← Quay lại trang sách

Chương 10 Con Tàu Có Cánh

Sáng hôm sau, với cảm giác thật dễ chịu và háo hức, Bond bước vào ghế sau của chiếc Cadillac màu xám đậu sẵn ở phía ngoài khách sạn

“Tôi là Hamid.” - Gã lái xe có mái tóc xám cùng hàng ria mép rậm rạp chải chuốt cẩn thận và vẻ mặt nghiêm trang nói. - “Tôi sẽ đưa ông đến biển Caspian. Ông có mang theo quần bơi chứ?” - Hamid liếc nhìn chiếc cặp nhỏ mà Bond mang theo.

“Có.” - Bond đáp. - “Tôi có mang theo quần bơi cùng vài thứ linh tinh trong này.”

Trong cặp có một chiếc túi không thấm nước, vài tấm bản đồ, một chiếc áo và một chiếc quần lót dự phòng. Chàng không dự định sẽ ở quá một ngày tại Noshahr. Trong ngăn bí mật ở phía sau, dưới tấm ngăn có gắn bản lề là ống hãm thanh của khẩu Walther, đạn dự phòng và một thứ mà người sĩ quan quân giới, thiếu tá Boothroyd, đã nhìn chàng với đôi mắt kì dị màu xám không chớp, gọi đó là “một vật nhỏ đặc biệt dành cho trường hợp gay cấn”.

Bond, vốn là người không ưa đồ cải tiến, đã không thèm làm quen với vật đó. Nhưng thật sự miễn cưỡng, chàng mới bị thuyết phục để mang theo chiếc bật lửa Ronson Varaflame, mà hình như cái nút bấm bình thường bên cạnh thực ra lại là cái cò để bắn ra một cây kim thuốc độc đủ mạnh để làm bất động một người bình thường trong vòng sáu giờ liền. Còn những vật khác thì chàng chọn loại gọn nhẹ, chủ yếu dựa vào phản ứng của bản thân, và khi thật cần mới sử dụng đến sức mạnh của viên đạn từ khẩu Walther PPK. Ngay cả cái ống hãm thanh cũng bị chàng coi là phiền toái, vì chắc chắn sẽ làm mất thời gian quý báu để gắn vào súng, hoặc ngay cả khi đã được gắn sẵn thì cũng có nguy cơ bị vướng vào áo khi chàng rút súng.

Vừa ngả người trên ghế ngắm nhìn phong cảnh ngoại ô phía bắc của Tehran đang lùi dần ra phía sau, chàng vừa bóc gói Chesterfields, loại thuốc lá ngon nhất của Mỹ mà chàng có thể tìm thấy trong cửa hàng ở khách sạn. Mùi khói thuốc tỏa ra thơm nồng và chàng mời Hamid một điếu. Sau khi từ chối ba lần - đúng con số theo bài bản ở Tehran, điều mà chàng đã hiểu ra - Hamid nhiệt tình đón nhận.

Bond có thể cảm thấy chiếc áo sơmi bằng vải bông hải đảo của chàng dính chặt lên bộ ngực trong cái nóng điên người của buổi sáng này. Xe thiếu máy lạnh, có lẽ chàng nên quay cửa kính xuống để đón nhận cái không khí ẩm mốc ngoài đường thì hơn. Đã có thời kì, trước khi thành phố vươn lên phía bắc, Shemiran đã từng là điểm tránh nóng trong mùa hè. Rồi, theo như Darius nói, khi Shemiran đã trở nên đô thị hóa thì những gia đình giàu có lại tìm đến những bagh - khu vườn cây ăn trái mộc mạc với lều tranh của nông dân - ở dưới thung lũng xanh tươi của núi Demavend, nơi họ có thể thưởng thức cảnh điền viên trong hai tháng cạnh những dòng suối với cuộc sống giản đơn như tổ tiên của họ, ăn đồ ăn do dân làng cung cấp, hằng ngày đi leo núi và tối tối cùng nhau ngâm thơ.

Rốt cuộc, để có thể tìm được khí hậu dễ chịu và cũng để trốn tránh những đám đông mỗi lúc một tăng, họ buộc phải di chuyển qua vùng núi Elburz. Không khí ẩm và mát lạnh hơn ở chỗ mới quả là điều hằng mơ ước, thế nhưng lái xe kiểu Ba Tư mới là cái làm cho chuyến đi có được kết quả quan trọng.

“Con đường của Hàng ngàn Vực thẳm.” - Hamid nói và ra hiệu về phía bên phải.

Khi họ bắt đầu lên dốc thì con đường trở nên uốn éo như rắn lượn, có lúc phải ngoặt ngược trở lại. Hamid giữ đều chân ga trên tất cả những loại đường khác nhau. Gã chỉ dùng mỗi tay trái điều khiển tay lái, còn tay phải để rảnh rang múa may trong khi nói. “Kia là thung lũng Định Mệnh, đó là đồi Trinh Nữ... rồi hang Sư Tử... ngã tư Tử Thần.”

Đôi lúc, trong những khe núi và khe nước phía dưới, Bond nhìn thấy xác những chiếc xe hơi và xe buýt gỉ sét nằm chổng ngược lên trời. Khi lái gần tới khúc cua thật gắt, Hamid gào to lên như thành kính lắm, “Allahu Akbar”, và tỏ ra thích tin vào sự vĩ đại của Đức Ala hơn là giảm tốc độ xe mà gã có thể làm bằng cách nhấc bớt chân phải lên khỏi chân ga.

Từ từ rồi không khí cũng bắt đầu trở nên trong lành hơn. Sau hai giờ, Hamid dừng xe cạnh quán trà ở sườn đồi rồi ra hiệu cho Bond đi theo. Họ cùng ngồi ở hàng hiên uống trà đen pha đường và nhìn xuống vùng đất mới trải rộng ra phía nam của Tehran. Cả một vùng có thể nhìn thấy khá rõ qua màn sương mờ của khói và hơi nóng, một biểu tượng khổng lồ cho nỗ lực của con người trong vùng xung quanh sa mạc.

Hamid lui vào phía sau để làm vài việc với chủ quán, người hóa ra là bà con với gã, rồi mới ra mời Bond quay trở lại xe. Sau khi đi tiếp khoảng chừng một tiếng gì đó, họ vượt qua đỉnh cao nhất của dãy núi, và ngay khi họ vừa bắt đầu đi hướng xuống đồng bằng Caspian, không khí xung quanh đã trở nên ẩm và mát rượi cả người. Xa xa phía chân trời, lấp lánh đầy ảo vọng là mặt nước màu lam ngọc của vùng biển kín lớn nhất trên thế giới.

Phía dưới họ, Bond có thể nhìn thấy con đường uốn lượn trong thung lũng, qua những đồn điền xanh tốt sum suê, và cũng có thể thấy rõ những con lừa và lạc đà trên con đường bụi bặm, đồng thời thấy cả những chiếc xe buýt với hành lí chất đầy trên nóc đang hướng về phía bờ biển. Lũ súc vật di chuyển chậm chạp giữa vô số những chiếc Volkswagen, cả loại xe buýt cắm trại lẫn những chiếc xe con bọ đặc biệt, cùng những chiếc xe có hình khối hộp chữ nhật mà chàng đoán là được sản xuất từ trong nước.

Bond hít một hơi dài khi xe chạy qua một vườn cam - một phần vì mùi hương vỏ cam ngạt ngào trong không khí nhiệt đới và một phần cũng để lấy tinh thần cho những gì đang đợi ở phía trước. Có một điều gì đó mách bảo chàng rằng những ngày nghỉ đã qua rồi. Chỉ vỏn vẹn có ba mươi sáu tiếng đồng hồ vừa qua để hợp thủy thổ, nay chàng đang tới gần cái mà Felix Leiter có thể gọi là “chiến tuyến” trong chuyến đi của chàng.

Vào khoảng giờ nghỉ trưa, họ đến Noshahr; Bond yêu cầu Hamid lái xe đưa chàng đi lòng vòng một lúc để chàng có khái niệm về nơi này, Những ngôi nhà đẹp nhất, bao gồm cả lâu đài Mùa Hạ của vua Shah, đều nằm xa bờ biển và có trồng những hàng cọ cao. Thế nhưng phía bờ biển cũng có những khách sạn tốt, trong đó có khách sạn Jalal Năm Sao mà Poppy đã giới thiệu; đây cũng chính là nơi họ vào ăn trưa.

“Này Hamid,” - Bond nói trong khi gã lái xe đang chén ngon lành một chồng thịt xiên nướng với cơm trong phòng ăn vắng hoe. - “Chúng ta phải có một quy định, anh hiểu không. Anh sẽ lái xe đưa tôi đến bến cảng, rồi anh cứ để tôi ở đó. Nếu không thấy tôi quay trở lại khách sạn này lúc tám giờ tối nay thì anh phải gọi điện cho ông Darius Alizadeh. Đây là số điện thoại của ông ta. Ông ta sẽ biết phải làm gì.”

Bond đưa cho gã lái xe ít tiền rial. “Chừng này đủ cho cả chuyến đi đấy.” - Chàng nói. - “Vậy được không?”

“Nhờ Đức Ala,” - Hamid nói, nhưng có vẻ không mấy tin tưởng. - “Tôi sẽ nhắn bất cứ tin gì ông muốn, ông James. Tôi cũng hiểu hộp thư chết đó.”

Bond cười lớn. “Anh biết cái gì?”

“Có lần tôi đã lái xe cho một người Mỹ. Ông Silver. Ông ấy cũng cần tôi phiên dịch nữa. Có cái này, ông James. Tôi thích ăn caviar lắm. Món này ở đây rất là tuyệt đó.”

“Ồ, tôi cũng nghĩ như thế. Tươi rói ngay từ biển mà. Thế anh có biết tại sao caviar lại hiếm thế không?”

Hamid gật đầu. “Trứng cá tầm. Nhưng chưa được cá tầm đực thụ tinh.”

“Đúng rồi. “Và cá tầm trinh tiết đâu màng chuyện kia/Cho nên...” Không sao Hamid ạ. Tôi nghĩ đó không hẳn là thơ Ba Tư.” - Bond đưa tay ra túi quần sau. - “Cầm lấy cái này. Đủ cho món caviar đấy. Lúc về phải nhớ cẩn thận đấy.”

“Phải cẩn thận.” - Hamid miệng nói, tay đút túi mấy tờ giấy bạc vừa mới có thêm, chân bước nặng nề ra phía cửa phòng ăn của khách sạn.

“Đợi tôi thay đồ một chút nhé.” - Bond nói và đi về phía phòng vệ sinh.

Một phút sau, họ đã ở trong xe, chạy chầm chậm tới khu bến cảng theo chỉ dẫn trên tấm bản đồ của Poppy, trong khi Hamid đọc to tên các con phố mà họ đi qua. Có vài ba chiếc tàu buôn đang thả neo, và khá nhiều tàu đánh cá. Độ lớn của cảng này ấn tượng thật, Bond nghĩ. Mặc dù nó chỉ cách bãi biển có du khách tắm một đoạn đường ngắn, người ta có thể dễ dàng neo đậu vài chiếc tàu khu trục trong khu cảng vắng vẻ này cùng với những lối đi dài tắp, những nhà kho và sân bãi.

“Tới đây rồi.” - Chàng nói. - “Chạy xuống hướng này. Bây giờ anh hãy đọc tên những tòa nhà kia đi.”

Hamid đọc qua một loạt tên, nghe ngân nga trong tiếng Farsi khi họ chạy chầm chậm, cho tới khi gã nói tới cái tên “Xưởng đóng tàu Anh Em Nhà Isfanhani”.

“Poppy, em giỏi lắm.” - Bond vừa nói vừa bước ra khỏi xe. - “Này Hamid, nhớ những gì tôi nói không?”

“Tám giờ tối, ông James.”

“Trước khi gọi cho ông Darius, hãy tới kiểm tra lại cây cột rỗng này nhé.” - Bond chỉ tay vào một ống sắt gỉ sét chắc trước đây đã từng được gắn biển báo hiệu giao thông nào đó. - “Hãy nhìn vào trong xem có tin nhắn gì không nhé.”

Đây là lần đầu tiên suốt từ sáng tới giờ vẻ hào hứng đã xuất hiện trên khuôn mặt nghiêm trang của Hamid. Mắt gã long lanh hẳn lên và cặp ria mép rậm vểnh lên khi gã cười. “Hộp thư chết.” - Gã nói.

“Gần như vậy.” - Bond đáp, tự thấy ngạc nhiên vì sự cẩn thận của mình. Bản năng đã mách bảo chàng phải cẩn thận.

Chàng nhìn theo chiếc xe của Hamid chạy vòng đi và khuất hẳn rồi mới tiến về hướng ngôi nhà.

Có một cầu thang ở bên hông tòa nhà, và dường như đó là lối vào duy nhất cho khách bộ hành. Bond bước dọc theo con đường, tìm cách vào xưởng đóng tàu ít lộ liễu hơn. Cùng lúc ấy, chàng để ý thấy dường như không chỉ có tòa nhà này trong khu vực xưởng đóng tàu. Nối liền với tòa nhà, nhưng thấp hơn, là một nơi trông như nhà phụ, rộng khoảng một nghìn ba trăm mét vuông và không có những tấm mái xập xệ lợp bằng gỗ quét dầu creosote, thay vào đó, theo Bond đoán thì đó là những tấm inox mới. Nó vươn ra ngoài biển khoảng năm mươi mét, có thể được dùng như một bến tàu sâu hơn những bến khác.

Trí tò mò trỗi dậy, Bond tiến tới gần tòa nhà tìm lối vào. Toàn bộ tường nhà dường như không có chỗ nào hở để có thể vào trong - không có cửa, cửa sổ hay bất cứ lỗ hổng nào. Lối vào duy nhất là qua một cầu tàu, hiện đã bị đóng lại, nối từ ngôi nhà cũ bằng gỗ.

Sau khi đi tới đi lui hai lần dọc theo bến tàu để chắc không bị ai theo dõi, Bond ra phía sau chiếc xe tải Fiat và cởi bỏ quần áo, chỉ giữ lại trên người bộ đồ bơi. Chàng xếp bộ quần áo và - hơi miễn cưỡng - cả khẩu Walther PPK thành một gói rồi giấu vào trong thùng đựng rác. Khi thay đồ trong khách sạn, chàng đã buộc con dao biệt kích vào bắp chân trái ngay dưới đầu gối. Liếc mắt kiểm tra cả hai bên, chàng chạy nhanh dọc theo rìa bến tàu và tụt xuống nước thấp dần từ hai bàn chân. Mặt nước lóng lánh màu ngũ sắc vì những vết dầu loang và bốc lên cái mùi ngọt và ngột ngạt của dầu diesel. Bond tống hết không khí ra khỏi phổi, chúi đầu cố gắng lặn sâu xuống.

Mở mắt ra, chàng nhìn thấy những cái chân kim loại to lớn dùng để đỡ khung nhà. Có khoảng hơn chục cái như thế ở mỗi bên, phía dưới được gắn chặt vào những khối bê-tông và chôn sâu xuống đáy biển. Điều mà chàng không lường trước được là các vách của tòa nhà cũng được hạ thấp xuống tới mức đó. Ai đó đã rất kĩ lưỡng và cẩn trọng. Chàng lặn dọc theo chân vách tìm lối vào. Đáy biển tự nhiên hơi nhấp nhô, đặc biệt ở những nơi gần bờ, nên chắc chắn sẽ có khe hở. Chàng nghĩ có vẻ tòa nhà được mở ra ở dưới biển, thế nhưng nó quá xa với chàng để lặn một hơi ra đó.

Chàng đã ở dưới nước được gần một phút rồi, và mặc dù là một người lặn giỏi với khả năng nín thở phi thường, chàng biết mình cũng không thể chịu được lâu hơn nữa. Ở phía trên chàng, các vách kim loại chạy thẳng lên, mờ dần trong rong biển và làn nước mờ mịt. Với hai bàn tay, chàng có thể sờ thấy những cái ri-vê và chỗ nối, nhưng toàn bộ là những bức vách rắn chắc như kim cương vậy. Ai xây thứ này chắc hẳn phải có tiền, có chuyên môn và khả năng về công nghệ nữa.

Bond cảm thấy hai chân đang yếu dần do ôxy trong máu bắt đầu tụt giảm. Cách xây dựng khu này cho thấy chàng đang lần ra một cái gì đó rất quan trọng. Sự quyết tâm đã tạo thêm động lực cho đôi chân đau nhức của chàng, và chàng mở to đôi mắt trong làn nước tối om. Giữa một tảng đá và cạnh cuối lởm chởm của bức vách kim loại có một khoảng trống rộng vừa đủ, theo tính toán của Bond, để chàng có thể lách qua. Chàng lặn sấp lại gần chỗ đó, lựa cách luồn lưng dưới vách kim loại, dùng tay bám chặt vào tảng đá để ép người xuống, chống lại sức nổi của cơ thể. Hai lá phổi của chàng nóng rát và co thắt lại. Xương sườn và xương ức thì cứ như đang bị đập tung ra bằng búa hơi vậy. Chàng đạp mạnh để tiến lên phía trước và cảm thấy những cạnh sắc của vách kim loại cứa sâu trên lưng, trong khi bụng trượt trên tảng đá cứng và nhầy nhụa. Bằng cú đạp tuyệt vọng cuối cùng, chàng đã lách qua được. Chàng guồng mạnh vài sải tay để lặn ra chỗ nước trong, rồi để cho thân mình từ từ nổi lên, với cái đầu ngửa ra phía sau và hai tay đưa ra phía trước nhằm tự vệ. Sau vài giây, chợt ngón tay chàng chạm phải một tấm kim loại. Chàng bật nhẹ người ra phía sau và nhìn thấy hình dáng một thân tàu to, hơi tròn. Đầu óc chàng tuy đang bị thiếu ôxy, nhưng vẫn có thể mách bảo chàng rằng thân tàu chắc hẳn hướng lên trên và chàng nên trồi lên theo lối đó.

Ngay khi trồi lên bên cạnh thân tàu, hai tay chàng gặp phải một vật gì đó mọc thẳng ra từ thân tàu, hệt như cái cánh mọc ra từ thân máy bay vậy.

Con tàu, với cái cánh... Không thể được, Bond nghĩ, và đập dọc theo phía dưới cái “cánh” với chút sức lực cuối cùng của mình. Có thể vật này chẳng phải tàu hay máy bay gì hết, chỉ đơn giản là một tấm sàn mà chàng đã và sẽ bị mắc kẹt trong vài giây tới. Chàng điên cuồng quào cấu lần lối ra dọc theo mặt dưới tấm kim loại, và ngay khi trạng thái tê liệt bắt đầu luồn vào tứ chi và não của chàng thì mặt nước chợt sáng lên, và chàng nổi lên khỏi mặt nước, miệng thở hổn hển.

Cả một phút cố hít không khí cũng chỉ đủ cho chàng có sức bơi đứng tại chỗ. Cuối cùng, khi mạch và nhịp thở trở lại bình thường, chàng mới nhìn quanh.

Vật mà chàng nhìn thấy quả là kì dị nhất, chưa từng gặp bao giờ. Cái gian sắt khổng lồ này trông như nhà chứa tàu bay, nhưng chỉ chứa duy nhất một chiếc. Chính xác chiếc tàu này là cái gì thì chàng chịu, không thể hiểu nổi.

Rón rén, vì cảm thấy nước mặn như cắt thêm vào các vết thương ở sau lưng, và khẽ khàng để không gây chú ý, Bond thả người ra khỏi cái vật quái dị này để có thể nhìn được trọn vẹn nó rõ hơn. Nắm chặt tay vào vách nhà chứa tàu, chàng để cho hai mắt thu lấy toàn bộ cảnh lạ lùng này.

Nó dài, theo ước tính của chàng, từ phần đuôi đang đậu sát bờ tới phần mũi nhô hẳn ra ngoài biển Caspian dưới tấm lưới ngụy trang, phải hơn một trăm mét. Nó có cái đuôi nhô lên cao cùng hai vây lớn, và nó cũng có cánh nhưng đã bị cắt bỏ - ở ngay trước chỗ cánh sắp được thu gọn lại. Mũi tàu thì giống hệt mũi máy bay chở khách cỡ lớn nhưng ngay phía sau cái mũi ấy, nằm trên thân tàu, là những thứ trông như tám chiếc động cơ phản lực.

Chiếc tàu rõ ràng đang nằm yên trên mặt nước, ấy thế mà nó lại không có chân vịt, và do vậy chắc chắn phải di chuyển trong không khí. Mặt khác, những cái cánh ngắn chắc chắn không cung cấp đủ lực nâng để nó bay lên bất cứ cao độ nào. Thế nhưng rồi, Bond chợt nghĩ, có thể đó chính là điểm chủ yếu: Một chiếc tàu có tốc độ cao, bay là là trên cả mặt nước lẫn mặt đất, có thể dùng cho những hành trình xa, dưới tầm rađa.

Nếu nó hoạt động theo nguyên lí của tàu trên đệm không khí, hoặc đại loại như vậy, thì nó cũng có thể hoạt động trên mặt đất - miễn là mặt đất phải bằng phẳng. Đầu óc Bond quay trở lại với những tấm bản đồ mà chàng đã trải ra trên giường trong phòng khách sạn. Chàng nhớ rõ những vùng đất trũng Xô Viết ở phía bắc Astrakhan, trên vùng duyên hải cực tây-bắc của biển Caspian. Không hiểu cỗ máy quái dị này có thể di chuyển một mạch không nghỉ từ bên tàu ở Noshahr của Ba Tư tới thẳng Stalingrad được không?

Có một cánh cửa để chất hàng ở mạn phải, nối với hành lang bên trên bằng chiếc cầu tàu tạm bằng sắt. Phía cuối nhà chứa tàu có từng chồng hàng đựng trong những cái thùng đóng bằng ván. Bond cũng trông thấy vài ba chiếc xe nâng hàng đã tắt máy đang đậu quanh đó.

Sau khi chắc chắn đã hoàn toàn bình phục qua đợt lặn vừa rồi, chàng lại ngụp đầu xuống nước lặn ra xa để khám phá thêm. Chàng muốn biết chắc rằng không có ai đang ở trong nhà chứa tàu, rồi sẽ tìm lối lên hành lang bên trên, vì hiển nhiên là không ai có thể trèo lên qua hông tàu lồi cong như thế kia được. Từ dưới mặt nước mờ đục, chàng nhẹ nhàng trồi lên sát đuôi chiếc tàu lưỡng cư to lớn và, ngay trước mặt chàng là một chiếc thang sắt gắn vào thành cầu tàu. Bằng những sải nước êm ả, chàng bơi thẳng đến đó.

Sau khi leo lên và dừng lại khoảng một phút để trấn tĩnh, chàng nhanh nhẹn quan sát toàn bộ khu nhà chứa tàu. Lúc này chàng cần một chiếc máy chụp hình. Có khi phải quay lại đây lần nữa, chàng nghĩ, cùng với máy chụp hình đặc biệt chống thấm Minox B loại được chế tạo riêng cho chàng ở London. Loại này thường chỉ được dùng để chụp gần, nhưng chàng đã có ống kính Zeiss loại đặt làm riêng chuyên dành chụp xa.

Trong lúc đó, chàng đã chạy qua những bậc thang nối lên tầng trên. Chàng tiến tới thùng hàng gần nhất và nạy nắp của nó bằng cây sắt nạy lốp xe mà chàng tìm thấy ở một trong những chiếc xe nâng hàng. Thùng hàng cũng chẳng lớn hơn thùng đựng trà là bao, nhưng nó chứa đầy đến tận miệng những chiếc gói bọc trong túi nhựa tổng hợp cực bền, loại những thợ xây thường dùng cho việc chống thấm. Bond nhặt một chiếc lên. Nó nặng khoảng gần hai kí. Vỏ bọc của nó dày đến mức không thể đoán được cái gì ở bên trong. Tất cả gói hàng đều có cùng một cỡ, và rõ ràng đã được sản xuất và đóng gói không phải bằng tay mà bằng một dây chuyền công nghệ.

Đang suy tính xem sẽ làm gì tiếp, Bond chợt nghe thấy tiếng kim loại rít lên ken két và thấy cánh cửa đang được mở vào hành lang. Lập tức chàng nhào tơi náu mình sau những chồng hàng. Một giọng đàn ông cất tiếng, rồi có ai đó đáp lại. Trong khi dán mình xuống sàn, Bond chợt để ý thấy có vật gì đó trông giống cục đất màu nâu nâu.

Chàng rủa thầm. Chả trách sao chàng bị chúng nghe thấy. Cái cục đó chính là SID - Thiết bị Phát hiện Đột nhập bằng Chấn động - một trong những thiết bị thám thính kín đáo nhất của thập kỉ qua. Nó có thể phát hiện ra những chuyển động của người, động vật hoặc các vật thể trong vòng ba trăm mét. Nó hoạt động bằng ba cục pin thủy ngân và có một ăng-ten lưỡng cực chìm với tần số phát sóng ở 150 MHz, dùng để truyền những gì phát hiện được qua sóng xung đã được mã hóa - và tất cả những cái đó trông lại giống như đống phân bò hoặc cục đất.

Bond nghe có tiếng chân người chạy và những tiếng la hét. Nếu nhảy trở lại xuống nước, chàng sẽ phải ngoi lên để thở trước khi có thể ra tới vùng an toàn hơn ở ngoài biển. Ngay cả nếu cố gắng lặn nấp bên dưới thân tàu thì đến một lúc nào đó, chàng cũng phải ngoi lên để thở và sẽ bị tóm ngay. Không cách nào để chàng có thể tìm lại được khe hở bên dưới tấm vách kim loại mà chàng đã luồn vào. Chàng phải tìm lối ra trên mặt đất thôi.

Chàng phải tiến đến và vô hiệu hóa tên bảo vệ bằng vũ khí của mình càng nhanh chừng nào sẽ càng tốt chừng ấy. Chẳng đi đến đâu nếu cứ đợi trong khi thiết bị SID sẽ báo động thêm cho những tên bảo vệ khác kéo đến chỗ chàng.

Thật cẩn thận vì hiểu rõ tình trạng thân thể trần trụi yếu kém của mình, Bond lách người ra khỏi những chồng hàng. Tên bảo vệ lúc này đã xuống đến sàn bên dưới, chắc để kiểm tra xem con tàu có bị hư hại gì không. Từ hành lang nơi chàng đang đứng xuống sàn bên dưới cao gần năm mét, và chàng tính như vậy sẽ quá xa cho một cú nhảy an toàn xuống trúng vai tên bảo vệ.

Rút dao khỏi vỏ, chàng nhặt cây sắt nạy lốp xe, giơ nó ra khỏi thành hành lang và thảy ra xa hết cỡ. Ngay khi tên bảo vệ chạy tới chỗ phát ra tiếng động leng keng của cây sắt rơi, Bond nhảy ngay xuống sàn dưới và chạy thật nhanh về phía đuôi tàu. Chàng nhảy lên thân tàu, vừa kịp giấu mình sau đuôi tàu khi tên bảo vệ quay người lại và bắt đầu bước trở về.

Mặt chàng lúc này chỉ cách đuôi tàu chừng một mét, và chàng nhìn thấy một điều kì lạ: Trên đó có in hình lá cờ của Vương quốc Anh.

Chàng nghe rõ tiếng bước chân nặng nề đang quay lại của tên bảo vệ, và ngay khi hắn bước ngang tới, chàng nhảy ngay từ chỗ đuôi tàu cao hơn một mét rưỡi xuống. Tên bảo vệ chỉ kịp giật mình kêu “hự” một tiếng thì đã bị Bond đè gí mặt xuống sàn.

“Bỏ súng.” - Bond nói và ấn mũi con dao biệt kích vào động mạch chủ của hắn. - “Bỏ súng xuống.”

Hắn gồng người chống cự nên Bond chọc nhẹ mũi dao vào cổ hắn làm máu chảy ra. Hắn miễn cưỡng buông khẩu súng, và Bond dùng đầu gối đẩy khẩu súng ra cách xa chừng một mét.

Thay vì cắt cổ hắn, Bond dùng thủ thuật chẹn động mạch cảnh. Chỉ cần chẹn với một lực khoảng năm kí lên động mạch cảnh là có thể dừng dòng máu bơm lên não, và khi ấy một người bình thường sẽ ngất đi trong khoảng mười giây. Khi siết chặt cái cổ đẫm mồ hôi của hắn, Bond biết nếu cứ giữ như vậy thì tên này chỉ có thể tỉnh lại sau mười lăm giây, nhưng hắn sẽ bị yếu đi và mất phương hướng - và mười lăm giây cũng đủ để chàng gấp rút chạy trốn như đã định.

Khi thấy cái thân xác to lớn bên dưới mình mềm rũ xuống, Bond nhặt lấy khẩu súng và chạy qua cầu thang lên sàn trên, rồi chộp lấy một chiếc gói bọc nhựa tổng hợp. Khi chạy tới cửa, chàng nghe thấy tiếng kêu của tên bảo vệ đang tỉnh lại vọng lên từ sàn dưới.

Không kịp suy tính sẽ có gì ở phía bên kia cửa, Bond chạy thẳng tới và lao vụt ngay qua.