← Quay lại trang sách

PHẦN 10 MƯU THIÊN (VẠCH MƯU KẾ) Nguyên văn

Phàm mưu hữu đạo, (1) tất đắc kỳ sở nhân, (2) dĩ cầu kỳ tình. (3) Thẩm (4) đắc kỳ tình, nãi lập tam nghi. (5) Tam nghi giả, viết thượng, viết trung, viết hạ. Tham dĩ lập yên, dĩ sinh kỳ. (6) Kỳ bất tri kỳ sở dụng, (7) thủy vu cổ chi sở tòng. (8)

Chú thích

1. Phàm mưu hữu đạo: Mưu là chỉ lập mưu, hiến mưu, đề xuất ý kiến. Đạo là quy luật, lý lẽ.

2. Đắc kỳ sở nhân: Biết được nguyên nhân của nó.

3. Cầu kỳ tình: Nắm vững tình hình thực tế có liên quan.

4. Thẩm: Thẩm tra xem xét, làm cho rõ ràng.

5. Lập tam nghi: Tam nghi là chỉ trời, đất và con người. Ở đây là chỉ 3 kiểu mưu lược.

6. Tham dĩ lập yên, dĩ sinh kỳ: Có nghĩa là vận dụng kết hợp Tam nghi thì có thể tạo ra sách lược kiệt xuất.

7. Kỳ bất tri kỳ sở dụng: Người tạo ra mưu kế kỳ diệu lại không phải là chúng ta.

8. Thủy vu cổ chi sở tòng: Đây là quy luật chung được tuân thủ từ thời cổ đại đến nay. Tòng có nghĩa là tuân thủ, làm theo.

“Mưu” là chỉ lập mưu, hiến mưu, “mưu” liền với “quyền”, “quyền mưu” thường được sử dụng liền với nhau. Nói theo kiểu binh gia thì là: “Quyền mưu giả, dĩ chính thủ quốc, dĩ kỳ dụng binh, tiên kế nhi hậu chiến, kiêm hình thế, bao âm dương, dụng kỹ xảo dã” (Người quyền mưu lấy chính giữ nước, lấy kỳ dùng binh, nghĩ kế trước, tấn công sau, kiêm hình thế, chứa âm dương chính là dùng kỹ xảo). Quyền mưu là chỉ nghĩ ra chiến lược, sắp xếp sách lược. Tách riêng quyền và mưu thì mang nghĩa cân nhắc, vạch mưu sách, suy đoán. Trong cuốn “Quỷ Cốc Tử” thì quyền mưu được phân thành hai phần “quyền” và “mưu”. Quyền là cân nhắc mưu lược, còn mưu là mưu hoạch nội dung. Trong ngôn từ thì quyền là nói thế nào, còn mưu là nói gì.

Dịch nghĩa

Phàm là sách lược mưu kế thì đều cần phải tuân thủ quy tắc nhất định, phải biết rõ nguyên nhân của sự việc và nắm vững tình hình thực tế liên quan. Nắm vững tường tận tình hình thực tế thì mới có thể chế định ra 3 kiểu sách lược. Ba kiểu sách lược chính là thượng sách, trung sách và hạ sách. Vận dụng kết hợp 3 kế sách này thì có thể tạo nên một sách lược hoàn hảo. Sách lược, mưu kế hoàn hảo thì không có gì là không làm được, không thể không thắng lợi. Tuy nhiên, người nghĩ ra mưu kế này lại không phải là chúng ta, mà là có từ thời xưa, đã được người xưa áp dụng.

Nguyên văn

Cố Trịnh nhân chi thủ ngọc dã, tải tư nam chi xa, vi kỳ bất hoặc dã. (1) Phù độ tài, lượng năng, sủy tình giả, diệc sự chi tư nan dã. Cố đồng tình nhi tương thân giả, kỳ câu thành giả dã; đồng dục nhi tương sơ giả, kỳ thiên thành giả dã; (2) đồng ố nhi tương thân giả, kỳ câu hại giả dã; đồng ố nhi tương sơ giả, thiên hại giả dã. (3) Cố tương ích tắc thân, tương tổn tắc sơ, kỳ sổ hành (4) dã. Thử sở dĩ sát dị đồng chi phân, kỳ loại nhất dã. Cố tường hoại vu kỳ khích, mộc hủy vu kỳ tiết, (5) tư cái kỳ phân dã.

Chú thích

1. Thủ ngọc: Có nghĩa là vào núi tìm ngọc. Tải: nghĩa là ngồi (xe). Tư nam chi xa: Chỉ xe có lắp thiết bị chỉ phương hướng như kim chỉ nam. Hoặc: mê hoặc, mất đi.

2. Đồng tình: Tình cảm giống nhau. Tương thân: gần gũi, thân thiết. “Câu” trong “câu tương thân” ở đây rõ ràng là từ thừa. Câu thành: Hai bên đều có thành quả, đều thu được lợi. Đồng dục: Nguyện vọng giống nhau. Tương sơ: Xa lánh nhau. Thiên thành: Chỉ một bên được lợi.

3. Đồng ố: Cùng bị người khác ghét bỏ. Câu hại: Hai bên đều bị tổn hại. Thiên hại: Chỉ một bên bị tổn hại.

4. Sổ hành: Nhiều lần phát sinh, thường xuyên xảy ra.

5. Tiết: Mấu cây trúc. Phân: Phân chia ranh giới.

Phần này chỉ rõ: “Phàm mưu hữu đạo, tất đắc kỳ sở nhân, dĩ cầu kỳ tình” (Phàm là sách lược mưu kế thì đều cần phải tuân thủ quy tắc nhất định, phải biết rõ nguyên nhân của sự việc và nắm vững tình hình thực tế liên quan). Quỷ Cốc Tử cho rằng: Chỉ có “đắc kỳ tình” (nắm vững tình hình thực tế) thì mới có thể “trị đúng bệnh”, mới có thể nghĩ ra mưu lược tương ứng. Nắm vững sự thực, hiểu rõ suy nghĩ thực sự trong lòng đối phương, đó chính là tiền đề của “mưu”. Chỉ có “đánh giá tài năng, nắm vững năng lực và suy đoán tình cảm” thì mới có thể hiểu rõ suy nghĩ thực sự trong lòng đối phương. Biết được nguyên nhân và nắm vững tình hình thực tế, đó là điều cần thiết khi vạch mưu kế.

Dịch nghĩa

Khi người nước Trịnh vào núi tìm ngọc, đều đi loại xe có lắp kim chỉ nam, để khỏi mất phương hướng. Đánh giá tài năng, cân nhắc năng lực và suy đoán ý nghĩ thực sự trong lòng đối phương cũng chính là kim chỉ nam mà mưu thần sách sĩ sử dụng khi làm việc. Phàm những người có cùng suy nghĩ, khát vọng và thân thiết với nhau thì sẽ cùng nhau hưởng thành quả; phàm những người có cùng suy nghĩ, song lạnh nhạt với nhau thì chắc chắn sẽ chỉ một bên được lợi; phàm những người cùng bị người khác ghét bỏ song quan hệ thân thiết thì hai bên đều sẽ bị tổn hại; phàm những người cùng bị người khác ghét bỏ song lạnh nhạt với nhau, thì nhất định sẽ chỉ có một số người bị tổn hại trước. Bởi vậy, cùng hưởng lợi ích thì nhất định có quan hệ thân thiết, gây tổn hại cho nhau thì nhất định có quan hệ lạnh nhạt. Đó đều là quy luật, hoàn toàn có thể dựa theo quy luật này để phán đoán sự giống và khác nhau của sự vật. Bởi vậy, bức tường bị phá hỏng thường bắt đầu từ các vết nứt nhỏ, cây cối bị chặt đứt thường bắt đầu từ các mấu, đó đều là quy luật do có sự giống nhau.

Nguyên văn

Cố biến sinh sự, sự sinh mưu, mưu sinh kế, kế sinh nghị, nghị sinh thuyết, thuyết sinh tiến, tiến sinh thoái, thoái sinh chế; (1) nhân dĩ chế vu sự, cố bách sự nhất đạo, nhi bách độ nhất số dã. (2)

Chú thích

1. Mưu: Mưu lược. Kế: Kế hoạch, suy xét. Nghị: Thảo luận, bàn bạc. Thuyết: Lời nói du thuyết. Tiến: Có chí tiến thủ. Thoái: Lùi bước, rút lui. Chế: Hạn chế.

2. Bách sự: Các loại sự vật. Bách độ: Các loại chuẩn mực. Số: Phép tắc, quy luật.

Dịch nghĩa

Bởi vậy, sự vật liên tục thay đổi, mới xảy ra vấn đề. Cần giải quyết vấn đề nên mới cần mưu kế. Chỉ có thông qua mưu kế mới sinh ra kế sách, nghiên cứu kế sách mới sinh ra biện pháp tương ứng, có biện pháp tương ứng rồi mới có thể du thuyết người quyết sách, khiến mọi việc tiến lên, nếu tiến không được thì lùi một bước, như vậy sẽ hình thành nên chuẩn mực tronowisc”tiến lùi”, dựa vào những chuẩn mực này để giải quyết vấn đề trong thực tế. Do đó, có thể thấy sự biến đổi của vạn vật đều tuân theo một đạo lý, kiểm soát vạn vật đều tuân theo một chuẩn mực.

Nguyên văn

Phù nhân nhân (1) khinh hóa, (2) bất khả dụ dĩ lợi, (3) khả sử xuất phí; (4) dũng sĩ khinh nan, (5) bất khả cụ dĩ hoạn, (6) khả sử cứ nguy; (7) trí giả đạt vu số, minh vu lý, (8) bất khả khi dĩ bất thành, khả thị dĩ đạo lý, khả sử lập công. (9) Thị tam tài (10) dã. Cố ngu giả dịch tế dã, bất tiếu giả dịch cụ dã, tham giả dịch dụ dã, thị nhân sự nhi tài chi. (11) Cố vi cường giả, tích vu nhược dã; vi trực giả, tích vu khúc dã; hữu dư giả, tích vu bất túc dã. Thử kỳ đạo thuật hành (12) dã.

Chú thích

1. Nhân nhân: Người hiểu đạo lý nhân nghĩa.

2. Khinh hóa: Khinh thường lợi ích vật chất.

3. Dụ dĩ lợi: Lấy lợi ích để dụ dỗ.

4. Xuất phí: Cung cấp phí tổn.

5. Nan: Khó khăn.

6. Hoạn: Lo nghĩ, suy tính.

7. Nguy: Nơi nguy hiểm.

8. Đạt vu số, minh vu lý: Tinh thông quy luật, hiểu rõ đạo lý.

9. Lập công: Lập công, tạo dựng sự nghiệp.

10. Tam tài: Là chỉ thiên, địa nhân, ở đây chính là người nhân nghĩa, dũng sĩ và người mưu trí.

11. Tài chi: Đưa ra quyết định đối với một sự việc nào đó.

12. Hành: Thể hiện, biểu hiện.

Có thể phân mưu kế thành thượng mưu, trung mưu và hạ mưu. Thượng mưu là mưu lược vô hình, nó khiến cho sự việc thành công mà con người không hề biết; trung mưu là mưu lược hữu hình, nó khiến cho sự việc thành công song để lại vết tích, đây là mưu lược được mọi người tán thưởng; hạ mưu là mưu lược sử dụng trong trường hớp bất đắc dĩ, nó cũng có thể giúp con người thoát khỏi nguy khốn, song hao tốn nhiều sức lực và vật lực. Ba mưu lược này hỗ trợ lẫn nhau thì có thể tạo ra phương án tốt nhất, được gọi là kỳ mưu (mưu kế kỳ diệu). Đã có kỳ mưu thì không có việc gì là không làm nổi, từ xưa tới nay vẫn thế.

Dịch nghĩa

Quân tử nhân đức coi khinh lợi ích vật chất, bởi vậy không thể dùng tiền bạc để đụ dỗ mua chuộc họ, do đó nên để họ cung cấp tiền của; dũng sĩ coi khinh tai nạn, bởi vậy không thể đem họa hoạn để dọa họ, do đó có thể để họ trấn giữ vùng nguy hiểm; người trí tuệ thông tỏ quy luật, hiểu rõ đạo lý, không thể lừa dối họ bằng những lời lẽ thiếu thành thực, ngược lại có thể nói đạo lý với họ để họ tạo dựng sự nghiệp, cống hiến công lao. Đó là ba kiểu nhân tài: Người nhân nghĩa, dũng sĩ và người mưu trí. Ngược lại, có thể dùng thủ đoạn lừa dối để bịt mắt kẻ ngốc nghếch, có thể dùng thủ đoạn dọa nạt để uy hiếp kẻ hèn nhát, có thể dùng tiền bạc để mua chuộc người tham lam, có thể thấy tùy từng sự việc và con người cụ thể để chọn ra biện pháp tương ứng. Bởi vậy, mạnh là do tích lũy nhiều yếu tạo nên; kiên cường là do tích lũy nhiều hèn nhát tạo nên; dư thừa là do tích lũy nhiều thiếu thốn tạo nên. Đó là kết quả tất yếu được hình thành trong quá trình phát triển của sự vật, là sự thể hiện của “đạo thuật”.

Nguyên văn

Cố ngoại thân nhi nội sơ giả, (1) thuyết nội; nội thân nhi ngoại sơ giả, thuyết ngoại. Cố nhân kỳ nghi dĩ biến chi, (2) nhân kỳ kiến dĩ nhiên chi, nhân kỳ thuyết dĩ yếu chi, (3) nhân kỳ thế dĩ thành chi, nhân kỳ ác dĩ quyền chi, (4) nhân kỳ hoạn dĩ xích chi. Ma nhi khủng chi, (5) cao nhi động chi, vi (6) nhi chứng chi, phù nhi ứng chi, ủng nhi tắc chi, loạn nhi hoặc chi, thị vị kế mưu.

Chú thích

1. Ngoại: Bề mặt bên ngoài; Thân: Thân thiết; Nội: Tình cảm sâu kín trong lòng; Sơ: Xa lạ.

2. Nhân kỳ nghi dĩ biến chi: Tùy vào thái độ nghi hoặc của đối phương để đưa ra lý lẽ phù hợp.

3. Nhân kỳ thuyết dĩ yếu chi: Dựa vào lời nói của đối phương để kết giao với anh ta.

4. Nhân kỳ ác dĩ quyền chi: Dựa vào tâm tư ác độc của đối phương để đánh giá lợi hại, được mất.

5. Ma nhi khủng chi: Dùng thuật “sủy ma” để dọa nạt đối phương.

6. Vi: Ngấm ngầm, âm thầm.

Dịch nghĩa

Bởi vậy, những người bề ngoài thân thiết, mà bên trong lòng lạnh lùng thì cần du thuyết anh ta bắt đầu từ nội tâm; những người bên trong thân thiết mà bề ngoài lại lạnh lùng thì cần du thuyết anh ta bắt đầu từ vẻ ngoài. Có thể dựa theo những vấn đề mà đối phương nghi ngờ để thay đổi nội dung du thuyết của mình; có thể dựa vào vẻ bề ngoài của đối phương để phán đoán việc du thuyết có đạt hiệu quả hay không; có thể dựa vào lời lẽ đáp trả lại của đối phương để xác định trọng tâm cần du thuyết; có thể dựa vào sự biến đổi tình thế để chinh phục đối phương; có thể dựa vào những điều đối phương ghét bỏ để đánh giá lợi hại, được mất; có thể dựa vào sự chất vấn của đối phương để tăng cường sự đề phòng. Sau khi dùng thuật sủy ma thì tiến hành đe dọa đối phương; sau khi đề cao đối phương thì hành động theo kế sách; sau khi làm suy yếu đối phương thì tăng cường cải tạo anh ta; sau khi kiểm chứng mức độ thật giả của đối phương thì tiếp tục quyết định xem có hưởng ứng anh ta không; sau khi ngăn cản đối phương thì đưa thêm sự chèn ép; sau khi làm đối phương rối loạn thì tiếp tục làm tăng thêm sự mê muội của đối phương. Tất cả những điều vừa nêu trên đều được gọi là mưu kế.

Nguyên văn

Kế mưu chi dụng, công bất như tư, (1) tư bất như kết, (2) kết tỷ (3) nhi vô khích giả dã. Chính bất như kỳ, kỳ lưu nhi bất chỉ giả dã. (4) Cố thuyết nhân sinh giả, tất dữ chi ngôn kỳ; (5) thuyết nhân thần giả, tất dữ chi ngôn tư. (6) Kỳ thân nội, kỳ ngôn ngoại giả, sơ; kỳ thân ngoại, kỳ ngôn thâm giả, nguy. Vô (7) dĩ nhân chi sở bất dục (8) nhi cường (9) chi vu nhân, vô dĩ nhân chi sở bất tri nhi giáo chi vu nhân. Nhân chi hữu hảo dã, học nhi thuận chi; nhân chi hữu ác dã, tị nhi húy chi. Cố âm đạo nhi dương thủ chi. Cố khứ chi giả, tung chi; tung chi giả, thặng chi. Mạo giả bất mỹ hựu bất ác, cố chí tình thác yên. Khả tri giả, khả dụng dã; (10) bất khả tri giả, mưu giả sở bất dụng dã.

Chú thích

1. Công bất như tư: Công khai lại không bằng giữ bí mật.

2. Tư bất như kết: Ngầm vạch mưu kế lại không bằng tăng cường thiết lập quan hệ tốt đẹp với đối phương.

3. Tỷ: Thân thiết không gì bằng.

4. Chính bất như kỳ, kỳ lưu nhi bất chỉ giả dã: Tuân theo đạo lý bình thường lại không bằng đưa ra kỳ mưu (mưu kế kỳ diệu). Kỳ mưu được đưa ra thì không thể ngăn cản nổi.

5. Ngôn kỳ: Hiến sách lược kỳ diệu.

6. Ngôn tư: Nói ra những lời lẽ liên quan tới lợi ích cá nhân.

7. Vô: Không, không cần.

8. Sở bất dục: Chuyện không thích.

9. Cường: Tăng cường, làm mạnh lên.

10. Khả tri giả, khả dụng dã: Người có thể hiểu thì có thể sử dụng.

Dịch nghĩa

Khi vận dụng mưu kế, công khai lại không bằng giữ bí mật, âm thầm vạch mưu kế lại không bằng tăng cường thiết lập quan hệ tốt đẹp với đối phương, nói ra lời lẽ thân thiết, chứa đầy tình cảm thì sẽ không có sơ hở khiến người khác ly gián. Tuân theo đạo lý bình thường lại không bằng đưa ra kỳ mưu, kỳ mưu được đưa ra thì không thể ngăn cản nổi. Bởi vậy, khi du thuyết bậc quân vương thì nhất định cần phải hiến sách lược kỳ diệu; khi thuyết phục quan quân thì nhất định phải nói tới những lợi ích thiết thực mà họ được hưởng. Quan hệ thân thiết mà nói chuyện thiếu tập trung thì sẽ trở nên xa lạ; quan hệ xa lại mà nói chuyện lại rôm rả, thân thiết thì sẽ rất nguy hiểm. Không nên ép buộc người khác tiếp nhận những điều mà người khác không muốn tiếp nhận; không nên giáo huấn người khác những điều mà người khác không muốn biết; người khác thích gì thì nên học cách chiều theo sở thích của họ; người khác ghét gì thì nên tránh không đề cập đến. Bởi vậy, dùng phương pháp giấu kín để thu về công khai; từ bỏ đi việc nào đó thì có thể giải thoát sự việc đó, mục đích của việc giải thoát chính là ở chỗ tìm ra cơ hội để lợi dụng. Người không dễ bộc lộ tình cảm yêu ghét qua sắc mặt thì có thể giao việc quan trọng cho anh ta. Người tri kỷ thì có thể dùng; người không thể tri kỷ hoặc người hay lo nghĩ, mưu kế sâu xa thì không nên dùng.

Vạch mưu lược cần phải dựa vào tình hình và con người cụ thể, đối tượng khác nhau thì sẽ chọn dùng mưu lược khác nhau. Phàm những người có cùng suy nghĩ, khát vọng và thân thiết với nhau thì hai bên đều hưởng thành quả; phàm những người có cùng suy nghĩ, song lạnh nhạt với nhau thì chắc chắn sẽ chỉ một bên được lợi; phàm những người cùng bị người khác ghét bỏ song quan hệ thân thiết thì hai bên đều sẽ bị tổn hại; phàm những người cùng bị người khác ghét bỏ song lạnh nhạt với nhau, thì nhất định sẽ chỉ có một số người bị tổn hại trước. Bởi vậy, cùng hưởng lợi ích thì nhất định có quan hệ thân thiết, còn gây tổn hại cho nhau thì nhất định có quan hệ lạnh nhạt. Đó đều là quy luật, hoàn toàn có thể dựa theo quy luật này để phán đoán sự giống và khác nhau của sự vật. Khi vạch mưu lược, cũng cần hiểu rõ quy luật này.

Nguyên văn

Cố viết: Sự quý chế nhân, nhi bất quý kiến chế vu nhân. (1) Chế nhân giả, ốc quyền dã. Kiến chế vu nhân giả, chế mệnh (2) dã. Cố thánh nhân chi đạo âm, (3) ngu nhân chi đạo dương; (4) tri giả sự dị, nhi bất tri giả sự nan. Dĩ thử quan chi, vong bất khả dĩ vi tồn, nhi nguy bất khả dĩ vi an; (5) nhiên nhi vô vi nhi quý tri hĩ. (6) Tri dụng vu chúng nhân chi sở bất năng tri, nhi năng dụng vu chúng nhân chi sở bất năng kiến. Ký dụng, kiên khả phủ, (7) trạch sự nhi vi chi, sở dĩ tự vi (8) dã. Kiến bất khả, (9) trạch sự nhi vi chi, sở dĩ vi nhân (10) dã. Cố tiên vương chi đạo âm, ngôn hữu chi viết: “Thiên đại chi hóa, tại cao dữ thâm; thánh nhân chi chế đạo, tại ẩn dữ nặc. Phi độc trung, tín, nhân, nghĩa dã, trung chính nhi dĩ hĩ. (11) ” Đạo lý đạt vu thử chi nghĩ giả, (12) tắc khả dữ ngôn. Do năng đắc thử, tắc khả dữ cốc viễn cận chi nghĩa. (13)

Chú thích

1. Sự quý chế nhân, nhi bất quý kiến chế vu nhân: Sự việc quý ở sự chủ động, luôn đi trước người khác, kiểm soát người khác, không nên bị động để người khác kiểm soát.

2. Chế mệnh: Vận mệnh là do người khác khống chế.

3. Thánh nhân chi đạo âm: Bậc thánh đức giấu kín phương pháp hành sự.

4. Ngu nhân chi đạo dương: Kẻ ngu ngốc khoe khoang, khuếch trương phương pháp hành sự.

5. Vong bất khả dĩ vi tồn, nhi nguy bất khả dĩ vi an: Cứu đất nước khỏi bị diệt vong hay chuyển nguy thành an đều là việc khó làm.

6. Vô vi nhi quý tri hĩ: Người khác không thể làm, chỉ có người trí tuệ mới làm được.

7. Kiến khả phủ: Phủ là từ thừa. “Kiến khả” và “kiến bất khả” ở câu dưới đối nhau. Kiến khả tức là có lợi cho bản thân.

8. Tự vi: Suy nghĩ cho bản thân.

9. Kiến bất khả: Bất lợi cho bản thân.

10. Vi nhân: Nghĩ cho người khác.

11. Phi độc trung, tín, nhân, nghĩa dã, trung chính nhi dĩ hĩ: Không cứ trung, tín, nhân, nghĩa mới có thể dùng, mà hễ là đạo hợp lẽ phải thì đều có thể dùng.

12. Đạo lý đạt vu thử nghĩa giả: Người có thể thông tỏ đạo lý này.

13. Do năng đắc thử, tắc khả dữ cốc viễn cận chi nghĩa: Nếu được như vậy thì có thể tạo dựng quan hệ xa gần.

Dịch nghĩa

Bởi vậy nói, sự việc quý ở sự chủ động, luôn đi trước người khác, kiểm soát người khác, không nên bị động để người khác kiểm soát. Kiểm soát người khác chính là nắm vững quyền chủ động của sự việc; bị người khác kiểm soát chính là đặt vận mệnh của mình vào trong tay người khác. Bởi vậy, bậc thánh đức giấu kín phương pháp hành sự, còn kẻ ngu ngốc lại khoe khoang, khuếch trương phương pháp hành sự. Người thông minh dễ làm mọi việc thành công, còn kẻ ngu ngốc làm việc gì cũng khó. Từ đó có thể thấy, khi đất nước bị diệt vong thì rất khó khôi phục và làm phát triển trở lại, khi đất nước gặp nguy khốn thì rất khó biến nguy thành an, tuy nhiên nếu là người tinh thông mưu lược thì có thể làm được mọi việc. Trí tuệ không thể dùng ở những người kém hiểu biết hoặc ở những nơi không thể thấy. Khi thực thi mưu kế, nếu có thể thì lựa chọn sự việc mà làm, đó là làm cho mình; nếu không thể, thì cũng lựa chọn sự việc mà làm, đó là làm vì người khác. Bởi vậy, các bậc cổ thánh tiên vương đều giấu kín biện pháp hành sự, có câu nói như sau: “Vạn vật do trời đất sinh ra tốt ở chỗ cao lớn và thâm hậu; phép tắc đối nhân xử thế của thánh nhân khéo ở chỗ giấu kín. Không cứ trung, tín, nhân, nghĩa mới có thể dùng, mà hễ là đạo hợp lẽ phải thì đều có thể dùng”. Người thông tỏ đạo lý này thì có thể bàn chuyên hệ trọng với anh ta. Hiểu rõ phép tắc này thì có thể tạo dựng quan hệ xa gần, từ đó hoàn thành đại sự trong thiên hạ.

ĐIỂN CỐ MƯU LƯỢC

Chu Đệ bí mật mưu đại sự

Trong “Quỷ Cốc Tử” có nói: “Kế mưu chi dụng, công bất như tư”, chính là nói công khai kế sách lại không bằng giấu kín kế sách. Minh Thành Tổ Chu Đệ vốn là vua nước Yên, giả vờ bị bệnh điên dại để thực hiện mục đích của mình, cuối cùng đã phát động cuộc phiến loạn, đánh bại Kiến Văn Đế, lên ngôi hoàng đế và trở thành vị vua nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.

Minh Thành Tổ Chu Đệ

Minh Thành Tổ Chu Đệ là hoàng đế đời thứ 3 của triều Minh, là con trai thứ 4 của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Năm Hồng Vũ thứ 3, Chu Đệ được phong là Yên vương, ông từng sống ở Phượng Dương nên rất hiểu dân chúng. Cuối triều Chu Nguyên Chương, thái tử Chu Tiêu, Tần vương Chu Sảng, Tấn vương Chu Phong lần lượt qua đời, Chu Đệ trở thành chư vương đứng đầu gia tộc theo thứ tự từ trên xuống. Sau khi Chu Nguyên Chương qua đời, người kế tục là Kiến Văn Đế Chu Doãn đã thực hiện cuộc tiêu diệt các phiên quốc. Tháng 7 năm Kiến Văn nguyên niên, Chu Đệ đã phát động chiến dịch tĩnh nạn (dẹp nạn triều đình), tháng 6 năm 4 tiến quân vào Nam Kinh, tước đoạt ngôi vua của Kiến Văn Đế.

Hoàng đế khai quốc triều Minh là Chu Nguyên Chương có rất nhiều con cái, trong đó Chu Đệ là người trầm tính, chững chạc nhất, rất giống Chu Nguyên Chương, sau khi thái tử Chu Tiêu bị bệnh chết, Chu Nguyên Chương từng nghĩ tới việc lập Chu Đệ lên thay, song rất nhiều đại thần phản đối. Họ đưa ra hai lý do: Thứ nhất, nếu lập Chu Đệ lên làm thái tử thì sẽ gây mất đoàn kết giữa các anh em; thứ hai làm trái với nguyên tắc của triều đình. Chu Nguyên Chương không còn cách nào khác, đành phải lập con thứ của Chu Tiêu (con trai cả đã bị bệnh chết) lên làm hoàng thái tôn. Sau khi Chu Nguyên Chương chết, hoàng thái tôn kế vị, trở thành Kiến Văn Đế. Kiến Văn Đế còn ít tuổi, tính tình lại yếu đuối, nhu nhược, do đó bị các chú ruột rất xem thường, họ ngang nhiên hống hách, mỗi người chiếm cứ một phương.

Lúc còn sống, Chu Nguyên Chương phân chia con cháu khắp mọi nơi và gọi họ là thân vương, mục đích là để giám sát hoạt động binh tướng các nơi, đề phòng họ làm phản, sau này lại phong đất cho họ và gọi họ là phiên vương. Như vậy, rất nhiều phiên vương nắm giữ trong tay đại quân hùng hậu, như Ninh Vương có 8 vạn quân tinh nhuệ, đại quân của Yên Vương Chu Đệ cũng vô cùng dũng mãnh. Có thể thấy, triều đình của Kiến Văn Đế chịu sự uy hiếp nghiêm trọng từ các phía. Nghe theo lời khuyên can và cổ vũ của một số đại thần, Kiến Văn Đế bắt đầu thực hiện chiến dịch tiêu diệt các phiên quốc. Trong quá trình tiêu diệt này, có rất nhiều thân vương bị giết chết một cách oan uổng.

Yên Vương Chu Đệ biết được tin này vô cùng lo lắng. May mà Chu Đệ được phong đất Yên ở cách kinh thành Kim Lăng khá xa, hơn nữa đất đai rộng lớn, quân đông nên nhất thời chưa bị động đến. Tăng nhân Đạo Diễn là mưu sĩ của Chu Đệ đã nói với Chu Đệ rằng: “Nhìn điện hạ, thần biết ngay rằng điện hạ sẽ là Thiên tử”. Tướng sĩ Viên Cũng cũng nói với Chu Đệ: “Điện hạ đã gần 40 tuổi rồi, qua 40 tuổi, râu dài tới rốn thì nhất định sẽ làm Thiên tử, nếu không phải như vậy thì thần sẽ tự chọc mù mắt mình”. Với sự cổ vũ và khích lệ của những người này, Chu Đệ quyết tâm tích cực rèn luyện binh mã, chờ thời cơ tới.

Mưu sĩ Đạo Diễn sợ bại lộ việc luyện binh nên đã cho đào một đường hầm trong cung điện, xây nhà ở dưới và xây tường bao kín xung quanh, bên trong đốc thúc việc rèn binh khí, bên ngoài tường lại cho nuôi rất nhiều chim, chim hót ríu rít ngày đêm nên người bên ngoài không nghe thấy tiếng động nào phát ra từ bên trong. Tuy nhiên, tin tức vẫn bị lộ ra ngoài, không lâu sau đó thì lan tới triều đình, hai đại thần là Tề Thái và Hoàng Tử Đãng vô cùng quan tâm tới chuyện này, Hoàng Tử Đãng chủ trương bàn bạc với nước Yên, còn Tề Thái cho rằng nên xuất quân tiến đánh vây cánh trước.

Kiến Văn Đế nghe theo lời khuyên của Tề Thái, bèn lệnh cho công bộ thị lang Trương Bính là bố chính sử Bắc Bình, cùng hai chỉ huy là Tạ Quý và Trương Tín trấn giữ Bắc Bình, lại lệnh cho đô đốc Tống Trung đóng quân ở Khai Bình, lệnh cho binh mã khắp các ngả đường trấn giữ Sơn Hải quan và bảo vệ kinh thành Kim Lăng. Việc bố trí đã xong xuôi, Kiến Văn Đế lại phong chư vương.

Chu Đệ biết được Kiến Văn Đế có ý nghi ngờ mình, liền cử ba người con trai của mình là Cao Xí, Cao Húc và Cao Toại tới Kim Lăng thắp hương cho Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Kiến Văn Đế đang sẵn có mối nghi ngờ trong lòng, bỗng thấy có người bẩm báo ba con trai của Chu Đệ tới thì lập tức cho vào triệu kiến. Qua cách ăn nói của họ, Kiến Văn Đế cảm thấy Cao Húc là người kiêu căng ngạo mạn, còn hai người kia thì cung kính lễ phép, nên có phần an tâm. Sau khi thắp hương cúng bái xong, Kiến Văn Đế muốn giữ ba người ở lại để làm con tin. Chu Đệ sớm đã đoán được việc này, trong lúc Kiến Văn Đế còn đang phân vân thì sai người tới báo cho Văn Đế biết ông đang bị bệnh hiểm nghèo, muốn ba con trai về ngay. Kiến Văn Đế không còn cách nào khác, đành phải để cho ba người về.

Ngụy quốc công Từ Huy Tổ biết tin này vội vàng tới triều kiến, khuyên Kiến Văn Đế nên giữ lại Chu Cao Húc. Từ Huy Tổ là con trai của Từ Đạt, là chú ruột của Cao Húc. Ông nói với Kiến Văn Đế: “Trong số ba người này, thần thấy Cao Húc ngông nghênh nhất, không những bất trung mà còn dễ làm phản, cho anh ta về tất sẽ gặp hậu họa, tốt nhất nên giữ anh ta lại kinh thành để tránh rắc rối sau này”. Kiến Văn Đế vẫn do dự chưa quyết, lại quay sang hỏi ý kiến người khác, mọi người đều nói không cần giữ Chu Cao Húc lại, thế là Kiến Văn Đế quyết định thả Cao Húc ra. Chu Cao Húc sợ Kiến Văn Đế đổi ý, bèn lén ăn trộm ngựa của Từ Huy Tổ, rồi phi thẳng về nhà. Trên đường đi, Cao Húc đã giết rất nhiều quan dịch thừa (quan lại ở các trạm ngựa chuyển công văn thời xưa). Thấy Cao Húc trở về, Chu Đệ vô cùng mừng rỡ, nói với các con: “Vậy là bốn cha con ta đã gặp lại nhau, đúng là ông trời đã giúp ta!”.

Từ Huy Tổ

Từ Huy Tổ tên thật là Doãn Cung, để tránh Hoàng thái tôn nên đổi tên là Huy Tổ, ông là người Hào Châu, là con trai cả của Từ Đạt. Ông là đại tướng của nhà Minh. Trong thời kỳ Hồng Vũ được phong làm Ngụy Quốc công.

Vài ngày sau, có thánh chỉ của Kiến Văn Đế tới, nói rằng Chu Húc trên đường đi đã giết rất nhiều người do đó muốn bắt Chu Húc để hỏi tội, Chu Đệ đương nhiên không chịu. Vài ngày nữa trôi qua, hai tay chân thân tín của Chu Đệ là Vu Lương và Chu Đạc đã bị người của Tạ Quý lừa bắt đi, đưa tới kinh sư xử chém. Sau khi hai người này bị xử chém thì lại có thánh chỉ của Kiến Văn Đế tới, trách móc Chu Đệ thậm tệ, nói rằng Chu Đệ ngấm ngầm luyện binh mã, với ý đồ không trong sạch Chu Đệ thấy sự việc đã đến lúc cấp bách, thế là nghĩ ra kế hoãn binh: giả điên.

Chu Đệ cạo trọc đầu, chạy điên cuồng khắp phố, miệng gào hét, nói năng lảm nhảm. Lúc thì giật thức ăn của người đi trên phố, cho vào mồm nhai ngấu nghiến, lúc thì chui vào trong cống ngầm nằm trong đó mấy ngày trời. Người của Tạ Quý nghe nói Chu Đệ bị bệnh liền tới dò la tình hình. Lúc đó đang vào mùa hè, trời nóng như thiêu như đốt, song lại nhìn thấy bếp lò cháy đùng đùng giữa phủ Yên Vương, Chu Đệ ngồi cạnh đó mặc một tấm áo lông cừu, tay chân run lập cập như đang trong mùa đông giá rét, miệng luôn mồm kêu lạnh. Khi hai người của Tạ Quý hỏi chuyện Chu Đệ thì ông thốt ra toàn những lời nhảm nhí. Hai người này thấy vậy chỉ biết nhìn nhau rồi cáo từ.

Minh Thành Tổ Chu Đệ

Sau khi lên ngôi vua, để ngăn chặn thế lực tàn dư Mông Cổ phương Bắc phục hưng, Chu Đệ đã 5 lần thân chinh Bắc phạt, và dời đô lên Bắc Kinh. Trong thời gian ông trị vì đã phái Trịnh Hòa dẫn thủy quân tiến tới Tây Dương, tập trung nhân lực khai thông sông. Minh Thành Tổ là người biên soạn bộ sách lớn nhất lịch sử Trung Quốc “Vĩnh Lạc đại điển”. Năm 1224, Chu Đệ bị bệnh mà chết trên đường chinh chiến Bắc phạt lần thứ 5, khi đó ông 65 tuổi.

Tạ Quý kể lại toàn bộ sự việc này lên triều đình, Kiến Văn Đế hơi tin là thật, không còn sốt ruột nghĩ cách đối phó với nước Yên nữa. Tuy nhiên, thuộc hạ của Chu Đệ là Cát Thành có quan hệ thân thiết với Trương Tín và Tạ Quý, nên đã nói với họ là Chu Đệ giả điên, phải cẩn thận, Trương Tín và Tạ Quý vẫn chưa tin lắm. Một thời gian sau, Yên vương phái Trịnh Dung tới triều đình dò la tin tức, đại thần Tề Thái bèn bắt anh ta lại, tra hỏi rất nghiêm, Trịnh Dung không chịu nổi đòn tra tấn đã khai báo từ đầu tới cuối việc mưu phản của Chu Đệ. Sau khi biết chuyện, Kiến Văn Đế vô cùng kinh ngạc, bèn lập tức hạ lệnh cho Trương Tín đi bắt bằng được Chu Đệ về chịu tội.

Trương Tín băn khoăn không biết phải làm thế nào, về nhà kể lại chuyện cho mẹ nghe, người mẹ nói: “Không thể làm vậy, mẹ nghe nói Yên Vương đang chiếm cứ thiên hạ, con không thể một mình mà bắt được ông ta”. Trương Tín nghe vậy càng không muốn đi bắt Chu Đệ, nhưng thánh chỉ của triều đình đã tới, thúc ông phải hành sự ngay, Trương Tín thấy không còn cách nào khác đành phải tới gặp Chu Đệ để điều tra xem tình hình ra sao, nhưng Chu Đệ bị bệnh không tiếp, sau nhiều lần như vậy, Trương Tín đành phải cải trang thành người khác, nói muốn gặp Chu Đệ để bàn chuyện bí mật, lúc này Chu Đệ mới đồng ý cho Trương Tín vào gặp.

Vào phủ Yên vương, Trương Tín thấy Chu Đệ đang nằm trên giường thì quỳ xuống vái lạy. Chu Đệ chỉ tay vào miệng, rồi nói lung tung. Trương Tín thấy vậy nói: “Điện hạ không cần phải giả vờ như vậy, có việc gì thì có thể nói với thần”. Chu Đệ hỏi: “Ngươi nói gì?”. Trương Tín nói: “Thần thực lòng quy phục điện hạ, điện hạ không cần phải dối thần như vậy, thần muốn nói cho điện hạ biết, thánh chỉ lệnh cho thần tới bắt điện hạ về kinh thành, nếu điện hạ thực sự có bệnh, thần giải điện hạ về kinh thành thì hoàng thượng cũng sẽ không coi điện hạ là gì, còn nếu điện hạ không bị bệnh thì vẫn còn kịp bàn kế sách”.

Chu Đệ nghe những lời này thì bừng tỉnh ngộ, vội nhảy xuống giường nói: “Cám ơn tiên sinh, đã cứu sống cả nhà ta”. Trương Tín thấy Chu Đệ đúng là giả điên thật thì vô cùng mừng rỡ, bèn bí mật bàn bạc với Chu Đệ, Chu Đệ còn gọi thêm những ngươi như Đạo Diễn lại để cùng vạch mưu kế, cảm thấy sự việc không thể chậm trễ được nữa mà phải hành động ngay. Lúc này, đột nhiên trời nổi gió lớn, mưa bão ập về, một viên ngói trên mái hiên rơi xuống, Chu Đệ tỏ vẻ không vui, thấy vậy Đạo Diễn nói: “Đây là điềm lành, điện hạ vui lên mới phải chứ?”. Chu Đệ tức giận quát: “Nói năng hồ đồ, mưa to gió lớn như vậy mà nói là điềm lành là sao?”. Đạo Diễn cười nói: “Rồng bay trên trời thì làm sao không có mưa gió đây? Ngói vỡ chính là điềm dự báo ngôi vua sắp thay đổi, nhất định là điềm lành” Chu Đệ nghe vậy, vui mừng khôn xiết.

Thế là, Chu Đệ nghĩ cách giết chết hai ngươi Trương Bính và Tạ Quý, đánh tan quân mã của chỉ huy sứ Bành Nhị, bình định Bắc Bình thành, thay đổi niên hiệu năm thứ 32 Hồng Vũ, sắp xếp quan lại, chế định pháp luật, công khai tạo phản. Sau ba năm chiến tranh gian khổ, cuối cùng Chu Đệ đánh bại Kiến Văn Đế, lên ngôi hoàng đế, dời đô tới Bắc Bình và trở thành vị hoàng đế nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.

Thành công của Chu Đệ chính là nhờ biết “kế mưu chi dụng, công bất như tư” giả vờ điên dại để thực hiện ý đồ giấu kín trong lòng, người như vậy thì làm việc gì cũng thành công.

Ba diệu kế trong túi gấm của Gia Cát Lượng

Sự vật liên tục thay đổi, sự vật thay đổi sẽ tạo nên rất nhiều mưu lược giải quyết vấn đề tương ứng, có mưu lược rồi thì có thể định ra kế sách cụ thể và tường tận, rồi vận dụng những kế sách này để kiểm soát sự vật, có thể tiến, cũng có thể lùi. Trong “Tam Quốc diễn nghĩa” đã miêu tả Gia Cát Lượng là bậc thầy vận dụng mưu lược, rất được Lưu Bị trọng dụng. Với ba diệu kế trao cho Triệu Vân đựng trong ba túi gấm, chúng ta có thể thấy rõ Gia Cát Lượng là người có khả năng quan sát và phán đoán tốt đến thế nào.

Chu Du

Chu Du tự là Công cẩn, người huyện Thư, quận Lư Giang. Ông là người túc trí đa mưu, am hiểu âm nhạc, dung mạo tuấn tú, được mọi người gọi là Chu Lang. Chu Du tính tình cởi mở, hào phóng, thường lấy đức để thu phục lòng người, hoàn toàn khác với gì mà tiểu thuyết thời nay hư cấu. Quan hệ giữa Trình Phổ và Chu Du có một thời gian không mấy tốt đẹp, Trình Phổ đã nhiều lần làm nhục Chu Du, song Chu Du lại không hề để bụng, không so bì với ông ta, sau này Trình Phổ rất khâm phục Chu Du, từng nói với mọi người rằng: “Trò chuyện với Chu Công Cẩn, giống như là đang nhâm nhi rượu ngon, say lúc nào không biết”.

Khi Tôn Quyền có được đất Đông Ngô thì Lưu Bị đã chiếm được vùng đất quan trọng là Kinh Châu. Tôn Quyền rắp tâm chiếm đoạt Kinh Châu đã lâu, song vẫn chưa được. Vừa hay lúc này phu nhân của Lưu Bị qua đời, tin tức bay tới doanh trại Đông Ngô, đại tướng Chu Du nghĩ ra một kế nói: “Vợ Lưu Bị mất thì nhất định ông ta sẽ lấy vợ khác, chúa công có một cô em gái rất can trường, lúc nào cũng có vài trăm thị tỳ cắp gươm hầu bên cạnh, trong phòng lại bày la liệt đủ thứ vũ khí, ngay đàn ông cũng không giỏi bằng. Chúa công nên sai người tới Kinh Châu làm mai mối, thuyết phục Lưu Bị tới cầu thân. Khi Lưu Bị tới rồi thì nhân cơ hội bắt giam ông ta lại, rồi cho sứ giả đưa tin đổi Kinh Châu lấy Lưu Bị. Có được đất Kinh Châu rồi thì ta lại liệu sau”.

Sứ giả Đông Ngô tới Kinh Châu, Gia Cát Lượng đã đoán trước được mưu kế của Chu Du, nên đã thúc giục Lưu Bị mau tới Đông Ngô cầu thân. Gia Cát Lượng nói: “Lượng tôi chỉ cần một kế nhỏ cũng phá tan được âm mưu của Chu Du, khiến em gái Ngô hầu thuộc về chúa công, mà Kinh Châu cũng không mất”. Sau đó, Gia Cát Lượng đã viết ra ba kế sách “phá âm mưu của Chu Du”, lần lượt để vào trong ba túi gấm, rồi giao cho Triệu Vân. Lệnh cho Triệu Vân hộ tống chủ công Lưu Bị sang Đông Ngô, còn không quên dặn dò, nếu có khó khăn gì thì làm theo đúng kế sách là được.

Triệu Vân cùng 500 quân sĩ hộ tống Lưu Bị tới Đông Ngô, vừa tới nơi thì mở túi gấm thứ nhất ra xem Gia Cát Lượng vạch kế sách gì. Triệu Vân đọc xong thì gọi 500 quân sĩ lại, dặn dò mỗi người mỗi việc, sau đó lệnh cho mọi người cứ thế thi hành, còn bảo Lưu Bị vào ra mắt Kiều Quốc Lão trước. Kiều Quốc Lão là cha của hai nàng Kiều, nhà ở Nam Từ. Lưu Bị mang dê và rượu vào bái kiến Quốc Lão, còn kể chuyện Lã Phạm sang làm mối cho Lưu Bị thành thân với Tôn tiểu thư. Thực ra đây chính là kế sách của Gia Cát Lượng, ông biết trước việc “chiêu thân” của Tôn Quyền và Chu Du chẳng qua chỉ là lừa dối, nên chắc chắn họ sẽ giấu kín chuyện này không cho dân chúng Đông Ngô biết, càng không để cho những người có địa vị và thế lực trong nội chính Đông Ngô như Kiều Quốc Lão và Ngô Quốc Thái biết, bởi vì nếu chuyện này bại lộ thì Tôn Quyền khó mà ăn nói với mọi người. Do vậy, Gia Cát Lượng đã thực thi diệu kế của mình, tung tin ầm ĩ chuyện này. Quả như Gia Cát Lượng dự đoán, nhờ có sự can thiệp của Ngô Quốc Thái và Kiều Quốc Lão mà Lưu Bị đã thoát khỏi nạn này, hơn nữa còn được thành thân với em gái Tôn Quyền.

Lại nói Chu Du biết được tin chuyện giả đã thành thật thì trong lòng vô cùng kinh ngạc, lại nghĩ kế giúp Tôn Quyền. Theo kế của Chu Du, Tôn Quyền cho sửa sang lại Đông phủ, trồng nhiều cây cối và lắp đặt rất nhiều đồ vật trang trí đẹp, rồi mời Lưu Bị và em gái sang ở cùng. Tôn Quyền còn kén vài chục con hát cực hay và mang tới nhiều đồ vật quý báu tặng Lưu Bị. Quả nhiên, Lưu Huyền Đức bị sắc đẹp và tiếng hát làm mê mẩn, không còn muốn trở về Kinh Châu nữa. Triệu Vân trong lòng lo lắng không yên, chợt nhớ tới túi gấm của Gia Cát Lượng, thế là mở túi thứ hai ra xem, quả là thần cơ diệu toán. Triệu Vân cứ theo kế mà làm, vội vào trong phủ, bẩm báo với Lưu Bị trong bộ dạng thất kinh: “Sáng nay, Khổng Minh sai người tới báo tin rằng, Tào Tháo đang dẫn 50 vạn binh tinh nhuệ tới để phục thù trận Xích Bích, đang thẳng tiến tới Kinh Châu, tình hình rất nguy cấp, xin chúa công trở về ngay”. Lưu Bị và Tôn phu nhân bàn bạc với nhau, kiếm cớ đi lễ chùa để che mắt Tôn Quyền, rồi nhân đó chạy ra ngoài thành, Triệu Vân và 500 quân sĩ đã chờ sẵn ở đó, cả đoàn gấp rút trở về Kinh Châu. Kế thứ hai này quả đúng như Gia Cát Lượng dự đoán: sau khi thành thân thành công, mâu thuẫn giữa Tôn Quyền và Lưu Bị vẫn chưa được giải quyết. Mưu kế đầu tiên thất bại thì chắc chắn Tôn Quyền và Chu Du sẽ nghĩ kế tiếp theo, đó là dùng gái đẹp và đồ vật quý báu để làm nhụt chí khí Lưu Bị, khiến Lưu Bị sa vào chốn vui, không dứt ra nổi. Bởi vậy Gia Cát Lượng đã nghĩ ra diệu kế “quân Tào Tháo tấn công” khiến Lưu Bị phải trở về Kinh Châu gấp.

Triệu Vân

Triệu Vân là danh tướng nhà Thục Hán thời kỳ Tam Quốc, tự là Tử Long, người huyện Chân Định, Thường Sơn. Năm Kiến Hưng nguyên niên triều Thục Hán, thái tử Lưu Thiện lên ngôi. Triệu Vân được bổ nhiệm làm trung hộ xa, Chinh Nam tướng quân, được phong Vĩnh Xương Đình hầu, sau làm Trấn Đông tướng quân. Năm Kiến Hưng thứ 7, Triệu Vân bệnh nặng mất ở Hán Trung. Triệu Vân cả đời xông pha nơi trận mạc, gan dạ và quả cảm, được Lưu Bị và mọi người hết lời ca ngợi.

Khi Lưu Bị và phu nhân chạy ra khỏi thành thì Tôn Quyền nhận được tin báo, vội lập tức lệnh cho Trần Vũ, Phan A chọn ra 500 quân tinh nhuệ, đuổi theo Lưu Bị không kể ngày đêm. Khi đoàn quân của Lưu Bị chạy tới đầu địa phận Sài Tang, thì thấy Chu Du đã cho người bố trí quân chắn đường ở đó. Lưu Bị hoảng hốt, không biết làm thế nào, lúc này Triệu Vân vội mở túi gấm thứ 3 ra, đưa cho Lưu Bị xem. Thế là Lưu Bị nhờ phu nhân giải nguy, Tôn phu nhân quả nhiên nói: “Anh thiếp đã không coi thiếp là ruột thịt thân thiết thì thiếp cũng chẳng muốn gặp lại nữa. Việc hôm nay, phu quân cứ để mặc thiếp tự giải quyết”. Thế là Tôn phu nhân đứng ra dẹp yên vài tên tướng ngáng đường, giúp Lưu Bị thoát nạn. Khi Lưu Bị tới địa phận của mình thì đã thấy Gia Cát Lượng và mọi người đưa thuyền tới đón. Sau đó, Chu Du dẫn quân thủy lục đuổi theo, nhưng lại bị Quan Vân Trường, Hoàng Trung và Ngụy Diên mai phục sẵn đánh cho đại bại.

Có thể thấy, Gia Cát Lượng đã sớm dự đoán mọi chuyện, biết chắc sau khi Lưu Bị trốn thoát nhờ kế thứ 2 thì đại quân Đông Ngô sẽ đuổi theo, mà Triệu Vân chỉ mang theo 500 binh sĩ nên khó mà chống cự nổi. Do vậy, Gia Cát Lượng cho rằng chỉ có thể dựa vào thân phận cao quý của Tôn phu nhân - con gái yêu của Quốc Thái và em gái của Ngô hầu thì mới có thể dẹp yên được tướng lĩnh Đông Ngô, do vậy kế thứ ba trong túi gấm chính là kế mượn uy của Tôn phu nhân để lui binh.

Nhờ giỏi vận dụng mưu kế, hiểu rõ mấu chốt thay đổi của sự vật trong quá trình phát triển mà Gia Cát Lượng đã nghĩ ra ba diệu kế phá tan âm mưu giả cầu thân để cướp Kinh Châu của Chu Du, khiến Đông Ngô “vừa mất phu nhân lại chết quân”.

Điền Kỵ đua ngựa với Uy Vương

Có thể phân mưu kế thành thượng mưu, trung mưu và hạ mưu. Thượng mưu là mưu lược vô hình, nó khiến cho sự việc thành công mà con người không hề biết; trung mưu là mưu lược hữu hình, nó khiến cho sự việc thành công song để lại vết tích, đây là mưu lược được mọi người tán thưởng; hạ mưu là mưu lược sử dụng trong trường hợp bất đắc dĩ, nó cũng có thể giúp con người thoát khỏi nguy khốn, song hao tổn nhiều sức lực và vật lực. Ba mưu lược này hỗ trợ lẫn nhau thì có thể tạo ra phương án tốt nhất, được gọi là kỳ mưu (mưu kế kỳ diệu). Đã có kỳ mưu thì không có việc gì là không làm nổi, từ xưa tới nay vẫn thế.

Không ai là không biết tới câu chuyện “Điền Kỵ đua ngựa”, qua câu chuyện này có thể thấy, mưu kế của Tôn Tẫn quả là vô cùng cao mình.

Sau khi từ biệt thầy Quỷ Cốc Tử, Tôn Tẫn cùng bạn học là Bàng Quyên tới nước Ngụy để hiến mưu lập nghiệp, hai người đều dựa vào tài trí của mình để có được địa vị cao trong triều đình, tuy nhiên Ngụy Vương có phần yêu mến Tôn Tẫn hơn, điều này đã khiến Bàng Quyên sinh lòng đố kỵ. Bàng Quyên đã nghĩ ra rất nhiều thủ đoạn tàn nhẫn để hãm hại Tôn Tẫn, còn khoét xương đầu gối của Tôn Tẫn, khiến Tôn Tẫn không thể đi lại bình thường. Sau này, Tôn Tẫn đã giả điên trốn thoát khỏi nước Ngụy, trở về nước Tề và sống ở nhà tướng lĩnh Điền Kỵ của nước Tề, trở thành môn khách của Điền Kỵ. Hai người thường ngồi với nhau thảo luận binh pháp, vạch định tình thế, có thể nói rất tâm đầu ý hợp.

Một hôm, đại tướng Điền Kỵ ủ rũ trở về nhà, chẳng nói với ai lấy một tiếng, ngồi thừ giữa nhà. Tôn Tẫn thấy vậy bèn hỏi thị vệ của Điền Kỵ xem có chuyện gì xảy ra thì được biết: Điền Kỵ rất thích đua ngựa, trưa nay, đã đua ngựa với Tề Uy Vương, khi đua ngựa, ngựa được phân thành 3 hạng, thượng (tốt), trung (trung bình) và hạ (kém), thượng mã thi với thượng mã, trung mã thi với trung mã, hạ mã thi với hạ mã. Do hạng ngựa nào của Tề Uy Vương cũng mạnh hơn của Điền Kỵ nên thi lần nào Điền Kỵ cũng thua, hôm nay lại thua nên buồn bã như vậy.

Tôn Tẫn

Tôn Tẫn là nhà quân sự nổi tiếng thời Chiến Quốc, tự là Gia Mưu, là người nước Tề, con cháu của đại tướng Tôn Vũ nước Ngô. Tương truyền, ông và Bàng Quyên đều là học trò của Quỷ Cốc Tử, cùng tới nước Ngụy để lập nghiệp dựa vào tài trí của bản thân. Bàng Quyên đố kỵ với tài năng của Tôn Tẫn nên đã dùng thủ đoạn đê tiện hại Tôn Tẫn (khoét xương đầu gối của Tôn Tẫn). Sau này Tôn Tẫn giả điên chạy khỏi nước Ngụy, về nước Tề, trở thành quân sư, giúp nước Tề trở thành một trong những cường quốc mạnh thời Chiến Quốc. Sách nổi tiếng của ông có “Tôn Tẫn binh pháp”.

Sau khi biết chuyện, Tôn Tẫn cười rất tươi, tới bên Điền Kỵ nói với Điền Kỵ rằng: “Ngài việc gì phải lo lắng như vậy, tiếp tục đua nữa đi, lần này nhất định sẽ thắng”. Tôn Tẫn còn chưa nói hết thì Điền Kỵ đã trừng mắt nhìn Tôn Tẫn quát: “Không ngờ ngươi cũng chọc vào nỗi đau của ta!”. Tôn Tẫn nói: “Tôi đâu dám chọc vào nỗi đau của ngài, tôi chỉ muốn ngài tiếp tục đua ngựa với Uy Vương, tôi đã có cách giúp ngài chiến thắng”. Điền Kỵ nhìn Tôn Tẫn với ánh mắt nghi ngờ hỏi: “Ý ngươi là muốn thay những con ngựa này phải không?”. Tôn Tẫn lắc đầu nói: “Không cần thay con ngựa nào hết”. Điền Kỵ vẫn bán tín bán nghi nói: “Như vậy thì lại thua thôi!”. Tôn Tẫn nói chắc như đinh đóng cột: “Ngài cứ làm theo kế của tôi đảm bảo sẽ thắng”.

Điền Kỵ thấy Tôn Tẫn nói chắc chắn như vậy thì yên tâm phần nào, cho rằng Tôn Tẫn đã sắp xếp kế hoạch chu đáo từ trước rồi bèn nói: “Vậy thì ta sẽ nghe theo ngươi”. Sau đó, lại đi thách chiến với Tề Uy Vương.

Tề Uy Vương giành thắng lợi liên tiếp nên rất đắc ý, khi Uy vương đang vuốt ve những con ngựa của mình, thì nhìn thấy Điền Kỵ đưa Tôn Tẫn tới, bèn đứng dậy nói với giọng khiêu khích: “Sao vậy, vẫn chưa phục ta sao?”. Điền Kỵ nói: “Đương nhiên không phục, chúng ta thi đấu thêm lần nữa đi!”, nói xong thì móc ra một đống tiền đặt lên trên bàn, bảo là đặt cược. Tề Uy Vương thấy vậy cười thầm trong bụng, bèn sai thuộc hạ mang hết số tiền thắng cuộc vài lần trước tới, còn đặt thêm hai nghìn lượng vàng nữa. Tề Uy Vương khinh khỉnh nói: “Ngày mai lại đua tiếp nhé”.

Hôm sau, Tề Uy Vương mang theo các vương phi, vương tử tới trường đua từ rất sớm, trong lòng đang nghĩ xem sẽ giễu cợt Điền Kỵ thế nào. Còn Điền Kỵ lại rất tự tin vì đã có quân sư Tôn Tẫn ở bên, khuôn mặt không giấu nổi niềm vui chờ đợi thắng lợi tới.

Tiếng chuông rung lên, cuộc đua bắt đầu. Trước hết, Tôn Tẫn cho con hạ mã của Điền Kỵ đấu với con thượng mã của Tề Uy Vương nên đã thua ở hiệp 1. Tề Uy Vương đứng dậy nói: “Không ngờ quân sư lừng lẫy như tiên sinh Tôn Tẫn đây mà lại nghĩ ra đối sách kém cỏi đến như vậy”.

Tôn Tẫn không thèm để ý đến Uy Vương. Vào hiệp 2, Tôn Tẫn cho con thượng mã của Điền Kỵ đấu với con trung mã của Tề Uy Vương và đã giành thắng lợi. Tề Uy Vương đã lộ rõ vẻ lo lắng trên nét mặt. Vào hiệp thứ 3, Tôn Tẫn lấy con trung mã của Điền Kỵ đấu với con hạ mã của Tề Uy Vương và lại giành được thắng lợi. Lần này, tới lượt Tề Uy Vương từ trố mắt ngạc nhiên, rồi chuyển sang tức giận mà không nói được lời nào.

Kết quả thi đấu là 2-1, đương nhiên người chiến thắng là Điền Kỵ. Vẫn là những con ngựa đấy, nhưng do đổi lại vị trí thi đấu nên đã có kết quả từ bại thành thắng. Ở đây, Tôn Tẫn đã sử dụng biện pháp “kỳ mưu chế thắng” (dùng mưu kế kỳ diệu để giành chiến thắng).

Ưu Mạnh Trí khéo khuyên Sở Trang Vương

“Trí sĩ đạt vu số, minh vu lý, bất khả khi dĩ bất thành, khả thị dĩ đạo lý, khả sử lập công”, câu này có nghĩa là, người trí tuệ thông tỏ quy luật, hiểu rõ đạo lý, không thể lừa dối họ bằng những lời lẽ thiếu thành thực, ngược lại có thể nói đạo lý với họ để họ tạo dựng sự nghiệp, cống hiến công lao. Đối với những người như vậy, người hiến kế cũng phải thận trọng, chú ý chọn biện pháp phù hợp, nói rõ đạo lý, mới có thể có được hiệu quả bất ngờ. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua câu chuyện Ưu Mạnh khéo khuyên sở Trang Vương.

Trong cung đình Trung Quốc thời cổ đại có rất nhiều kép hài, họ xuất thân hèn kém, song đa tài đa nghệ, hài hước và có trí tuệ, thường đưa ra những lời khuyên tế nhị và khéo léo cho nhà vua, Ưu Mạnh người nước Sở chính là một ví dụ điển hình. Ưu Mạnh cao lớn, có tài hùng biện, và là một kép hài rất được Sở Trang Vương yêu quý.

Sở Trang Vương có một con ngựa quý mà ông vô cùng yêu thích, ông cho ngựa mặc áo thêu hoa, ở trong phòng đẹp được trang trí công phu, nằm giường đệm êm, thức ăn toàn là táo khô. Nhưng không ai ngờ được rằng, con ngựa sống trong “nhung lụa” như vậy lại nhanh chóng bị bệnh rồi lăn ra chết, Sở Trang Vương buồn rầu khôn xiết, sai quần thần làm mai táng cho ngựa, cho vào quan quách để liệm và chôn theo nghi thức chôn cất quan đại phu. Các quan cận thần thấy vậy đều khuyên nhà vua không nên làm thế. Sở Trang Vương tức giận hạ lệnh: “Ai còn dám khuyên ta chuyện an táng ngựa quý thì sẽ giết chết người đó”.

Sau khi biết chuyện này, Ưu Mạnh vội vàng vào cung, vừa bước lên điện dã ngửa mặt lên trời khóc tu tu. Trang Vương cảm thấy rất kỳ lạ, hỏi vì sao lại khóc thì Ưu Mạnh trả lời rằng: “Con ngựa này là vật đại vương yêu quý, đại vương đường đường là vua nước Sở thì làm gì chẳng được, thần thấy chôn ngựa quý theo nghi thức chôn cất quan đại phu thì quả là bạc bẽo, xin đại vương chôn cất theo nghi thức quân vương mới xứng”. Trang Vương nói: “Chôn cất như thế nào?” Ưu Mạnh trả lời: “Thần thỉnh cầu đại vương cho đẽo ngọc làm áo quan, dùng gỗ hoa văn làm quách (bọc ngoài quan tài), chọn các loại gỗ thượng hạng làm quan tài, huy động binh sĩ tới đào huyệt, người già cả, sức khỏe kém thì bê đất xây mộ. Mời đại diện các nước Tề, Triệu tới tế lễ ở phía trước, còn đại diện các nước Hàn, Ngụy thì bảo vệ ở phía sau. Khi tế thì phải theo nghi thức ở miếu, tức là dùng bò, dê, lợn làm vật tế, sau đó lệnh cho huyện vạn hộ chăm lo hương khói. Các nước biết được chuyện này, chẳng phải sẽ cho rằng đại vương là người coi trọng ngựa mà khinh thường người sao?”.

Mộ của Tôn Thúc Ngao

Tôn Thúc Ngao, người Kỳ Tư nước Sở, là nhà thủy lợi thời Xuân Thu. Ông làm quan lệnh doãn thời Sở Trang Vương, giúp Sở Trang Vương xưng bá. Năm 605 TCN, ông cho xây dựng công trình hệ thống kênh rạch sớm nhất Trung Quốc - vùng tưới tiêu Vu Lâu, Kỳ Tư. Theo sử sách ghi chép thì ông còn từng chủ trì việc tu sửa Thược Bì, cũng từng khởi công xây dựng thủy lợi ở vùng Giang Lăng, Hồ Bắc hiện nay.

Trang Vương nghe vậy, bừng tỉnh ngộ vội hỏi: “Ta sai lầm đến như vậy sao? Làm thế nào bây giờ?”. Ưu Mạnh nói: “Theo thần thì đại vương cứ chôn cất nó giống như cách làm với súc vật. Xây bếp làm quách, dùng vạc đồng làm quan tài, thêm gừng, táo làm gia vị, dùng mộc lan để khử tanh, dùng gạo nếp làm vật tế, dùng lửa làm áo quần, rồi chôn vào trong dạ dày của con người” Trang Vương nghe theo lời khuyên của Ưu Mạnh, sai người giao ngựa chết cho viên quan trông coi bếp núc triều đình.

Tướng quốc nước Sở là Tôn Thúc Ngao giúp Sở Trang Vương trị vì đất nước, lập nên rất nhiều thành tích, nên được Sở Trang Vương vô cùng trọng dụng. Tuy nhiên, sau khi ông mất đi, Sở Trang Vương lại quên hết mọi công lao của ông, không còn quan tâm tới gia tộc của ông nữa. Lúc này Ưu Mạnh mặc áo và đội mũ quan của Tôn Thúc Ngao, bắt chước bộ dạng của Tôn Thúc Ngao bước tới phía trước Sở Trang Vương hành lễ chúc thọ nhà vua. Sở Trang Vương vô cùng ngạc nhiên, cứ tưởng Tôn Thúc Ngao sống lại, đòi làm tướng quốc.

Ưu Mạnh nói: “Làm gì thì làm chớ làm tướng quốc nước Sở, giống như Tôn Thúc Ngao, khi sống hết lòng trung thành, tận tụy với đất nước, nhờ vậy mà vua nước Sở mới được xưng bá, nhưng nay chết rồi, con trai ông ta phải đi kiếm củi sống qua ngày”. Lúc này, Sở Trang Vương mới phát hiện ra đó không phải là Tôn Thúc Ngao. Ưu Mạnh cởi bỏ quần áo của Tôn Thúc Ngao, miệng ngâm nga hát: “Quan tham được hưởng vinh hoa phú quý, con cháu không lo nghèo đói; còn ngài, hỡi Tôn Thúc Ngao, ngài thử nhìn xem, ngài vì việc công mà quên việc tư, cả đời thanh liêm, trong sạch, vậy mà con cháu lại phải chịu khổ, không có chỗ cậy nhờ, vậy người làm quan thanh liêm làm gì”.

Tượng Sở Trang Vương xuất chinh

Sở Trang Vương là vua nước Sở th?