← Quay lại trang sách

PHẦN 9 QUYỀN THIÊN (CÂN NHẮC KỸ CÀNG) Nguyên văn

Thuyết giả, (1) thuyết chi (2) dã; Thuyết chi giả, tư chi (3) dã. Sức ngôn (4) giả, giả chi (5) dã; Giả chi giả, ích tổn (6) dã. Ứng đối (7) giả, lợi từ (8) dã; Lợi từ giả, khinh luận (9) dã. Thành ý giả, minh chi dã; (10) Minh chi giả, phù nghiệm (11) dã. Nan ngôn (12) giả, khước luận (13) dã; Khước luận giả, điếu cơ (14) dã.

Chú thích

1. Thuyết giả: Du thuyết.

2. Thuyết chi: Thuyết phục người khác.

3. Tư chi: Giúp đỡ người khác, ở đây có nghĩa là muốn người khác tiếp nhận thì cần lợi dụng tâm tư của người khác, dựa vào cách tư duy và hành vi của người khác.

4. Sức ngôn: Nói năng chau chuốt.

5. Giả chi: Giả mượn để thuyết phục người khác.

6. Ích tổn: Làm mạnh lên và làm yếu đi. Làm tăng sức mạnh của lời nói và làm yếu đi sự trở ngại về tâm lý.

7. Ứng đối: Nhận lời đối đáp.

8. Lợi từ: Từ ngữ xảo biện hoặc từ ngữ phô trương.

9. Khinh luận: Giảm biện luận, nói ngắn gọn, có sức thuyết phục.

10. Thành nghĩa giả, minh chi dã: Lời lẽ hợp tình hợp lý, khiến đối phương hiểu ra.

11. Phù nghiệm: Phù hợp ứng nghiệm, tức là đã được kiểm chứng.

12. Nan ngôn: Lời lẽ trách cứ, chỉ trích.

13. Khước luận: Luận điệu phản đối.

14. Điếu cơ: Dụ dỗ đối phương nói ra những điều bí mật giấu kín trong lòng.

Quyền: Vốn có nghĩa là quả cân. Trong “Quảng nhã - Thích khí” có nói: “Quả cân được gọi là quyền”. Trong “Trang Tử - Án khiếp” thì nói: “Quyền có nghĩa là cân nhắc mức độ nặng nhẹ, đúng sai”. Còn trong “Mạnh Tử - Ly lâu” lại nói: “Quyền có nghĩa là quyền biến”. “Quyền” trong phần này có nghĩa là cân nhắc, suy tính và tùy cơ ứng biến. Sau khi đã “sủy” và “ma” để hiểu tường tận về đối phương thì cần dựa theo đặc điểm tính cách, nội dung trò chuyện, cũng như sách lược và kỹ xảo thuyết phục người khác của đối phương để có sự lựa chọn, cân nhắc và suy tính kỹ càng, đó chính là “quyền”.

Dịch nghĩa

Du thuyết chính là thuyết phục người khác tiếp nhận chủ trương của mình; Thuyết phục người khác thì cần lợi dụng suy nghĩ và tình cảm của người khác. Nói năng trau chuốt, chính là dựa vào đó để làm tăng sức thuyết phục; tăng sức thuyết phục chính là làm tăng sức mạnh của lời nói và làm yếu đi sự cản trở về mặt tâm lý. Đối phó với những ngờ vực của đối phương, chính là cần dùng lời lẽ sắc bén để đối phó với anh ta; Lời lẽ sắc bén, chính là biện luận ít, nói ngắn gọn song có sức thuyết phục. Nói hợp tình hợp lý, chính là để đối phương hiểu ra; Để đối phương hiểu ra, chính là để đối phương kiểm chứng thông qua hiệu quả thực tế. Lời lẽ trách cứ, chỉ trích, chính là cần để đối phương phản bác lại mình; khi đối phương phản bác lại mình thì có thể “moi” được những điều thầm kín trong lòng đối phương.

Nguyên văn

Nịnh ngôn (1) giả, xiểm nhi cán trung; Du ngôn (2) giả, bác nhi cán trí; Bình ngôn (3) giả, quyết nhi cán dũng; Thích ngôn (4) giả, quyền nhi cán tín; Tĩnh ngôn (5) giả, phản nhi cán thắng. Tiên ý thừa dục giả, (6) xiểm dã; Phồn xứng văn từ giả, (7) bác dã; Sách tuyển tiến mưu giả, quyền dã; Túng xả bất nghi giả, quyết dã; Tiên phân bất túc nhi thất phi giả, phản dã.

Chú thích

1. Nịnh ngôn: Biết nói lý lẽ, giỏi ăn nói. Nịnh ở đây chính là giỏi dùng lời lẽ hoa mỹ để nịnh nọt người khác.

2. Du ngôn: Du là tâng bốc, phỉnh nịnh; Du ngôn là lời lẽ tâng bốc, phỉnh nịnh. “Du” và “xiểm” có nghĩa giống nhau, tuy nhiên “du” trong thời cổ đại chỉ có nghĩa là phỉnh nịnh bằng lời nói, còn “xiểm” không chỉ giới hạn ở lời nói.

3. Bình ngôn: Lời lẽ trung thực, đáng tin cậy.

4. Thích ngôn: Bi ai, phiền muộn.

5. Tĩnh ngôn: Lời nói bình tĩnh.

6. Tiên ý thừa dục giả: Khi đối phương vừa le lói một tia hy vọng nào đó thì cần đón lấy bằng lời lẽ xu nịnh.

7. Phồn xứng văn từ giả: Người có kiến thức sâu rộng, có thể đưa ra nhiều dẫn chứng, lý lẽ, ăn nói trôi chảy, thao thao bất tuyệt.

Trước hết, phần này đề cập tới mục đích du thuyết của người du thuyết: “Thuyết chi giả, thuyết chi dã”; nên làm thế nào để thực hiện mục đích của mình: “Thuyết chi giả, tư chi dã”; và một số nguyên tắc cơ bản khi du thuyết: “Sức ngôn giả, giả chi dã; giả chi giả, ích tổn dã”, “nan ngôn giả, khước luận dã; khước luận giả, điếu cơ dã”. Tiếp đến, đưa ra năm kỹ xảo du thuyết là “nịnh ngôn”, “du ngôn”, “bình ngôn”, “thích ngôn” và “tĩnh ngôn”.

Dịch nghĩa

Người giỏi ăn nói sẽ được tiếng là trung thành vì biết lấy lòng người khác; Người giỏi nịnh bợ thể hiện rõ trình độ học thức và mưu trí của mình; Người ăn nói trung thực toát lên sự quả cảm và dũng khí; Người nói năng chứa đầy sự âu lo, sẽ biết cân nhắc lợi hại, khiến người khác tin tưởng; Còn người nói năng bình tĩnh, lại có thể giành được thắng lợi nhờ biết phản kháng. Người biết thổi phồng dục vọng bằng lời lẽ hoa mỹ chính là xiểm nịnh; Người có kiến thức sâu rộng, có thể đưa ra nhiều dẫn chứng, lý lẽ, chính là bác học; người giỏi hiến mưu kế dựa vào tài khuếch trương, khiến cấp trên thích thú, chính là người nắm quyền; người tiến lùi không do dự, chính là người quyết đoán; người làm sai, lại trách cứ người khác, chính là người phản kháng.

Nguyên văn

Cố khẩu giả, cơ quan dã, sở dĩ quan bế tình ý dã. Nhĩ mục giả, tất chi tá trợ (1) dã, sở dĩ khuy gián (2) kiến gian tà. Cố viết: Tham điều nhi ứng, lợi đạo nhi động. (3) Cố phồn ngôn (4) nhi bất loạn, cao tường nhi bất mê, biến dịch nhi bất nguy giả, quan yếu đắc lý. (5) Cố vô mục giả, bất khả thi dĩ ngũ sắc, vô nhĩ giả bất khả cáo dĩ ngũ âm. (6) Cố bất khả dĩ vãng giả, vô sở khai chi dã; Bất khả dĩ lai giả, vô sở thụ chi dã. Vật hữu bất thông giả, cố bất thị dã. (7) Cổ nhân hữu ngôn viết: “Khẩu khả dĩ thực, bất khả dĩ ngôn”. Ngôn giả, hữu vi kỵ dã. Chúng khẩu thước kim, ngôn hữu khúc cố (8) dã.

Chú thích

1. Tá trợ: Người phụ giúp.

2. Khuy: Ngầm quan sát. Gián: Khe hở.

3. Tham: Chính là “tam”, tức là ba bộ phận miệng, tai và mắt. Lợi đạo nhi động: Đi theo đường có lợi trước, rồi hành động sau.

4. Phồn ngôn: Lời lẽ phức tạp.

5. Biến dịch nhi bất nguy giả, quan yếu đắc lý: Vạn vật thay đổi mà không gặp nguy hiểm nào từ đầu đến cuối, chính là vì quan sát được điểm mấu chốt.

6. Ngũ sắc: Thời cổ đại gọi màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen là ngũ sắc, hiểu theo nghĩa rộng là rất nhiều màu. Ngũ âm là năm bậc âm thanh cơ bản của âm nhạc thời cổ đại là cung, thương, giốc, chủy và vũ.

7. Vật hữu bất thông giả, cố bất thị dã: Sự vật không hòa hợp, thông suốt, bởi vậy không làm nên việc gì.

8. Ngôn hữu khúc cố: Nguyên nhân là vì lời nói có sự sai khác.

Dịch nghĩa

Có thể nói, miệng là một cơ quan của cơ thể, có thể dùng để giãi bày và giấu kín tình cảm trong lòng. Tai và mắt là trợ thủ của tâm hồn, dùng chúng để quan sát và phát hiện gian tà. Bởi vậy, có thể nói miệng, tai và mắt hỗ trợ lẫn nhau, giúp con người phát triển theo hướng thuận lợi cho mình. Do đó, lời lẽ phức tạp, chứa đầy tâm tư mà không hề rối bời, tự do bay bổng mà không hề mụ mị, vạn vật thay đổi mà không hề gặp nguy hiểm từ đầu tới cuối, chính là nhờ biết quan sát điểm mấu chốt, nắm vững được quy luật. Bởi vậy, không nên để người mù quan sát các loại màu sắc; không nên để người điếc nghe các loại âm thanh. Sở dĩ không thể tới du thuyết anh ta, là vì anh ta quá ngu muội không đáng đả thông. Sở dĩ không thể tới du thuyết anh ta, là vì anh ta quá nông cạn, không có khả năng tiếp thu. Sự vật không hòa hợp, thông suốt nên không thể làm nên việc gì. Người xưa có câu nói: “Miệng có thể ăn thức ăn tùy ý, song không thể nói năng tùy thích”, chính là vì lời nói có sự cấm kỵ. “Lời nói được số đông nhất trí thì có thể nung chảy được cả kim loại”, chính là vì lời nói có sự lệch lạc.

Phần này chỉ ra điều cần lưu ý khi muốn thành công nhờ vào lời nói: đó là chú ý kết hợp ba bộ phận mắt, tai, và miệng, vậy nên mới nói: “Tham điều nhi ứng, lợi đạo nhi động”; ngoài ra, còn cần lựa chọn cẩn thận đối tượng du thuyết, nên mới nói: “Vô mục giả, bất khả thi dĩ ngũ sắc; Vô nhĩ giả bất khả cáo dĩ ngũ âm… Vật hữu bất thông giả, cố bất thị dã”; Càng cần thiết phải ngăn chặn âm mưu và toan tính của kẻ địch, nên mới nói: “Chúng khẩu thước kim, ngôn hữu khúc cố dã”.

Nguyên văn

Nhân chi tình, xuất ngôn tắc dục thính, (1) cử sự (2) tắc dục thành. Thị cố tri giả bất dụng kỳ sở đoản, nhi dụng ngu nhân chi sở trường; bất dụng kỳ sở chuyết, nhi dụng ngu nhân chi sở công, (3) cố bất khốn (4) dã. Ngôn kỳ hữu lợi giả, tòng kỳ sở trường dã; ngôn kỳ hữu hại giả, tị kỳ sở đoản dã. Cố giới trùng (5) chi cán (6) dã, tất dĩ kiên hậu; (7) Thích trùng chi động dã, tất dĩ độc thích. (8) Cố cầm thú tri dụng kỳ trường, nhi đàm giả (9) diệc tri kỳ dụng nhi dụng dã.

Chú thích

1. Thính: ở đây là chỉ phương pháp làm cho xúc động, khiến ai đó nghe theo.

2. Cử sự: Giải quyết công việc, làm việc.

3. Công: Khéo léo, tinh tế.

4. Khôn: ở vào tình cảnh khó khăn, nguy khốn.

5. Giới trùng: Trùng cánh cứng.

6. Cán: Bảo vệ, giữ gìn.

7. Kiên hậu: Chỉ vỏ bọc cứng và dày.

8. Độc thích: Châm nọc độc.

9. Đàm giả: Chỉ người du thuyết.

Dịch nghĩa

Con người thể hiện tâm tư của mình bằng lời nói, thường mong muốn người khác nghe theo, còn làm việc gì cũng muốn thành công. Do vậy, người có trí tuệ sẽ không dùng điểm yếu của mình mà thường lợi dụng điểm mạnh của kẻ ngốc; không dùng cái lóng ngóng, vụng về của mình mà thường lợi dụng sự khéo léo, tinh tế của kẻ ngốc, bởi vậy mọi việc sẽ trở nên đơn giản, không còn khó khăn nữa. Chúng ta thường nói làm thế nào có lợi cho bản thân, chính là cần phát huy sở trường của mình; Làm thế nào để tránh điều bất lợi cho bản thân, đó chính là giấu đi sở đoản của mình. Bởi vậy, bọ cánh cứng muốn bảo vệ mình khỏi sự tấn công của kẻ thù bên ngoài thì chắc chắn phải dựa vào lớp vỏ bọc cứng và dày của chúng; Những động vật có nọc độc muốn tấn công kẻ khác thì nhất thiết phải châm nọc độc vào đối phương. Côn trùng, muông thú đều biết lợi dụng sở trường của mình, thì người du thuyết, sách sĩ càng cần biết phải làm thế nào để phát huy sở trường của mình.

Nguyên văn

Cố viết: Từ ngôn (1) hữu ngũ, viết bệnh, viết oán, viết ưu, viết nộ, viết hỷ. Bệnh giả, cảm suy khí, (2) nhi bất thần (3) dã. Oán giả, trường tuyệt (4) nhi vô chủ (5) dã. Ưu giả, bế tắc (6) nhi bất tiết (7) dã. Nộ giả, vọng động (8) nhi bất trị (9) dã. Hỷ giả, tuyên tán (10) nhi vô yếu dã. Thử ngũ giả tinh tắc dụng chi, lợi tắc hành chi.

Chú thích

1. Từ ngôn: Ngôn ngữ trò chuyện

2. Suy khí; Khí thế giảm xuống.

3. Bất thần: Không có tinh thần.

4. Trường tuyệt: Cực kỳ đau buồn.

5. Vô chủ: Không có chủ ý.

6. Bế tắc: Bịt kín

7. Bất tiết: Không thể phát tiết ra.

8. Vọng động: Làm bừa, hành động thiếu suy nghĩ.

9. Bất trị: Không có quy củ.

10. Tuyên tán: Tản mạn, không tập trung.

Dịch nghĩa

Bởi vậy nói, ngôn ngữ trò chuyện có năm loại: Một là ngôn ngữ bệnh thái, hai là ngôn ngữ ai oán, ba là ngôn ngữ âu lo, bốn là ngôn ngữ phẫn nộ, năm là ngôn ngữ vui mừng. Thông thường, ngôn ngữ bệnh thái là chỉ lời nói ở vào tình trạng tinh thần tồi tệ; ngôn ngữ ai oán là chỉ lời nói bi thảm, buồn khổ, không có chủ kiến; ngôn ngữ âu lo là chỉ tình cảm bế tắc, không thể phát tiết ra; ngôn ngữ phẫn nộ là chì hành động thô lỗ, không có quy củ, trật tự; ngôn ngữ vui mừng là chỉ lời nói lan man, không tập trung vào trọng tâm. Trên đây là năm loại ngôn ngữ có thể sử đụng khi trò chuyện với người khác, nếu tinh thông thì có thể sử dụng, nếu thấy có lợi thì có thể thực thi.

Nguyên văn

Cố dữ trí giả ngôn, y vu bác; dữ bác giả ngôn, y vu biện; dữ biện giả ngôn, y vu yếu; dữ quý giả ngôn, y vu thế; dữ phú giả ngôn, y vu cao; dữ bần giả ngôn, y vu lợi; dữ tiện giả ngôn, y vu khiêm; dữ dũng giả ngôn, y vu cảm; (1) dữ quá giả (2) ngôn, y vu nhuệ. (3) Thử kỳ thuật dã, nhi nhân thường phản chi. (4) Thị cố dữ trí giả ngôn, tương dĩ thử minh chi; dữ bất trí giả ngôn, tương dĩ thử giáo chi; nhi thậm nan vi dã. Cố ngôn đa loại, (5) sự đa biến. Cố trung nhật ngôn bất thất kỳ loại, nhi sự bất loạn; trung nhật bất biến, nhi bất thất kỳ chủ, (6) cố tri quý bất vọng. (7) Thính quý thông, tri quý minh, từ quý kỳ.

Chú thích

1. Cảm: Quả cảm.

2. Quá giả: Người có chí tiến thủ.

3. Nhuệ: Kiên quyết.

4. Phản chi: Dùng ngược lại.

5. Ngôn đa loại: Có rất nhiều ngôn ngữ trò chuyện. Loại là chủng loại.

6. Chủ: Ý nghĩa chính.

7. Trí quý bất vọng: Điều đáng quý ở người thông minh chính là không làm mọi việc rối ren.

Dịch nghĩa

Bởi vậy, khi trò chuyện với người thông minh, trí tuệ thì cần dựa vào kiến thức uyên thâm; khi trò chuyện với bác học thì cần dựa vào hùng biện; khi trò chuyện với người giỏi hùng biện thì cần dựa vào điểm mấu chốt; khi trò chuyện với người tôn quý thì cần dựa vào khí thế; khi trò chuyện với người giàu có thì cần dựa vào sự nho nhã, thanh cao; khi trò chuyện với người nghèo khổ, cơ cực thì cần dựa vào lợi ích; khi trò chuyện với người ti tiện thì cần dựa vào sự khiêm nhường; khi trò chuyện với người dũng cảm thì cần dựa vào sự quả cảm; khi trò chuyện với người có chí tiến thủ thì cần dựa vào sự kiên quyết. Tất cả đều là phương pháp trò chuyện, mà chúng ta thường lại dùng ngược lại. Do đó, khi trò chuyện với người thông minh thì cần vận dụng những biện pháp này và làm rõ đạo lý; khi trò chuyện với người kém thông minh thì cần vận dụng những biện pháp này và dựa thêm giáo huấn. Tuy nhiên, thực tế rất khó làm được. Bởi vậy, có rất nhiều cách trò chuyện, mà sự vật thì thiên biến vạn hóa. Do đó, cả ngày trò chuyện mà biết vận dụng những biện pháp cơ bản này thì sẽ không làm sự việc rối tung. Cuối ngày vẫn áp dụng chúng thì không lo sự việc không thành, bởi vậy cái đáng quý của người thông minh chính là không làm mọi việc trở nên lộn xộn. Khi lắng nghe quý ở sự nhạy bén, trí tuệ quý ở sự cao minh, ngôn từ quý ở sự kỳ diệu.

Muốn du thuyết thành công thì người du thuyết phải giữ được thái độ bình tĩnh, tư thế đinh đạc, phong thái ung dung, phải biết giấu kín cảm xúc trong lòng, dù vui buồn, phẫn nộ, hoang mang hay bi ai đều không được bộc lộ ra, vì nếu để đối phương biết được thì đối phương sẽ nhìn thấu suy nghĩ của người du thuyết, và sẽ kiểm soát được anh ta, như vậy việc du thuyết sẽ gặp thất bại.

ĐIỂN CỐ MƯU LƯỢC

Khổng Tử giỏi đánh giá, giáo huấn tùy người

Nội dung mà chương này đề cập tới là làm thế nào phán đoán được tình thế để từ đó thuyết phục đối phương bằng tài ăn nói của mình, sở dĩ người du thuyết thời xưa thành công là vì họ nắm vững mọi tình thế và đặc điểm của đối phương để từ đó có biện pháp phù hợp. Thánh hiền Khổng Tử xưa kia cũng rất giỏi dựa vào đặc điểm khác nhau của học trò để có biện pháp giáo huấn hợp lý, đây chính là tài giỏi thuyết phục nhờ biết đánh giá tình thế.

Một hôm, học trò Tử Lộ hỏi Khổng Tử rằng: “Văn tư hành chư?”, có nghĩa là “nghe thấy một việc nên làm thì có nên đi làm ngay hay không?” Khổng Tử trả lời: “Trong nhà ngươi còn có cha và anh, ngươi nên hỏi họ trước xem sao”.

Trọng Do

Trọng Do, tự là Tử Lộ, còn gọi là Quý Lộ, người nước Lỗ, là môn sinh đắc ý của Khổng Tử, có tài về chính trị. Ông là người tính tình cương trực, ngay thẳng, thấy việc bất bình không tha, trung thành với đất nước, là một học trò có tính cách khá lập dị trong số học trò của Khổng môn. Trọng Do từng cùng Khổng Tử chu du liệt quốc, là một trong 12 bậc hiền tài của Khổng môn, được Khổng Tử đánh giá là người dũng cảm. Sau này, Trọng Do làm huyện lệnh Bồ Châu nước Vệ, khi nước Vệ xảy ra nội chiến, ông tham gia chiến tranh và bị sát hại.

Vài ngày sau, một học trò khác tên là Nhiễm Hữu cũng hỏi ông một câu hỏi tương tự như vậy: “Thưa thầy, nghe thấy một việc nên làm thì có nên đi làm ngay hay không?”. Khổng Tử trả lời: “Có, nên đi làm ngay”.

Cùng một câu hỏi mà Khổng Tử lại đưa ra hai câu trả lời khác nhau, học trò Công Tây Hoa cảm thấy rất lạ, bèn mang khúc mắc này tới hỏi ông: “Thưa thầy, Tử Lộ hỏi thầy khi nghe thấy một việc nên làm thì có nên làm ngay hay không thì thầy đã trả lời là về hỏi cha và anh. Trong khi Nhiễm Hữu hỏi thầy câu hỏi đó thì thầy lại trả lời là nên đi làm ngay. Thầy có thể giải thích vì sao lại có sự khác biệt trong câu trả lời được không?”

Khổng Tử nói: “Tử Lộ là người hiếu thắng, tính khí dễ nổi nóng, bởi vậy ta muốn anh ta suy nghĩ mọi việc cẩn trọng hơn. Còn Nhiễm Hữu là người nhút nhát, bởi vậy ta muốn khích lệ anh ta làm việc quyết đoán hơn, nên mới bảo anh ta phải hành động ngay”. Nghe thầy giải thích như vậy, Công Tây Hoa chợt hiểu ra, và vô cùng ngưỡng mộ thầy. Hóa ra, bình thường Khổng Tử rất quan tâm và để ý tới tính cách, sở thích và sở trường của từng học trò, từ đó có biện pháp giáo huấn cụ thể đối với từng học trò.

Có một lần, Khổng Tử đề nghị Tử Lộ và Nhiễm Hữu nói về chí hướng của mình. Tử Lộ lập tức đứng lên nói: “Nếu để học trò trị vì một đất nước đang có chiến tranh hỗn loạn, nhân dân cơ cực, nhưng có hàng nghìn xe chiến thì chỉ cần ba năm học trò có thể trị vì đất nước bình yên, khiến dân chúng an cư lập nghiệp, binh sĩ dũng cảm, tài giỏi”, trong khi Nhiễm Hữu nghĩ mãi mới trả lời: “Nếu để học trò trị vì một nước nhỏ, thì sau ba năm, học trò có thể khiến dân chúng ấm no, còn để xây dựng chế độ lễ nhạc thì phải để bậc quân tử làm”. Qua hai câu trả lời này, có thể thấy rõ đặc điểm tính cách của hai người, một người nóng vội, còn một người nhút nhát. Bình thường, Khổng Tử rất chú ý quan sát học trò của mình để từ đó đưa ra biện pháp giáo huấn phù hợp.

Lỗ Trọng Liên cứu Triệu nhờ nói thẳng

Quỷ Cốc Tử nói: “Bình ngôn giả, quyết nhi cán dũng”, bình ngôn chính là dùng lời lẽ thẳng thắn, thành thực để nói ra ý kiến của mình, đồng thời dựa vào sự quả quyết, đáng tin cậy trong lời nói để làm tăng mức độ thành thực của bản thân, có vậy mới đạt được mục đích của mình. Lỗ Trọng Liên đã dùng “bình ngôn” để cứu nước Triệu.

Quân Tần bao vây kinh đô Hàm Đan của nước Triệu, các chư hầu không ai dám xuất quân đi cứu viện nước Triệu. Ngụy Vương phái tướng quân Tân Viên Diễn tới Hàm Đan nói với vua Triệu tôn nước Tần làm đế. Đúng lúc này, mưu sĩ nước Tề là Lỗ Trọng Liên đang ở nước Triệu, khi biết được tin này đã tới gặp Bình Nguyên Quân nước Triệu là Triệu Thắng. Triệu Thắng lại giới thiệu ông tới gặp Tân Viên Diễn. Lỗ Trọng Liên tới gặp Tân Viên Diễn, song lại không nói gì.

Tân Viên Diễn nói: “Tôi thấy những người sống ở trong thành bị vây khốn này thường tìm tới Bình Nguyên Quân để xin giúp đỡ, nhưng trông tiên sinh phong thái đĩnh đạc, không có vẻ gì là cầu xin cả. Vậy sao cứ ở mãi trong thành bị vây này mà không đi?”

Lỗ Trọng Liên nói: “Tần là một nước bỏ lễ nghĩa mà chuộng công lợi, cậy sức mạnh bức hiếp tướng sĩ, coi dân chúng là nô lệ. Nếu để Tần xưng đế thì Liên này thà nhảy xuống biển Đông mà chết, chứ không chịu làm dân nước ấy. Mục đích của tôi tới gặp tướng quân chính là xin ngài giúp đỡ nước Triệu”.

Tân Viên Diễn nói: “Giúp thế nào đây?”

Lỗ Trọng Liên nói: “Tôi sẽ nhờ nước Lương (nước Ngụy) và nước Yên giúp nước Triệu, còn nước Tề và nước Sở vốn đang giúp nước Triệu rồi”.

Tân Viên Diễn nói: “Tôi không biết rõ tình hình nước Yên, còn về nước Lương thì tôi chính là người nước Lương, xin tiên sinh nói xem làm thế nào khiến nước Lương cũng giúp nước Triệu đây?”

Lỗ Trọng Liên nói: “Nước Lương không muốn giúp nước Triệu là vì không nhìn thấy cái hại khi nước Tần xưng đế. Do đó, nếu để nước Lương thấy được cái hại này thì nhất định sẽ giúp nước Triệu”.

Tân Viên Diễn lại hỏi: “Nước Tần xưng đế có hại gì?” Lỗ Trọng Liên nói: “Năm xưa, Tề Uy Vương từng làm nhiều việc nhân nghĩa, dẫn chư hầu trong thiên hạ đi triều kiến Chu Thiên tử. Khi triều Chu suy yếu, các chư hầu đều không muốn đi nữa, chỉ có Tề Nguy Vương vẫn nhất quyết đi. Hơn một năm sau, Chu Liệt Vương chết, các chư hầu đều tới viếng, nước Tề mãi mới tới. Thiên tử mới là Chu Hiển Vương vô cùng tức giận, báo tang tới nước Tề nói: ‘Trời long đất lở, Chu Thiên tử đã băng hà! Chu Hiển Vương ngồi chịu tang trên chiếu cỏ, vậy mà đại thần Điền Anh nước Tề ở phía Đông mãi mới tới, nên chặt đầu ông ta’. Tề Uy Vương đột nhiên quát lớn: ‘Hừm, tên nhóc này khéo dạy con thật!’ Và như vậy, Tề Uy Vương đã bị mọi người cười chê khinh bỉ. Sở dĩ, ông bái kiến Chu Vương khi ông ta còn sống và mắng chửi sau khi ông ta chết, là vì quả thực không thể chịu nổi sự đòi hỏi quá khe khắt thêm nữa! Tuy nhiên, Chu Hiển Vương là Thiên tử, vốn là vậy, yêu cầu của ông ta cũng không có gì đáng ngạc nhiên cả”.

Tân Viên Diễn nói: ”Lẽ nào tiên sinh không nhìn thấy những kẻ tôi tớ đó? Mười người phục dịch một người, lẽ nào là vì sức mạnh của mười người không thể bằng một người, trí tuệ của mười người không thể bằng một người? Chỉ là vì sợ chủ mà thôi!”.

Lỗ Trọng Liên

Lổ Trọng Liên còn được gọi là Lỗ Liên, là người Trì Bình hiện nay. Ông là một danh sĩ thời Chiến Quốc, giỏi vạch mưu kế, sách lược, thường chu du các nước và giúp các nước giải quyết khó khăn. Năm Triệu Hiếu Vương thứ 9, nước Tần vây khốn kinh đô Hàm Đan nước Triệu. Trước sức ép của nước Tần, vua Ngụy đã phái sứ thần tới khuyên vua Triệu xưng Tần làm đế, vua Triệu do dự không quyết. Với tài năng của mình, Lỗ Trọng Liên đã phân tích ra được điều lợi hại, khiến hai nước Triệu và Ngụy (Lương) liên minh lại kháng Tần. Thấy hai nước hợp sức lại như vậy, quân Tần đã phải lui binh.

Lỗ Trọng Liên hỏi lại: “Lẽ nào nước Lương so với nước Tần lại giống như những kẻ tôi tớ đó?”

Tân Viên Diễn nói: “Đúng vậy!”

Lỗ Trọng Liên nói: “Nếu nói như vậy, tôi sẽ để vua Tần mổ và nấu chín vua Lương!”.

Tân Viên Diễn phật ý nói: “Tiên sinh hơi quá lời rồi đấy! Tiên sinh có cách gì khiến được vua Tần mổ và nấu chín vua Lương không?” Lỗ Trọng Liên nói: “Tôi nhất định làm được. Tướng quân nghe này, xưa kia, Quỷ Hầu, Ngạc Hầu và Văn Vương là tam công của vua Trụ; Quỷ Hầu có người con gái đẹp đem dâng vua Trụ, vua Trụ cho là xấu nên đã giết và nấu chín Quỷ Hầu. Ngạc Hầu vội khuyên can, liền bị vua Trụ mổ bụng, cho lên quay. Văn Vương hay tin, chỉ dám than thầm mà cũng bị vua Trụ bắt giam trăm ngày suýt chết. Vì sao cùng xưng vương mà lại bị mổ thịt và nấu chín như vậy? Tề Dẫn Vương sắp tới nước Lỗ, Di Duy Tử đi theo giữ ngựa, anh ta nói với người nước Lỗ: ‘Các anh sẽ đối xử với vua của tôi như thế nào?’ Người nước Lỗ nói: ‘Chúng tôi sẽ giết mười con bò để chiêu đãi vua của các anh’. Di Duy Tử nói: ‘Vua của tôi là Thiên tử. Thiên tử đi tuần tra các nước chư hầu, nước chư hầu nên nhường điện lại cho Thiên tử, đích thân phục vụ Thiên tử, kê bàn ăn cho Thiên tử, còn mình hầu hạ thiên tử dưới điện. Đợi Thiên tử ăn xong mới được lui ra đi xử lý quốc sự’. Sau khi nghe xong, người Lỗ đóng cửa lại, không cho Di Duy Tử vào nữa. Họ lại đi tới vùng đất Tiết, trên đường đi phải qua nước Trâu. Gặp đúng lúc vua nước Trâu vừa chết, Tề Dẫn Vương muốn tới phúng viếng. Di Duy Tử nói với thái tử nước Trâu: ‘Thiên tử tới phúng viếng, các anh phải thay đổi vị trí linh cữu, linh cữu đang tọa bắc hướng nam thì nên đổi lại thành tọa nam hướng bắc, thì Thiên tử sẽ phúng viếng hướng nam’. Quần thần nước Trâu nói: ‘Nếu phải làm vậy thì chúng tôi sẽ cắt cổ mà chết’, họ lại không dám vào nước Trâu nữa. Hai nước Trâu và Lỗ đều là nước nghèo đói, khi vua còn sống, thần tử không hầu hạ phụng dưỡng, sau khi vua chết đi, thần tử không hành lễ. Tuy nhiên, nếu ai đó muốn ép thần tử hai nước Trâu và Lỗ hành lễ Thiên tử với anh ta thì họ sẽ không đồng ý. Nếu nước Tần giàu mạnh, có cả vạn xe chiến, nước Lương cũng là nước vạn xe chiến, hai nước đều xưng vương, nhìn thấy đối phương đánh một trận đã thắng thì muốn làm nô bộc của anh ta, gọi anh ta là đế. Làm như vậy, đại thần ba nước Triệu, Hàn và Lương quả thực còn không bằng nô tỳ của hai nước Trâu và Lỗ. Nếu không ngăn cản việc Tần xưng đế thì ông ta sẽ thay đổi lại hết đại thần của các nước chư hầu, ông ta sẽ cách chức những đại thần mà ông ta cho là không tài giỏi để thay thế những người mà ông ta cho là tài giỏi; ông ta sẽ phế truất những người mà ông ta ghét bỏ để thay những người ông ta yêu mến. Ông ta còn cho con gái mình và những cung tần mỹ nữ mà ông ta sủng ái tới làm phi tần, tỳ thiếp của các chư hầu để lấy thông tin của họ. Khi những người này tới nước Lương thì liệu vua Lương còn sống bình an hay không? Liệu tướng quân còn được sủng ái như hiện nay hay không?

Tân Viên Diễn nghe tới đây thì đứng dậy cám ơn Lỗ Trọng Liên rối rít nói: “Hôm nay, tôi mới được biết tiên sinh quả là hiền sĩ trong thiên hạ. Tôi sẽ rời khỏi nước Triệu ngay, sẽ không nhắc tới chuyện giúp vua Tần xưng đế nữa”. Sau khi tướng Tần biết được chuyện này, đã rút quân ra khỏi thành nước Triệu 50 dặm.

Trong câu chuyện này, Lỗ Trọng Liên đã sử dụng những câu nói thẳng thắn, trung thực và công bằng, không hề nịnh bợ, cũng không đe dọa hay uy hiếp đối phương, ông đã làm tăng thêm độ tin cậy và nghiêm túc trong từng lời nói của mình dựa vào phương thức quyết đoán, dứt khoát, do đó đã khiến Tân Viên Diễn thấy được những điều lợi hại của việc này và đã rời khỏi nước Triệu.

Tô Thức nói: “Tài biện luận của Lỗ Trọng Liên còn hơn cả Trương Nghi và Tô Tần, phong thái đĩnh đạc của ông còn hơn cả Thuần Vu Khôn và Trâu Diễn. Ông có thể giải quyết mọi khó khăn gặp phải, lập công mà không đòi khen thưởng, thời Chiến Quốc chỉ ông mới làm được điều đó”. Mục Văn Hy nói: “Lỗ Trọng Liên đã phá tan kế hoạch xưng đế của nước Tần, khiến tướng Tần phải lui binh. Đây chính là ‘Miếu chiến’ được nói tới trong cuốn ‘Hoài Nam Tử - Binh lược huấn’, thắng kẻ địch ở Miếu đường mà không cần dùng tới binh lực”.

Ngu Khanh phản đối cắt đất cầu hòa

Quỷ Cốc Tử nói: “Tĩnh ngôn giả, phản nhi cán thắng”. Tỉnh ngôn chính là dùng lời lẽ bình tĩnh, chắc chắn để phản bác lại đối phương khi tìm ra thiếu sót trong mưu kế của đối phương, khiến đối phương tâm phục khẩu phục và tiếp nhận quan điểm của mình.

Nước Tần tấn công quân Triệu ở Trường Bình, sau khi đánh thắng quân Triệu đã vội rút quân về nước. Sau đó, nước Tần phái sứ giả tới nước Triệu đòi sáu thành trì mới cho giảng hòa. Nước Triệu không biết phải làm thế nào, vừa hay Lâu Hoãn vừa từ nước Tần Trở về, vua Triệu bèn bàn bạc với Lâu Hoãn: “Cho nước Tần sáu thành thì sẽ thế nào, còn nếu không cho thì sẽ thế nào?”. Lâu Hoãn từ chối nói: “Việc này thần không rõ lắm”. Vua Triệu nói: “Dù thế nào, ngươi cũng thử nói ý kiến của người xem sao”. Lâu Hoãn trả lời: “Đại vương đã nghe chuyện bà mẹ của Công Phủ Văn Bá chưa? Công Phủ Văn Bá làm quan ở nước Lỗ, mắc bệnh mà chết, biết tin này 16 người trong số thê thiếp của ông đã tự sát ngay trong phòng. Mẹ ông biết chuyện không khóc lấy một tiếng. Người bảo mẫu thấy vậy hỏi: “Làm gì có người mẹ nào thấy con trai chết mà không khóc bao giờ?”. Mẹ ông đáp: “Khổng Tử là người hiền, bị đuổi khỏi nước Lỗ, không có ai là không đi theo ông ta. Nay con trai ta chết, mà có đến 16 người đàn bà tự sát theo, điều này cho thấy, khi còn sống, con trai ta đối xử tệ bạc với bậc trưởng giả mà chiều chuộng, sủng ái đám đàn bà.” Xét từ góc độ người mẹ, thì bà mẹ này là bậc hiền giả; nhưng xét từ góc độ người phụ nữ, thì bà mẹ này lại là người phụ nữ ghen tuông. Cho nên, cùng một lời nói ra, song ý nghĩa sẽ khác tùy thuộc vào vị trí và tâm lý của người nói ra. Nay thần mới từ Tần về, nếu thần nói là không cho, thì sẽ bị hiểu là không suy nghĩ giúp đại vương; còn nếu thần nói là cho, thì sẽ bị hiểu là suy nghĩ giúp vua Tần. Bởi vậy, thần mới không dám trả lời. Nếu thần được bày mưu kế cho đại vương thì thần thấy cho là hơn”. Vua Triệu nói: “Được”.

Ngu Khanh biết tin vào yết kiến vua Triệu nói: “Đó chẳng qua chỉ là những lời nói che đậy mà thôi, xin đại vương đừng tin”. Vua Triệu hỏi: “Vì sao ngươi lại nói như vậy?”. Ngu Khanh nói: “Nước Tần tấn công nước Triệu, vì thấy quân mệt mỏi, rệu rã nên mới rút lui hay là vua Tần thấy binh lực đã đủ mạnh, song không dám tấn công vì quá yêu mến đại vương?” Vua Triệu nói: “Nước Tần tấn công nước chúng ta, chắc chắn là vì mệt mỏi, rệu rã nên mới rút lui”. Ngu Khanh nói: “Nước Tần dùng hết sức lực mà không thể chiến thắng nổi nước Triệu, mệt mỏi mới rút quân. Đại vương lại giao nộp thành trì mà vua Tần không thể cướp được cho ông ta. Khác nào giúp nước Tần đánh nước Triệu? Năm sau, vua Tần lại tới đánh đại vương thì đại vương làm thế nào cứu nước Triệu đây?”

Nhà vua nói lại chuyện này với Lâu Hoãn. Lâu Hoãn nói: “Liệu Ngu Khanh có biết rõ mục tiêu mà nước Tần hướng tới không? Giả dụ ông ta biết thì sáu thành này chẳng qua chỉ là vùng đất hoang tàn, có thể cho được, đổi lại nước Tần sẽ không tấn công nước Triệu nữa, do đó đại vương nên cắt đất cầu hòa”. Vua Triệu nói: “Theo ý ngươi, nếu cắt sáu thành trì này cho nước Tần thì năm tới nước Tần sẽ không tấn công nước Triệu nữa chứ?” Lâu Hoãn trả lời: “Thần không rõ lắm, nhưng trước đây ba nước Hàn, Ngụy và Triệu có quan hệ tốt đẹp với Tần. Ngày nay, nước Tần bỏ qua hai nước Hàn và Ngụy, chỉ tấn công mỗi nước Triệu, cho thấy rõ, tình cảm của vua Tần với đại vương không thân thiết bằng vua Hàn và Ngụy. Hiện tại, nếu thần giúp đại vương nghĩ cách đối phó lại sự tấn công của vua Tần, thiết lập quan hệ tốt đẹp, thân thiết với hai nước Hàn và Ngụy. Tuy nhiên, tới năm sau, thần không dám chắc đại vương có thể làm hài lòng nước Tần hay không, nếu vậy thì chắc chắn là đại vương không đối xử chu đáo với nước Tần bằng hai nước Hàn và Ngụy. Thần làm sao dám bảo đảm nước Tần không tấn công nước Triệu?”

Triệu Vương lại nói mọi chuyện với Ngu Khanh. Ngu Khanh nói: “Lâu Hoãn nói không giảng hòa, năm sau nước Tề sẽ tấn công nước Triệu, chỉ còn cách cắt đất cho nước Tần để giảng hòa. Bây giờ lại nói, nhượng sáu thành trì cho vua Tần cũng không thể đảm bảo nước Tần có tấn công nước Triệu nữa hay không, vậy thì nhượng đất còn có nghĩa lý gì? Năm sau nước Tần lại tấn công, nước Triệu lại nhượng đất cho vua Tần để cầu hòa tiếp sao? Đây đích thị là cách tự sát! Tốt nhất là không cầu hòa. Nước Tần dù giỏi chinh chiến, song nước Tần không thể chiếm được sáu thành; nước Triệu dù không giỏi tự vệ, cũng không đến nỗi làm mất sáu thành. Nước Tần mệt mỏi mà lui quân, nhất định sẽ bãi binh. Chúng ta dùng biện pháp “cắt đất sáu thành” để kết giao với các nước chư hầu khác, từ đó tấn công nước Tần đang mệt mỏi, rệu rã, điều này sẽ khiến chúng ta mất đi một ít đất, song lại có thể được bồi thường từ phía nước Tần, hơn nữa, chúng ta còn thu được lợi. Vì sao phải cắt đất để làm yếu mình và làm mạnh Tần đây? Như Lâu Hoãn có nói: ‘Nước Tần kết giao với Hàn và Ngụy, chỉ tấn công Triệu, chắc chắn là vì đại vương không cung phụng nước Tần bằng nước Hàn và Ngụy’, chính là muốn đại vương hàng năm cắt sáu thành dâng nước Tần, muốn nước Triệu cắt hết đất cho nước Tần đây. Năm sau nước Tần lại đòi đất, Đại vương có dâng cho ông ta nữa không? Nếu không thì rõ ràng mất đứt phần đất đã nhượng, khiến vua Tần kiếm cớ khiêu khích; còn nếu có thì lấy đâu ra đất dâng nữa đây. Cổ nhân nói: ‘Kẻ mạnh giỏi tấn công, còn kẻ yếu không thể phòng thủ’. Hiện nay, nước Triệu hạ mình trước nước Tần, cống nạp đất cho nước Tần mà nước Tần không mất chút công sức nào, thì chính là đã làm mạnh nước Tần, mà làm yếu đi nước Triệu. Nước Tần càng hùng mạnh thì nước Triệu càng yếu đi. Và liệu họ có dừng lại không? Nước Tần như con hổ dũng mãnh, với lòng tham vô đáy, dục vọng của họ sẽ không bao giờ được thỏa mãn, mà đất của đại vương thì có hạn, dùng đất có hạn để thỏa mãn dục vọng vô hạn thì sẽ dẫn đến kết cục là nước Triệu bị tiêu diệt. Bởi vậy, những lời nói của Lâu Hoãn chỉ là che đậy bề ngoài mà thôi. Đại vương nhất thiết không được cắt sáu thành cho nước Tần”. Vua Triệu nói: “Hay lắm!”.

Lâu Hoãn biết tin lại tới gặp vua Triệu, nói với vua Triệu: “Không phải thế! Ngu Khanh chỉ biết một mà không biết hai. Tại sao Tần, Triệu đánh lẫn nhau mà thiên hạ đều mừng? Là vì họ nghĩ rằng có thể dựa vào nước mạnh tấn công nước yếu. Nay quân Triệu bị quân Tần vây khốn, tất nhiên thiên hạ sẽ tới chúc mừng người chiến thắng, là nước Tần. Cho nên không gì bằng cắt đất ngay mà cầu hòa để làm thiên hạ nghi ngờ và thỏa lòng Tần. Nếu không, thiên hạ sẽ nhân lúc nước Tần đang nổi giận, nước Triệu đang thất bại tới xâu xé Triệu. Nước Triệu mất rồi thì còn gì mà đối phó với Tần nữa? Đại vương quyết định ngay đi, đừng do dự nữa.”

Ngu Khanh nghe tin, lại vào yết kiến nhà vua nói: “Nguy quá! Lâu Hoãn chắc chắn là nghĩ cho Tần rồi! Quân Triệu bị quân Tần đánh bại, lại cắt đất cầu hòa, như vậy sẽ chỉ khiến thiên hạ thêm nghi ngờ, chứ có làm nước Tần được vừa lòng đâu! Chẳng phải làm vậy sẽ khiến thiên hạ thấy được chỗ yếu của mình sao? Huống hồ thần nói không cho Tần sáu thành, chưa hẳn là nhất quyết đừng cho. Tần đòi đại vương sáu thành, mà đại vương đem sáu thành hối lộ nước Tề. Nước Tề vốn là kẻ thù của Tần, nếu được sáu thành của đại vương thì sẽ dốc hết sức đánh lại Tần. Chẳng cần nói cũng biết, nước Tề sẽ làm theo mọi yêu cầu của đại vương. Như thế, tức là đại vương mất đất cho Tề, nhưng sẽ được bù lại ở Tần. Làm một việc mà kết được tình hòa hảo của ba nước Hàn, Ngụy, Tề, đồng thời nhờ đó mà địa vị của mình đối với Tần cũng thay đổi”. Triệu Vương nói: “Phải lắm”. Nói xong thì sai Ngu Khanh sang đông yết kiến Tề Vương, cùng bàn việc của Tần. Ngu Khanh còn chưa trở về thì sứ giả của Tần đã đến Triệu. Lâu Hoãn nghe vậy bỏ trốn.

Có thể nói, trong chuyện này, không ai có thể nói thấu tình đạt lý như Ngu Khanh.

Ở đây, Ngu Khanh du thuyết vua Triệu thực tế chính là tranh luận mưu lược với Lâu Hoãn. Ngu Khanh nắm bắt bản chất của sự vật, phân tích rõ quan hệ lợi hại trong đó, với lời lẽ quả quyết và chắc chắn, ông đã giành được sự đồng tình của Triệu Vương.

Đông Phương Sóc nói ngược cứu mạng người

Trong quá trình diễn thuyết, làm thế nào để tìm ra từ ngữ thích hợp dựa vào từng trường hợp cụ thể, đó chính là tài năng cần có của người du thuyết.

Một số lời nói nếu trực tiếp nói ra thì có thể bị đối phương từ chối, không tiếp nhận, do đó để tránh tình trạng khó xử, có thể nói từ góc độ ngược lại.

Hán Vũ Đế Lưu Triệt có một người nhũ mẫu, chính là vú em mà chúng ta vẫn thường nói. Người nhũ mẫu này phạm tội ở ngoài cung và bị quan phủ bắt, giải lên Hán Vũ Đế. Hán Vũ Đế cảm thấy rất khó xử, dù gì bà cũng là nhũ mẫu của mình, mình đã được nuôi dưỡng bằng chính những giọt sữa của bà. Tuy nhiên, Thiên tử phạm tội cũng giống như thường dân, nếu không xử tội nhũ mẫu thì sẽ mất đi tính tôn nghiêm của Thiên tử, sau này ai còn nghe nữa, do đó Hán Vũ Đế quyết định xử tội nhũ mẫu theo đúng pháp luật.

Nhũ mẫu hiểu rõ con người của Hán Vũ Đế, hiểu rằng tội của mình lành ít dữ nhiều, bà chợt nghĩ tới Đông Phương Sóc là người có tài hùng biện, giỏi ăn nói, bèn tới nhờ Đông Phương Sóc giúp đỡ.

Đông Phương Sóc

Đông Phương Sóc tự là Mạn Sảnh, người Yếm Thứ, Bình Nguyên. Ông là người hài hước, giỏi ăn nói, là đại thần và nhà văn thời Vũ Đế, từng làm chức thái trung đại phu và cấp sự trung.

Đông Phương Sóc cũng cảm thấy khó xử, ông nghĩ một lát rồi nói: “Có cách rồi, nhưng thực hiện được hay không hoàn toàn phụ thuộc vào bà”.

Nhũ mẫu vội hỏi: “Cách gì vậy?”.

“Vào lúc bà bị bắt đi, phải liên tục quay đầu lại nhìn Hán Đế, song nhất thiết không được nói gì, làm vậy may ra còn hy vọng”.

Dù không hiểu ý của Đông Phương Sóc, song bà vẫn gật đầu.

Khi nhũ mẫu bị bắt giải đi, bà cố tình đi qua trước mặt Hán Vũ và nhìn ông với ánh mắt khẩn thiết, đầy oan uổng, miệng định nói gì đó song lại thôi. Hán Vũ Đế nhìn bà, trong lòng rất thương cảm, định xá tội cho bà, song lại nhớ tới lời vàng ý ngọc của Thiên tử nên lại thôi.

Đông Phương Sóc không bỏ sót một chi tiết nào, hiểu rằng thời cơ đã tới, bèn tiến lại phía nhũ mẫu nói: “Bà ngốc nghếch lắm cơ, hoàng thượng đã lớn bằng từng này rồi thì cần gì đến sữa của bà nữa? Bà còn nhìn lưu luyến làm gì, mau đi đi!”

Vũ Đế nghe những lời nói này của Đông Phương Sóc, chợt nhớ lại thời nhỏ mình từng được nhũ mẫu hết lòng yêu thương chăm sóc, cuối cùng không nỡ xử tội nhũ mẫu, đã khai ân, miễn tội cho bà.

Đông Phương Sóc đã lật ngược lại tình thế, cứu nhũ mẫu thoát tội. Giống như ông, Án Tử nước Tề cũng hiểu rõ đạo lý này.

Một lần, một người coi ngựa đã giết chết con ngựa già mà Tề Cảnh Công yêu quý nhất. Con ngựa này đã quá già yếu, lại đang mắc bệnh lạ nên người coi ngựa đã giết chết nó vì sợ nó truyền bệnh sang những con ngựa khác.

Nào ngờ, con ngựa già này là con vật mà Tề Cảnh Công yêu quý nhất, nó đã theo vua chinh chiến bao nhiêu năm, cùng vào sinh ra tử với nhà vua, và đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, vậy mà hôm nay lại bị con người giết chết. Cảnh Công vô cùng tức giận, lập tức lệnh cho quân lính trói người coi ngựa này lại, ông muốn đích thân giết chết người coi ngựa để báo thù cho con ngựa yêu quý của mình.

Người coi ngựa đó không ngờ rằng mình tận tâm với công việc là thế mà nay tai họa lại giáng xuống đầu mình như vậy, đã vô cùng sợ hãi, không nói nổi một lời.

Án Tử đứng bên quan sát toàn bộ sự việc, đã vội ngăn Tề Cảnh Công lại nói: “Đại vương chớ vội, ngài giết anh ta như vậy là vô ích, bởi vì anh ta chết mà không biết mình phạm tội, quá lợi cho anh ta. Để thần hỏi tội anh ta giúp đại vương, rồi giết anh ta cũng chưa muộn”.

Tề Cảnh Công nghe vậy, thấy có lý bèn đồng ý cho Án Tử hỏi tội người coi ngựa.

Án Tử

Án Tử tên tự là Trọng, tên thụy là Bình, mọi người quen gọi ông là Bình Trọng. Ông là nhà chính trị, nhà tư tưởng và nhà ngoại giao xuất sắc sau thời Xuân Thu. Ông nổi tiếng khắp các nước chư hầu với tài ăn nói, con mắt nhìn xa trông rộng và phong thái ung dung đĩnh đạc. Ông yêu nước thương dân, thẳng thắn và bộc trực, được chư hầu quý trọng, dân chúng yêu mến. Ông có học thức uyên thâm, giỏi mưu kế, chủ trương lấy lễ trị nước, nỗ lực khuyên Tề Cảnh Công giảm nhẹ mức hình phạt.

Thế là Án Tử bước tới gần người coi ngựa, giả vờ làm bộ dạng tức giận, chỉ tay vào mặt người coi ngựa nghiêm giọng quát: “Ngươi có biết ngươi phạm tội gì không?”

Người coi ngựa hoảng sợ, lắp bắp nói: “Không, tôi không biết”.

“Thứ nhất, ngươi trông coi ngựa cho nhà vua, mà lại giết ngựa của nhà vua. Dù đó là con ngựa già và bệnh, song nó vẫn là ngựa của vua. Về điểm này, ngươi đáng tội chết.”

“Thứ hai, ngươi đã khiến nhà vua của chúng ta phải giết một người coi ngựa chỉ vì anh ta giết một con ngựa, tội này cũng đáng chết. Thứ ba, ngươi khiến nhà vua của chúng ta phải giết một người coi ngựa, chỉ vì anh ta giết một con ngựa, nếu tin tức này truyền sang nước láng giềng thì họ sẽ cho rằng, vua của chúng ta yêu ngựa, không yêu người, là người bất nhân bất nghĩa, tội này cũng đáng chết. Thứ tư,…” Án Tử đang định nói tiếp thì Tề Cảnh Công đã đứng bật dậy, ngăn Án Tử lại nói: “Đừng nói nữa, thả anh ta ra, để ta khỏi bị mang tiếng xấu là người bất nhân bất nghĩa, khiến thiên hạ cười chê”, nhờ đó, người coi ngựa đã thoát khỏi tội chết.

“Lượng quyền” chính là chỉ tùy theo trọng lượng của vật mà chọn quả cân phù hợp, hiểu theo nghĩa rộng thì chính là mưu thần thuyết khách cần chọn biện pháp thuyết phục thỏa đáng tùy từng tình hình và đối tượng cụ thể, Từ hai câu chuyện trên đây, chúng ta có thể thấy, dù là Đông Phương Sóc hay Án Tử thì cũng dựa trên sự nắm bắt tâm lý của nhà vua để chọn ra biện pháp thuyết phục phù hợp, nhờ đó đạt được hiệu quả thuyết phục, cứu được một mạng người.

Lý Tự Thành

Lý Tự Thành là lãnh tụ quân khởi nghĩa nông dân cuối thời Minh, ông sinh tại huyện Mễ Chi, phủ Diên An, tỉnh Thiểm Tây. Năm Sùng Trinh thứ 3, Lý Tự Thành dựng cờ khởi nghĩa ở Mễ Chi, tới đầu hàng Cao Nghênh Tường. Sau khi Cao Nghênh Tường bị bắt làm tù binh và bị giết hại, Lý Tự Thành lên thay, tự xưng là Phùng Vương. Năm Vạn Lịch thứ 17, Lý Tự Thành tấn công thành Bắc Kinh, ép Sùng Trinh treo cổ tự vẫn và lật đổ sự thống trị của triều Minh.

Trần Viên Viên bảo toàn tính mạng nhờ tài biện luận

Khi thuyết phục người khác, cần dựa vào tình hình thực tế của đối phương để chọn ra phương pháp du thuyết phù hợp, khiến đối phương vui vẻ tiếp nhận. Quỷ Cốc Tử nói: “Thành nghĩa giả, minh chi dã”, có nghĩa là đề xuất ra chủ trương, nói ra đạo lý thì phải thể hiện rõ ràng, chính xác và có ví dụ minh họa cụ thể, có vậy mới thuyết phục được người nghe. Trần Viên Viên là một ví dụ, bà đã bảo toàn được tính mạng của mình nhờ trình bày rõ quan điểm và đưa ra lý lẽ chính xác, đầy tính thuyết phục.

Trước vẻ đẹp của Trần Viên Viên, Lý Tự Thành nghĩ thầm: Ngày trước, Ngô Tam Quế và Lưu Tôn Mẫn đã ẩu đả lẫn nhau chỉ vì muốn có bằng được Trần Viên Viên, đây chính là “mối họa lớn”, nhất thiết phải trừ bỏ. Do đó đã hạ lệnh xử chết Trần Viên Viên.

Chưa cần quân lính dẫn giải đi, Trần Viên Viên đã đứng dậy nhìn Lý Tự Thành một cái, cười khẩy rồi bước đi.

Lý Tự Thành thấy vậy quát lớn: “Dừng lại! Ngươi cười khẩy gì vậy?”

Trần Viên Viên lại quỳ xuống nói: “Tiểu nữ sớm đã nghe danh đại vương, cho rằng ngài là người tung hoành khắp thiên hạ, anh hùng chẳng ai bằng, nào ngờ… ”

“Nào ngờ làm sao?”

“Nào ngờ đại vương lại sợ một đứa con gái yếu đuối như tiểu nữ?”

“Làm sao trẫm phải sợ ngươi?”

“Thưa đại vương, tiểu nữ vốn xuất thân trong gia đình lương thiện, nhưng bị sa vào chốn bụi trần, nếm đủ mọi khổ nhục của trần thế, âu cũng là bất đắc dĩ. Mới đầu, bị hoàng đế chiếm hữu, sau Ngô Tổng binh cướp lấy, rồi lại bị thuộc hạ của đại vương là Lưu tướng gia vây phủ cướp về, tất cả đều không phải do ý của tiểu nữ. Xin hỏi đại vương, tiểu nữ có tội gì? Đại vương khởi nghĩa chinh chiến chẳng phải là để thiên hạ sống yên bình, dân chúng không phải chịu bất hạnh sao? Tiểu nữ là người bất hạnh, lại bị đại vương xử chết, không phải đại vương sợ tiểu nữ thì giải thích chuyện này thế nào?”

Lý Tự Thành bị Trần Viên Viên chất vấn không trả lời nổi, đành hạ giọng: “Ngươi nói thử trẫm nghe”

Trần Viên Viên dập đầu lạy Lý Tự Thành một cái rồi nói: “Cám ơn đại vương. Tiểu nữ cho rằng, đại vương giết tiểu nữ thì không hề sáng suốt chút nào?”

“Sao không sáng suốt?”

“Theo những gì tiểu nữ nhìn thấy trong cung thì đại vương sắp sửa rời khỏi kinh thành, có đúng vậy không?”

“Dù trẫm có dự định như vậy thì làm sao?”

“Đại vương muốn rời khỏi kinh thành bình an hay muốn bị đuổi phía sau?”

“Đương nhiên muốn bình an rồi, thế phải làm sao?”

“Thưa đại vương, Ngô Tổng binh là quân tiên phong, binh lực tinh nhuệ, tiểu nữ nghe nói, ông ta đang dẫn quân tiến vào kinh sư. Tiểu nữ thân phận hèn mọn, đại vương giết tiểu nữ thì đại vương chẳng được lợi gì; còn nếu không giết tiểu nữ thì tiểu nữ sẽ cảm ơn ân đức của đại vương, và sẽ nỗ lực giữ chân Ngô Tổng binh ở lại kinh sư, không tiếp tục tiến lên nữa. Xin đại vương suy nghĩ kỹ”.

Lời nói của Trần Viên Viên đánh trúng nỗi lo lắng trong lòng Lý Tự Thành, khiến nhà vua tiến lên phía trước hỏi: “Có thật ngươi có thể giữ chân Ngô Tam Quế ở lại kinh sư?”

“Đại vương nên nhớ rằng, Ngô Tổng binh đầu hàng rồi làm phản đều là vì tiểu nữ, đại vương giết tiểu nữ, chắc chắn sẽ càng làm tăng mối thù trong lòng ông ta, và ông ta sẽ càng nỗ lực tiến quân. Đại vương không giết tiểu nữ thì tiểu nữ thề rằng, sẽ tìm mọi cách để Ngô Tổng binh ở lại kinh thành, không truy đuổi nữa”.

“Được! Trẫm tin ngươi, không giết ngươi nữa”.

Có thể thấy, Lý Tự Thành đã hoàn toàn bị Trần Viên Viên thuyết phục.

Trước hết, những lời lẽ của Trần Viên Viên đều xuất phát từ “thực tế”. “Thực tế” khi đó là gì? Ngô Tam Quế tiến quân vào kinh thành, Lý Tự Thành chuẩn bị bỏ chạy; Lý Tự Thành là người có quyền quyết định, song kiêu căng ngạo mạn; Trần Viên Viên ở tình cảnh nguy khó, sắp bị hành hình.

Người chết thì chẳng còn cơ hội để nói ra, còn những người sắp chết thường muốn nói. Khi Lý Tự Thành hạ lệnh giết Trần Viên Viên thì bản năng tự cứu mình trỗi dậy trong bà, khiến bà nhanh trí lựa chọn cách “nhìn rồi cười khẩy” để kích thích lòng tự tôn kiêu ngạo của Lý Tự Thành, khiến nhà vua phải hỏi: “Ngươi cười gì?”

Tiếp đến, bà lại dùng biện pháp “giả vờ như hiểu ra” nói vu vơ: “Nào ngờ đại vương lại sợ một đứa con gái yếu đuối như tiểu nữ”, rồi tiến tới dùng “biện pháp khích tướng”, đưa ra đạo lý “Đại vương khởi nghĩa chinh chiến, chẳng phải là để thiên hạ sống yên bình, dân chúng không phải chịu bất hạnh sao?”.

Trước những lời nói thành thật, thẳng thắn của Trần Viên Viên, Lý Tự Thành đã phải hạ mình nói với bà rằng: “Thử nói trẫm nghe”.

Những lời biện luận của Trần Viên Viên đều là nghĩ cho đối phương, tính toán cho đối phương. Bà đã nói rằng giết bà thì không có lợi, còn không giết bà thì lại được lợi - có thể giữ chân Ngô Tam Quế tại kinh sư, không truy đuổi nữa, nhờ đó trị được căn bệnh tâm lý cho Lý Tự Thành; tiếp đến bà còn thề rằng nhất định sẽ làm được việc đó, Lý Tự Thành cuối cùng đã thực sự xúc động và bị thuyết phục hoàn toàn.

Trần Viên Viên

Trần Viên Viên vốn họ Hình, tên Nguyên, tự Uyển Phương, là người Vũ Tiến, Thường Châu. Bà là kỹ nữ nổi tiếng, hát hay múa giỏi, là thiếp của Ngô Tam Quế.

Cam Mậu tránh kẻ xấu gièm pha nhờ “nịnh ngôn”

Trong phần “Quyền thiên”, Quỷ Cốc Tử đã nhắc tới năm kỹ xảo sử dụng ngôn ngữ du thuyết, trong đó, kỹ xảo được nhắc tới đầu tiên là nịnh ngôn. Nịnh ở đây chính là giỏi dùng lời lẽ hoa mỹ để nịnh nọt người khác dựa trên nền tảng “đã hiểu rõ tâm lý đối phương”, từ đó giành được sự tín nhiệm của đối phương. Cam Mậu đã sử dụng kỹ xảo “nịnh ngôn”, thiết lập bản minh ước với Tần Võ Vương để từ đó yên tâm dẫn quân đi đánh nước Hàn, cuối cùng bảo toàn được tính mạng, lại chiếm được thành Nghi Dương của nước Hàn.

Tần Võ Vương quyết tâm hoàn thành đại nghiệp thống nhất thiên hạ. Một hôm, ông cho gọi tả thừa tướng Cam Mậu và hữu thừa tướng Sủ Lý Tật vào cung để bàn việc tấn công nước Hàn, nhà vua hỏi thừa tướng nào muốn dẫn quân đi chinh chiến. Hữu thừa tướng không đồng ý. Tả thừa tướng nói: “Nếu đánh thắng nước Hàn thì cần liên minh với nước Ngụy thì mới đủ mạnh. Thần xin đi du thuyết vua Ngụy”. Tần Võ Vương nghe theo lời khuyên của Cam Mậu.

Cam Mậu giỏi ăn nói, nhanh chóng thuyết phục vua Ngụy xuất binh viện trợ để cùng đánh Hàn. Tuy nhiên, Cam Mậu lại lo sợ Sủ Lý Tật gièm pha mình trước mặt Tần Võ Vương, nếu đánh Hàn không thành thì có thể mất mạng như chơi. Thế là cho người tới bẩm báo với Tần Võ Vương: “Vua Ngụy đã đồng ý xuất binh, nhưng có lẽ nước Tần nên từ bỏ ý định đánh Hàn thì có lẽ tốt hơn”. Tần Võ Vương không hiểu, đích thần tới gặp Cam Mậu, hỏi vì sao lại như vậy. Cam Mậu nói: “Chiến thắng nước Hàn không phải là chuyện dễ, nước Tần sẽ phải hao tổn rất nhiều tài lực, cũng không chắc có thể kết thúc được trong vòng vài tháng. Nếu bất ngờ xảy ra biến cố, thì chẳng phải sẽ uổng phí mọi nỗ lực đã bỏ ra sao?”. Tần Võ Vương không cho là v