mua bán thương phẩm, ai vi phạm sẽ bị chặt đầu. Luật đề ra nghiêm như vậy, song Lã Bất Vi vẫn dám thực hiện việc mua bán này, đương nhiên vì lợi nhuận của món hàng này rất cao, quan trọng hơn nữa là Lã Bất Vi đã quyết định rời bỏ nước Vệ bé nhỏ để tới lập nghiệp ở nước lớn hơn.
Lã Bất Vi là người Bộc Dương, nước Vệ cuối thời Chiến Quốc, nguyên quán tại Dương Địch. Từng giúp cháu trai của Tần Vương là Tử Sở làm con tin ở nước Triệu trở về nước, sau này Tử Sở trở thành Trang Tương Vương, còn Lã Bất Vi là tướng. Sau khi Thái Tử Doanh Chính lên ngôi vua, tôn Lã Bất Vi làm tướng quốc, gọi ông là “trọng phu”. Sau Lã Bất Vi thất thế, tự uống thuốc độc tự sát. Tương truyền, Lã Bất Vi chính là cha đẻ của Doanh Chính.
Lã Bất Vi lựa chọn tới kinh đô của nước Hàn là Dương Địch. Sở dĩ ông lựa chọn như vậy là vì Dương Địch là trung tâm mua bán đồ vật bằng ngọc lớn nhất thời đó, thương nhân các nước đều tới đây mua đồ vật, Lã Bất Vi đã làm ăn rất phát đạt tại đây. Tuy nhiên, ông cũng nhanh chóng phát hiện thấy rằng không nên ở lại nước Hàn lâu.
Nước Hàn vốn là nước Tấn cũ. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, nước Tấn rất hùng mạnh, từng có thời tranh giành Trung nguyên, sau do nội chiến hỗn loạn mà thế lực suy yếu dần.
Khi Lã Bát Vi ở nước Hàn, Tần Chiêu Tương Vương chấp chính, ông ta rất trọng dụng tướng quốc Phạm Thư và đang thực thi chính sách “viễn giao cận công” (kết giao ở xa, tấn công ở gần). Lúc này, Lã Bất Vi đã có chút hiểu biết đối với tình hình trong thiên hạ, ông dự đoán rằng, nước Hàn sẽ trở thành mục tiêu thôn tính đầu tiên của nước Tần, đất nước này sớm muộn cũng sẽ bị diệt vong giống như lá mùa thu sắp lìa cành. Vị trí địa lý của nước Tần bây giờ là: phía bắc giáp nước Ngụy, phía nam giáp nước Sở, phía tây giáp nước Thục, phía đông giáp nước Hàn, trong bốn nước chư hầu này thì nước Hàn gần nước Tần nhất, do đó sẽ trở thành “con mồi” đầu tiên của nước Tần, bởi vậy nước Tần chắc chắn sẽ tiến đánh nước Hàn đầu tiên.
Lã Bất Vi lường trước được rằng, cục diện chính trị của nước Hàn bất ổn, dân chúng sống không ổn định, lưu lạc khắp nơi. Ông hiểu rằng, đến ngay cả Hàn Vương cũng có thể sẽ trở thành ông vua mất nước, thì làm gì có chuyện được phong hầu phong tước ở nước Hàn.
Sau khi phân tích rõ tình hình các nước, Lã Bất Vi quyết định rời Dương Địch để tới vùng đất khác. Lúc đó nước Triệu là nước mạnh trong bảy nước chỉ sau nước Tần với binh mã hùng hậu, thực lực dồi dào, ngoài ra vua Triệu còn có cấc hiền thần tài giỏi trơ giúp như Bình Nguyên Quân Triệu Thắng, Lạn Tương Như, hơn nữa Lã Bất Vi lại có một cửa hàng bán đồ ngọc tại Hàm Đan, do đó ông đã quyết định tới nước Triệu.
Khi Lã Bất Vi tới nước Triệu thì nước Triệu mới có được chiến thắng ở Yên Vu cách đó không lâu, thực lực đất nước đang rất mạnh. Việc kinh doanh của Lã Bất Vi ngày càng phát đạt, trong thời gian Tần Vương Tôn Dị Nhân làm con tin ở nước Triệu, Lã Bất Vi đã làm quen với Dị Nhân và nảy ra ý định tới nước Tần lập nghiệp. Ông quyết định nhờ Dị Nhân tiến cử mình lên vua Tần để thực hiện ước mơ của mình. Cũng trong thời gian này, ông đã khéo léo kết giao với Bình Nguyên Quân nên đã trở thành tân khách của Triệu Vương. Khi tiếp xúc với Triệu Vương, Lã Bất Vi lại nhận ra rằng Triệu Vương kiến thức nông cạn, thường xử lý mọi chuyện theo ý mình, do đó nước Triệu không thể phát triển lớn mạnh được, đúng lúc này, lại xảy ra chiến tranh Tần Triệu, dựa vào kinh nghiệm thực tế của mình, Lã Bất Vi quyết định rời khỏi nước Triệu.
Vì muốn lập Dị Nhân làm Thái Tử, Lã Bất Vi đã tới Hàm Dương. Khi vừa tới nước Tần, Lã Bất Vi đã cảm thấy vùng đất và con người nơi đây hoàn toàn khác với vùng đất Quan Đông. Lã Bất Vi là một thương nhân, có thể nhìn thấy rõ vùng đất Quan Trung của nước Tần là một nơi đất đai phì nhiêu, sản vật phong phú. Những người nước Tần mà Lã Bất Vi gặp trên đường đi cũng vẫn giữ được nét truyền thống của người Chu thời xưa, họ rất coi trọng việc đồng áng, về điểm này, Lã Bất Vi thấy khác hẳn so với với quê hương Bộc Dương của mình và Hàm Đan mà ông đã từng qua.
Sau khi trở về Hàm Đan, nhớ lại sự hùng mạnh và giàu có của nước Tần, Lã Bất Vi suy xét thực lực nước Triệu một lần nữa và nhận thấy rằng sự phồn vinh và hào nhoáng của nước Triệu chỉ là vẻ bề ngoài, còn thực chất bên trong lại suy tàn. Chiến tranh xảy ra sau đó đã chứng minh con mắt tinh tường của Lã Bất Vi.
Chiến tranh kéo dài ba năm mà chưa chấm dứt, điều này cho thấy nếu quân Tần tiến đánh nơi xa thì sẽ ở vào thế bất lợi. Bởi vậy vua Tần đã kiên trì chiến lược “dĩ dật đãi lao” (lấy nhàn đối nhọc) để đối phó với quân Triệu và sử dụng kế phản gián, tới nước Triệu tung tin khắp nơi rằng quân Tần không sợ lão tướng Liêm Pha, chỉ sợ con trai Triệu Sa là Triệu Khoát.
Triệu Hiếu Thành Vương ngu dốt đã tin vào lời đồn đại này, bất chấp sự khuyên can của Triệu mẫu và các đại thần như Lạn Tương Như, nhất quyết cử Triệu Khoát “chỉ giỏi lý thuyết, ít kinh nghiệm thực tế” dẫn quân đi nghênh chiến với quân Tần thay thế lão tướng Liêm Pha. Triệu Khoát nhận lệnh xong thì lập tức xuất quân tiến đánh, do đó đã rơi vào bẫy của quân Tần và bị trúng tên mà chết, 40 vạn quân Triệu đầu hàng quân Tần, toàn bộ quân Triệu đã bị tướng Tần là Bạch Khởi chôn sống. Sau thất bại này, lực lượng quân Triệu giảm đi đáng kể, thực lực nước Triệu cũng ngày một yếu đi. Nước Tần bao vây Hàm Đan, bị liên quân Ngụy, Sở do Tín Lăng Quân dẫn đầu đánh bại.
Nhân lúc hỗn loạn này, Lã Bất Vi đưa Dị Nhân trốn khỏi Hàm Đan chạy tới nước Tần. Từ đây, Lã Bất Vi bắt đầu sự nghiệp của mình tại nước Tần.
Có thể thấy, trong quá trình lựa chọn đất nước để lập nghiệp, Lã Bất Vi đã phát huy triệt để thuật Sủy của Quỷ Cốc Tử, nhờ đó, ông mới thoát khỏi nguy hiểm này tới nguy hiểm khác, và cuối cùng chọn ra được đất nước có thể phát triển sự nghiệp - nước Tần, và chính thức theo đuổi chính trị.
Gia Cát Lượng quan sát thời thế, chia ba thiên hạ
Trong phần Sủy của Quỷ Cốc Tử có nói: “cổ chi thiện dụng thiên hạ giả, tất lượng thiên hạ chi quyền, nhi sủy chư hầu chi tình”, chính là nói nếu muốn thuyết phục nhà vua và đoán định chính xác cục diện thiên hạ thì các mưu thần sách sĩ phải thông tỏ tình thế trong thiên hạ, nắm bắt được suy nghĩ thực sự của vua các nước. Chỉ có vậy mới có thể nắm chắc cơ hội thực hiện hoài bão của bản thân. Gia Cát Lượng chính là một mưu sĩ tài giỏi sinh ra trong thời thế loạn lạc, song ông rất giỏi quan sát đại thế, cuối cùng đã giúp Lưu Bị xây dựng nhà Thục Hán, hình thành nên cục diện “chia ba thiên hạ”.
Gia Cát Lượng
Gia Cát Lượng mất mẹ khi mới 3 tuổi, tới năm 8 tuổi lại mất bố, ông cùng với em trai là Gia Cát Quân theo chú Gia Cát Huyền tới nhận chức ở Dự Chương, lúc đó thái thú Dự Chương là Viên Thuật. Sau này, triều đình cử Chu Hạo lên giữ chức thay Gia Cát Huyền, Gia Cát Huyền bèn tới làm cho người bạn cũ của mình là quan mục Kinh Châu Lưu Biểu. Năm Kiến An thứ 2, Gia Cát Huyền bị bệnh mất, Gia Cát Lượng và em trai không được ai nuôi nấng, nên đã tới Nam Dương ẩn cư, tại đây, hai anh em Gia Cát Lượng sinh sống bằng nghề làm ruộng.
Cuối nhà Hán, thiên hạ loạn lạc, quần hùng tranh nhau quyền lực, thế sự nhiễu nhương, tiền đồ u tối. Gia Cát Lượng xuất thân từ tầng lớp “thường dân áo vải”, từng sống bằng nghề làm ruộng ở Nam Dương, tuy nhiên ông lại có ý chí và hoài bão vô cùng to lớn. Ông tự ví mình sánh ngang Quản Trọng, người trợ giúp Tề Hoàn Công hoàn thành bá nghiệp; tự ví mình sánh ngang Nhạc Nghị, người có tài quân sự không ai bằng. Gia Cát Lượng sinh ở Long Trung, ôm ấp hoài bão lớn lao, luôn tìm hiểu về thế sự và thường phán đoán chính xác thời thế.
Năm Kiến An thứ 20, nghe theo lời khuyên của Thủy Kính tiên sinh Tư Mã Huy và mưu sĩ Từ Thứ, Lưu Bị đã ba lần tới lều cỏ để mới bằng được Gia Cát Lượng về làm quân sư vạch kế sách cho mình. Gia Cát Lượng cảm động trước tấm lòng chân thành của Lưu Bị đã nhận lời xuống núi làm quân sư cho Lưu Bị. Gia Cát Lượng đã nói ra những suy nghĩ và phân tích của mình đối với đại thế và mưu lược chiếm đánh Trung Nguyên của mình cho Lưu Bị nghe, đó chính là “đối sách Long Trung” nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.
Dưới tiền đề hiểu rõ đại thế trong thiên hạ, Gia Cát Lượng đã giúp Lưu Bị vạch ra kế sách ngoại giao “kiêm nhược công muội” (thôn tính nước yếu, tấn công nước có chế độ chính trị mục nát).
Lưu Bị
Khi khởi nghĩa Hoàng Cân (Khăn vàng) nổ ra, Lưu Bị đứng lên triệu tập binh mã tham gia trấn áp quân Khăn vàng, đã lập công, nên được bổ nhiệm làm huyện úy, không lâu đó, ông đã từ quan vì đánh Đốc Bưu. Sau này, các chư hầu tranh giành thiên hạ, Lưu Bị thế yếu nên thường bị chèn ép. Ông đã từng làm việc cho Công Tôn Toán, Tào Tháo, Viên Thuật, Lưu Biểu, dù trải qua nhiều sóng gió, song vẫn chưa tìm được chỗ đứng cho mình. Nhân lúc xảy ra trận chiến Xích Bích, Lưu Bị đã liên minh với quân Ngô chống lại Tào Tháo và đã giành thắng lợi, nhanh chóng chiếm được Kinh Châu, Ích Châu, rồi chiếm lĩnh Hán Trung, xây dựng nên chính quyền Thục Hán.
Gia Cát Lượng nghiên cứu kỹ xu thế phát triển của lịch sử lúc bấy giờ và cho rằng từ khi Đổng Trác chuyên quyền lộng hành đến này, anh hùng hào kiệt khắp nơi đua nhau nổi dậy tranh giành đất đai, quyền lực. Người “vượt châu chiếm quận” nhiều không kể xiết. Trong đó mạnh nhất phải kể đến Tào Tháo và Viên Thiệu. Danh tiếng và gia thế của Tào Tháo đều thấp kém hơn Viên Thiệu, hơn nữa binh lực cũng yếu, tuy nhiên Tào Tháo biết nắm lấy thời cơ, vận dụng mưu lược, cuối cùng đã “lấy yếu thắng mạnh”, chỉ một lần xuất quân ở Quan Độ đã đánh bại Viên Thiệu. Tào Tháo thống soái triệu quân, bức hiếp thiên tử, sai khiến chư hầu, hơn nữa các mặt như chính trị, quân sự, ngoại giao, địa lý đều chiếm ưu thế tuyệt đối, do đó khó mà nghênh chiến với Tào Tháo.
Tôn Quyền chiếm cứ Giang Đông, đã trải ba đời, hơn nữa Trường Giang hiểm trở, dân chúng thuận hòa, được rất nhiều hiền tài tới trợ giúp, bởi vậy chỉ có thể liên minh, chứ không thể tiến đánh Tôn Quyền.
Kinh Châu phía bắc có sông Hán, sông Miện, có thể thuận lợi thông ra biển, phía đông liền với Đông Ngô, phía tây thông với đất Ba, đất Thục, đó là những vùng đất quan trọng mà các binh gia cần chiếm lấy. Mà Lưu Biểu lại hèn nhát, vô mưu, không hiểu quân sự. Dù cho đất rộng nghìn dặm, binh giáp chục vạn, song vẫn không thể giữ nổi, đó là món quà ông trời ban tặng, cần lên kế hoạch tấn công.
Ích Châu hiểm trở, đất đai ngàn dặm, có thể coi là “kho của” trời cho, Hán Cao Tổ nhờ nơi đó mà thành đế nghiệp. Lưu Chương ngu dốt chiếm giữ nơi này nên là cơ hội tốt để tiến đánh.
Trương Lỗ chiếm cứ ở phía bắc Hán Trung, mặc dù nước giàu, dân đông, song lại không biết quý trọng và bảo vệ, bởi vậy những người tài giỏi đều khao khát có được một đấng minh quân lên trị vì thay thế ông ta.
Nếu có thể đồng thời chiếm Kinh Châu và Ích Châu, giữ vững nơi hiểm trở, phía tây hòa hảo với các bộ tộc, phía nam vỗ về các dân tộc Di, Việt, bên ngoài kết liên minh với Tôn Quyền, bên trong chỉnh đốn lại chính trị, khi thiên hạ có biến thì có thể phái một tướng quân giỏi dẫn quân Kinh Châu tới Nam Dương, Lạc Dương; còn quân chủ lực tiến ra Tần Xuyên, hình thành nên thế “hỗ trợ lẫn nhau”, được như vậy, không chỉ có thể hình thành nghiệp bá, mà triều Hán cũng có thể phục hưng.
Dựa vào tình thế lúc đó, Gia Cát Lượng đã giúp Lưu Bị vạch ra mưu lược “kiêm nhược công muội”. Trước hết, ông đã phân tích một cách chính xác và toàn diện tình thế trong thiên hạ, đưa ra những đánh giá đúng đắn đối với hiện trạng của các thế lực chính trị và xu hướng hợp hay phân lúc đó, Gia Cát Lượng đã định ra phương châm chiến lược tích cực, thỏa đáng và phương án hành động cụ thể, sau đó dựa vào nhu cầu về mặt chính trị và những thay đổi của tình hình để tiến hành thôn tính nước nhỏ và tấn công nước có chế độ chính trị mục nát, từ đó đã thực hiện được mục đích chiến lược của mình, biến cái bất lợi thành cái có lợi, biến yếu thành mạnh.
Sự phát triển lịch sử của 3 nước sau đó đã chứng minh, tổng sách lược giành lấy thiên hạ mà Gia Cát Lượng vạch nên giúp Lưu Bị vô cùng đúng đắn, dựa trên nền tảng “liên minh với Tôn Quyền chống lại Tào Tháo, giành lấy Kinh Châu, Ích Châu”, ngồi chờ thời thế thay đổi, sẽ xuất quân giành lấy Trung Nguyên. Do thực thi theo sách lược này nên cuối cùng Lưu Bị đã trở thành một trong ba phần của thiên hạ, hình thành nên thế chân vạc Tam Quốc.
Trương Lương giành quyền chủ động nhờ hiểu rõ tâm lý người khác
Khi làm việc gì, trước hết, chúng ta đều cần nắm vững tình hình thực tại của bản thân, tiếp đến hiểu rõ suy nghĩ, kế hoạch của người mà chúng ta muốn kết giao. Nắm vững thời thế, rồi dựa vào tình hình cụ thể để định ra biện pháp giải quyết thì sẽ dễ dàng giành được thắng lợi, Trương Lương thời Hán rất giỏi về điều này.
Trương Lương tự là Tử Phòng, người Bắc Châu, An Huy. Sau khởi nghĩa Trần Thắng, Ngô Quảng, ông đã chiêu tập dân chúng khởi binh chống Tần, sau trợ giúp Lưu Bang và trở thành mưu sĩ quan trọng của Lưu Bang. Trương Lương từng hiến nhiều mưu kế cho Lưu Bang, khuyên Lưu Bang liên minh với Anh Bố, Bành Việt, trọng dụng Hàn Tín, khuyên Lưu Bang không nên lập 6 nước, đề xuất diệt Hạng Vũ tiêu diệt quân Sở.
Khi đó, Lưu Bang một mặt lệnh cho quan quân gấp rút chuẩn bị tấn công Vũ Quan, mặt khác mời Trương Lương tới bàn chuyện tiến vào cửa ải. Trương Lương đề xuất với Lưu Bang nên cử người tới Quan Trung làm du thuyết để nội ứng. Trương Lương giới thiệu với Lưu Bang một người nước Ngụy tên là Ninh Xương, người này thông minh, nhanh nhẹn, lại gan dạ, rất giỏi tùy cơ ứng biến. Lưu Bang rất tán thành kế sách này.
Trương Lương
Ít ai ngờ rằng, mưu thần khai quốc Trương Lương nhà Hán uy danh lừng lẫy là thế song lại không hề có tướng mạo của bậc anh hùng hào kiệt mà là mang dáng vẻ thư sinh yếu đuối giống như phụ nữ. Mặc dù, Trương Lương chưa từng ra trận nghênh chiến, song ông lại là một mưu gia quân sự nổi tiếng. Cả đời ông trợ giúp nhà Hán chống lại nhà Tần, công lao của ông đối với nhà Hán nhiều không kể xiết. Ông vạch mưu lược đại sự nào thì mưu lược đó tất thành.
Hôm sau, đại quân của Lưu Bang tiến công Vũ Quan. Vũ quan này cách phía Đông huyện Đan Phượng, Thiểm Tây 80 dặm, là cửa ải quan trọng của vùng đất Quan Trung nước Tần, cũng là khu vực giao thông chính giữa Đông và Tây. Tướng giữ Vũ quan khi đó, nhìn về phía Tây thấy Hàm Dương có Triệu Cao chuyên quyền, sát hại vương công đại thần, Nhị Thế ngu dốt, trụy lạc sa đọa; nhìn về phía Đông thấy Trung Nguyên có Vương Ly thất bại, Chương Hàm đầu hằng, đại thế đã mất; Lại thấy đại quân Lưu Bang hùng dũng, nên nhận thấy khó mà trụ vững với sức lực như hiện tại, hơn nữa nghe nói, Lưu Bang là người nhân nghĩa nên đã vội vàng mở cổng cho Lưu Bang vào.
Lưu Bang không ngờ lại có thể nhanh chóng vượt qua Vũ Quan mà không mất chút sức lực nào như vậy, nên đã vội vàng hướng tới mục tiêu tiếp theo là tấn công Kiêu Quan, bèn hạ lệnh cho đại quân tiến về phía Kiêu Quan.
Trương Lương vội nói với Lưu Bang: “Bái Công chớ nên vội vàng, mặc dù Vũ Quan dễ dàng vượt qua như vậy, song nếu không tăng cường phòng vệ thì đại quân Hạng Vũ có thể đuổi đánh phía sau, lúc đó ngài làm sao có thể ngăn nổi?”
Lưu Bang bừng tỉnh hỏi: “Vậy Tử Phòng cho rằng nên phòng thủ thế nào?”
Trương Lương nói: “Hiện nay, cần áp dụng chính sách ‘đóng cửa không tiếp khách’. Lập tức tăng cường phòng thủ Vũ Quan khiến Vũ Quan chắc như thành đồng, phái quân mạnh tướng giỏi tới trấn giữ để cắt đứt mọi liên lạc với các chư hầu bên ngoài. Có vậy, Bái Công mới có thể dễ dàng dẫn quân vào đột kích quân Tần tại Quan Trung, làm điên đảo Hàm Dương, lúc này còn lo gì không tiêu diệt được nhà Tần?”
Thế là Lưu Bang làm theo kế sách của Trương Lương, lệnh cho quân lính tăng cường trấn giữ Vũ quan, đồng thời phái tướng giỏi dẫn quân tới Kiêu Quan.
Lục Giả
Lục Giả là nhà tư tưởng, nhà chính trị đầu đời Hán. Ông là người nước Sở, sớm theo Lưu Bang bình định thiên hạ từ những ngày đầu. Ông có tài ăn nói, thường được phái đi du thuyết chư hầu. Sau khi Lưu Bang lên ngôi hoàng đế, ông nhận lệnh đi sứ sang Nam Việt, thuyết phục Úy Đà tiếp nhận vương ấn Nam Việt mà triều Hán trao tặng, xưng thần với nhà Hán, được bổ nhiệm làm Thái Trung đại phu. Hai tác phẩm nổi tiếng của ông là “Xuân thu Sở Hàn” và “Tân ngữ”.
Sau khi đóng quân xong xuôi, Lưu Bang dẫn Trương Lương và các mưu sĩ khác tới xem địa thế vùng đất này. Kiêu Quan nằm ở huyện Lam Điền, Quan Trung, nên còn có tên là Lam Điền quan, nơi đây địa thế hiểm trở, khí thế hùng vĩ, dễ phòng thủ, khó tấn công, hơn nữa Kiêu Quan do đội quân hùng hậu trấn giữ, không dễ dàng giành chiến thắng giống như Vũ Quan. Lúc này, Trương Lương khuyên Lưu Bang dứt khoát lui về giữ Vũ Quan và xem xét tình hình hai phía đông tây.
Tuy nhiên, Lưu Bang lại cho rằng, cứ ngồi giữ Vũ Quan thì chẳng khác gì “ôm cây đợi thỏ”.
Lưu Bang đã mời Trương Lương tới, nói rằng quyết phải tấn công Kiêu Quan, phải phá lưới, không được để cá chết!
Trương Lương nói với Lưu Bang: Không được!
Rồi giải thích: “‘Thái Công bình pháp’ dạy chúng ta rằng, trong chiến tranh muốn giành thắng lợi thì cần phải dựa vào dũng khí, tuy nhiên, cũng không chỉ đơn thuần dựa vào dũng khí. Kiêu Quan được bảo vệ vững chắc như thành đồng, Tử Anh quyết bảo vệ Kiêu Quan đến cùng vì ông ta biết rằng nếu để mất Kiêu Quan thì ông ta coi như mất sạch. Hơn nữa, quân Tần đang vô cùng mạnh, không có chuyện đánh một trận là thắng ngay. Do đó, không nên vội vàng tấn công lúc này, mà nên điều binh tới đỉnh núi đối diện với Kiêu Quan, giăng cờ Bái Công khắp nơi để nghi binh, khiến quân Tần có cảm giác như sắp sửa có trận chiến lớn nhằm làm giảm bớt dũng khí của họ. Ngoài ra, hiện tại, tướng Tần đều cảm thấy nước Tần đã mất đi đại thế, sắp bị diệt vong đến nơi, vì thế ý chí chiến đấu đã có phần giảm sút, chúng ta có thể phái mưu sĩ tài ba như Lịch Thực Kỳ và Lục Giả tới làm thuyết khách, ngấm ngầm làm nội ứng, như vậy thì lo gì không phá nổi Kiêu Quan”.
Thế là, Lưu Bang phái Lịch Thực Kỳ và Lục Giả mang nhiều vàng bạc châu báu tới Kiêu Quan nhằm mua chuộc các tướng lĩnh Tần trấn giữ cửa ải. Những tướng lĩnh này đang có sẵn tâm lý hoang mang lo lắng, lại thấy có người mang vàng bạc tới tặng thì đều muốn giảng hòa với Lưu Bang, nhờ đó Lưu Bang trút bỏ được một mối lo. Lưu Bang hỏi Trương Lương: “Hiện tiến đánh Kiêu Quan đã được chưa?”
Trương Lương trả lời: “Vẫn chưa đến lúc. Mặc dù Lịch Thực Kỳ và Lục Giả đã mua chuộc được tướng lĩnh, song còn cần hiểu rằng đa số quan quân của quân Tần là người Quan Trung, tổ tiên và gia đình họ đều ở đây, họ tuyệt đối không cho phép người ngoài tới xâm phạm lãnh thổ của họ, cướp đi ruộng vườn, đất đai, giết hại người thân của họ, do đó, họ nhất định sẽ chống cự đến cùng. Tấn công họ ngay bây giờ lại không bằng bao vây họ, đợi họ mệt mỏi rồi mới tiến đánh từ hai phía trước sau”.
Thế là, Lưu Bang dẫn quân chủ lực vòng qua Kiêu Quan, âm thầm băng qua Quý Sơn cách Đông Nam, Lam Điền 20 dặm, rồi bất ngờ xuất hiện phía sau quân Tần, đánh tan quân Tần ở phía nam Lam Điền, rồi tiếp tục tiến vào chiếm lĩnh Lam Điền, như vậy đã cắt đứt tuyến đường phía sau Kiêu Quan, đồng thời tấn công cả hai mặt trước sau, nên không cần đánh cũng thắng.
Như vậy, cửa ải lớn Quan Trung đã mở ra, kinh đô Hàm Dương của quân Tần không còn được bảo vệ nữa. Lưu Bang dẫn 10 vạn quân tiến vào trấn áp Hàm Dương một cách dễ dàng như thò tay vào túi lấy đồ vật. Tần Thủy Hoàng sẽ không thể ngờ được rằng, đất nước mà ông chinh chiến thống nhất và vất vả gây dựng 10 năm nay đã nhanh chóng sụp đổ khi ông mất chưa được ba năm.
Khi hai bên đối địch nhau, bên nào trí tuệ hơn thì bên đó sẽ thắng. Người trí tuệ có thể hiểu rõ tình thế, nắm vững cục diện, biết biến thế yếu thành thế mạnh, nắm chắc quyền chủ động trong tay, chính vì hiểu được điều này, lại phán đoán tốt tâm lý của người dân ở khu vực cửa ải nguy hiểm nên Trương Lương đã vận dụng tốt thuật “công tâm” (tấn công tâm lý), giành được quyền chủ động về mình.
Trương Nghi thoát khỏi khốn quẫn nhờ giỏi “sủy tình”
Phạm vi sử dụng thuật Sủy tình khá rộng, dù trong đấu tranh chính trị, đối kháng chính trị hay ngoại giao đều có thể suy đoán tâm lý và tình cảm thực sự của đối phương để đưa ra nhận định chính xác. “Biết mình biết người” của Tôn Tử cũng kỳ diệu giống như thuật Sủy của Quỷ Cốc Tử. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, xuất hiện rất nhiều nhà mưu lược giỏi vận dụng thuật Sủy, trong đó phải kể đến Trương Nghi.
Khi mới vào đời, Trương Nghi còn chưa nổi tiếng, gia cảnh ông cũng không khấm khá gì, ông rất muốn tìm kiếm địa vị bằng việc thuyết phục các chư hầu, để từ đó phát triển sự nghiệp. Trạm dừng chân đầu tiên của ông là Sính Đô - kinh đố nước Sở, ông đã trình lên Sở Vương danh thiếp của mình để xin được cầu kiến, Sở Vương tiếp đãi ông rất lạnh nhạt, sau đó cũng không biểu lộ có cần ông hay không. Nhiều ngày sau đó, Trương Nghi vẫn không nhận được hồi âm nào từ Sở Vương, ông cảm thấy rất bực bội trong lòng, mà tiền cũng đã hết. Trong lúc túng quẫn, ông đã nghĩ ra một kế, kế này làm ông phấn chấn hẳn lên, “phăm phăm” tới cầu kiến Sở Vương lần thứ hai.
Trương Nghi được mời vào bái kiến sở Vương, lúc đón, Sở Vương vừa tiếp Trương Nghi, vừa ôm mỹ nhân Nam Hậu bên trái, ôm mỹ nhân Trịnh Tụ bên phải. Trương Nghi biết Sở Vương vô cùng háo sắc, hơn nữa Nam Hậu và Trịnh Tụ đều là những mỹ nhân rất được Sở Vương sủng ái, thế là nói: “Thần đã ở nước Sở một thời gian, song chưa làm nên trò trống gì. Nếu đại vương cảm thấy thần không có ích gì thì xin để thần thử tới Tam Tấn xem sao”.
Sở Vương nói: “Vậy xin tiên sinh cứ tự nhiên”.
Trương Nghi nói: “Đại vương có yêu cầu gì đối với Tam Tấn không?”
Sở Vương nói: “Tiên sinh xem nước Sở đã có đầy đủ lụa là châu báu rồi, vậy thì quả nhân còn cần Tam Tấn làm gì chứ?”
Trương Nghi nói: “Thế lẽ nào đại vương không thích mỹ nữ sao?”
Sở Vương nghe vậy, phấn chấn hẳn lên bèn hỏi: “Tam Tấn có mỹ nữ thế nào?”
Trương Nghi trả lời: “Mỹ nữ các nước ở Trung nguyên đều tuyệt đẹp, da trắng nõn nà, duyên dáng yểu điệu chẳng khác gì tiên nữ”.
Sở Vương thôi lên: “Vậy ta thực sự rất muốn”. Thế là, lệnh cho người mang vàng bạc châu báu tới thưởng cho Trương Nghị, và lệnh cho Trương Nghi mau chóng tới Tam Tấn mang mỹ nữ về.
Sau khi nhận được rất nhiều vàng bạc châu báu từ Sở Vương, Trương Nghi lại không vội lên đường ngay, mà tiếp tục triển khai kế sách của mình. Đúng như Trương Nghi dự tính, ngay sau đó, Nam Hậu đã cho người tới tiễn Trương Nghi đi, còn mang theo nhiều vàng bạc tới tặng ông làm lộ phí đi đường, Trịnh Tụ cũng phái người mang vàng bạc tới biếu ông nhằm giữ chân ông lại Sính Đô một thời gian nữa. Nam Hậu và Trịnh Tụ làm vậy, chính là vì lo sợ mỹ nữ Trung Nguyên sẽ giành mất địa vị sủng ái của họ. Nhờ đó mà Trương Lương không chỉ được Sở Vương khen thưởng, mà còn nhận được rất nhiều tiền bạc của Nam Hậu và Trịnh Tụ, thoát khỏi tình trạng túng quẫn.
Vài ngày sau, Trương Nghi lại lấy cớ tới chào từ biệt Sở Vương để nói với Sở Vương rằng: “Thần sắp phải rời xa nước Sở rồi, cám ơn bệ hạ đã đối xử tốt với thần”. Sở Vương nói: “Đâu có, ta còn cần ngươi tìm giúp mỹ nhân mà”. Thế là, Sở Vương mở tiệc chiêu đãi tiễn chân Trương Nghi, Trương Nghi còn yêu cầu cho mời mỹ nhân mà Sở Vương sủng ái tới cùng dự tiệc.
Sở Vương đồng ý, lập tức cho mời Trịnh Tụ và Nam Hậu tới. Sau khi ngắm rất kỹ hai mỹ nhân này, Trương Nghi đột nhiên nói với Sở Vương: “Thần đáng tội chết, mong đại vương xá tội”.
Sở Vương không hiểu hỏi: “Vì sao lại như vậy?” Trương Nghi dập đầu nói: “Mấy ngày trước đây, thần có hứa sẽ sang Tam Tấn tìm mỹ nhân về cho đại vương, nhưng hôm nay nhìn lại Nam Hậu và Trịnh Tụ, thần mới biết rằng, trên thế gian này không ai có thể đẹp bằng họ, thần đúng là không biết tự lượng sức mình”.
Sở Vương nghe vậy cười nói: “Đúng vậy, ta cũng cảm thấy hai nàng đẹp nhất trên thế gian này”. Nam Hậu và Trịnh Tụ đều cười sung sướng, sau bữa tiệc, còn lén sai người tới thưởng thêm Trương Nghi.
Chính nhờ giỏi suy đoán ý nghĩ của Sở Vương và nắm bắt được tâm lý của Trịnh Tụ và Nam Hậu, nên Trường Nghi đã giúp bản thân thoát khỏi tình cảnh túng quẫn lúc bấy giờ.
ỨNG DỤNG TRONG THỜI HIỆN ĐẠI
Nâng cao giá trị bản thân nhờ biết đánh giá thời thế
Trong phần “Quỷ Cốc Tử - Sủy thiên” có viết: “Hà vị lượng quyền? Viết: Độ vu đại tiểu, mưu vu chúng quả; xứng tài hòa chi hữu vô, liệu nhân dân đa thiểu, nhiêu phạp, hữu dư bất túc kỷ hà? Biện địa hình chi hiểm dị, thục lợi thục hại? Mưu lự thục trường thục đoản? Quỹ quân thần chi thân sơ, thục hiền thục bất tiếu? Dữ tân khách chi trí duệ, thục đa thục thiểu? Quan thiên thời chi họa phúc, thục cát thục hung? Chư hầu chi thân, thục dụng thục bất dụng? Bách tính chi tâm, khứ tựu biến hóa, thục an thục nguy? Thục hiếu thục tăng? Phản trắc thục biện? Năng tri như thử giả, thị vị lượng quyền”.
Thời Dân Quốc, vị “Thổ hoàng đế” thống trị Sơn Tây là Diêm Tích Sơn nhân lúc chiến tranh quân phiệt hỗn loạn đã nổi dậy làm mưa làm gió, ông ta đã nhanh chóng mở rộng thế lực của mình, và trở thành một trong những thế lực phong kiến quân phiệt cát cứ mà Quốc Dân Đảng không thể coi thường.
Trước chiến tranh Bắc Phạt, Quốc Dân Đảng từng phái người tới thuyết phục Diêm Tích Sơn tham gia chiến tranh Bắc Phạt, song ông ta không tỏ thái độ gì, chỉ án binh bất động. Khi chiến tranh Bắc Phạt nổ ra, chính phủ Quốc dân Quảng Đông từng nhiều lần cho người tới mời ông ta liên minh cùng, song ông ta cũng vẫn không có thái độ gì, vẫn chỉ là “tọa quan hổ đấu”. Không lâu sau đó, quân Bắc Phạt nhanh chóng chiếm lĩnh hai hồ, liên tiếp giành chiến thắng quân sự. Là người giỏi quan sát tình hình chính trị, Diêm Tích Sơn đã thấy được những biến đổi nhanh chóng của cục diện chính trí, thế là lập tức thay đổi thái độ, lên tiếng hưởng ứng chiến tranh Bắc Phạt, mong muốn làm đội quân tiên phong ở phía bắc. Sau khi Tưởng Giới Thạch xây dựng chính quyền Nam Kinh, đã bổ nhiệm Diêm Tích Sơn làm “tổng tư lệnh quân cách mạng Dân quốc phía Bắc”, cho treo cờ Quốc Dân Đảng.
Tháng 2 năm 1928, Diêm Tích Sơn nhận chức tổng tư lệnh Quân đoàn 3 Quân đoàn cách mạng Dân quốc, tham gia chiến tranh Bắc Phạt chống quân phiệt do Trương Tác Lâm cầm đầu. Trong chiến tranh, Diêm Tích Sơn đã mở rộng thế lực của mình tới các vùng đất như Ký, Sát, Tuy, Bình, Tân. Về mặt chính trị, ông ta cũng gặt hái nhiều thành tựu đáng kể, chính phủ Quốc Dân Đảng bổ nhiệm ông ta làm chủ tịch phân hội đại lý Bắc Bình và chủ tịch phân hội Thái Nguyên thuộc Hội chính trị Trung Ương. Cuối năm, lại bổ nhiệm ông làm bộ trưởng nội chính, ủy viên trong Ban cấm thuốc lá, chủ tịch Ủy ban cứu trợ người bị nạn ở Ký, Tấn, Sát, Tuy và hội trưởng Ủy ban Mông Tạng (Mongolian and Tibetan Affairs Commission, ủy ban giải quyết các vấn đề của Mông cổ và Tây Tạng).
Sau khi quân Cách mạng Quốc dân đánh chiếm lại Bắc Bình, tháng 6 năm 1928, Tưởng Giới Thạch cùng Ngô Trĩ Huy xuất phát từ Nam Kinh, đi vòng qua Hán Khẩu mời Lý Tông Nhân cùng về Bắc, trên đường đi, còn mời thêm Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn. Buổi trưa ngày 6 tháng 7, phía Tưởng Giới Thạch đã tổ chức buổi lễ báo cáo trang trọng về chiến tranh Bắc Phạt trước lăng mộ Tôn Trung Sơn tại miếu Hương Sơn Bích Vân. Ngày 11, Tưởng Giới Thạch đã có buổi thảo luận về phương án chỉnh đốn quân sự và thư ý kiến quân sự với Phùng, Diệm, Lý tại Thang Sơn, và đưa ra Đại hội toàn quốc Quốc Dân Đảng khóa 5 lần thứ 2 để thông qua, yêu cầu các tập đoàn phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Trước ngày Hội nghị diễn ra, Diêm Tích Sơn đã đánh giá một cách toàn diện vị trí của mình trong “4 kẻ trùm sỏ”. Nói về thực lực, ông ta thấy tập đoàn của mình yếu nhất trong bốn tập đoàn; nói về công lao, ông ta thấy mình đóng góp ít nhất, song địa bàn có được lại rộng nhất. Diêm Tích Sơn hiểu rằng, sở dĩ Tưởng Giới Thạch ưu ái ông ta như vậy là vì muốn ông ta chèn ép hai tập đoàn Phùng và Quế. Do đó, Diêm Tích Sơn không những đã lấn át Phùng, Quế để lấy lòng Tưởng, mà còn tìm mọi cách làm cho Tưởng và Phùng, Quế mâu thuẫn nhau, còn mình ở giữa đứng ra giảng hòa, từ đó khiến Tưởng và Phùng, Quế phải vây quanh mình. Lúc này, bốn tập đoàn đã phân chia địa bàn rõ ràng, mỗi bên đều có toan tính riêng của mình. Tập đoàn của Tưởng Giới Thạch chiếm Quảng Đông và vùng Hoa Đông giàu có; tập đoàn của Phùng Ngọc Tường chiếm Sơn Đông, Hà Nam, Thiểm Tây, Cam Túc; tập đoàn của Diêm Tích Sơn chiếm Sơn Tây, Hà Bắc, Sát Cáp Nhĩ, Tuy Viễn và hai thành phố Bình, Tân; tập đoàn của Lý Tông Nhân, Bạch Sùng