← Quay lại trang sách

Chương 13 Thế Giới Nhỏ Bé

Ở Paris, xa cách cả phương trời, René Mathis đang lướt qua tờ Le Figaro trong khi ăn trưa ở quán cà phê gần trụ sở Phòng Nhì. Một chiếc máy bay dân dụng mới hiệu Vicker VC-10 của hãng hàng không Gulf Air ở Bahrain, hắn đọc, cất cánh từ Anh quốc đã bị mất tích ở đâu đó trên biên giới Iran và Iraq. Nó chỉ đơn giản biến mất trên màn hình rađa.

Mathis nhún vai. Chuyện này lúc nào chẳng xảy ra. Phi cơ Comet của Anh đặc biệt hay bị tai nạn, hắn chợt nhớ lại. Hắn đã ăn một bữa trưa văn phòng điển hình: bít-tết tartar với khoai tây chiên giòn, một bình rượu chát Côte du Rhone và một tách đúp cà phê express. Đó là một ngày yên tĩnh ở Paris, và trong những ngày như vậy, Mathis thường có những ý tưởng tuyệt vời nhất.

Cuộc điều tra của cảnh sát về vụ sát hại Yusuf Hashim đã chẳng mang lại kết quả nào. Có những vùng ở Paris mà cảnh sát không thể thâm nhập nổi, có thể vì nơi đổ quá nguy hiểm cho các sĩ quan cảnh sát, hoặc vì đám dân nhập cư ở các cư xá cao tầng đó không chịu hợp tác, ngay cả khi chúng nói được tiếng Pháp. La Coumeuve, một quận của St Denis cùng cái Cité des 4000 ô nhục ấy, là một trong những nơi như vậy. Sarcelles cũng là một cái nữa: một khu ổ chuột cùng với những luật lệ hung tợn chó-ăn-chó của riêng nó thì có quá ít hoặc chẳng có chút nào luật pháp của nước Cộng hòa cả. Những chốn này bị cai quản bởi những người được coi là cái giá mà nước Pháp phải trả cho những rủi ro thời Đế quốc của mình.

Người Pháp bị bẽ mặt khi bỏ rơi Đông Dương, nhưng lại chỉ có một số ít hậu quả trong nước, ngoài sự xuất hiện của vô số những quán ăn Việt Nam trông giống hệt nhau. Chiến tranh ở Algeria, mặt khác lại chất gánh nặng lên những thành phố lớn ở nước Pháp, đặc biệt là Paris, với hàng ngàn người di cư Hồi giáo đầy bất bình. Trong khi họ bị ngăn không cho vào trung tâm thành phố bằng cách rất hiệu quả là được dồn vào những cư xá cao tầng ở ngoại ô, thì Mathis lại coi những nơi đó là cái ổ của tội phạm và phá hoại mà sớm muộn gì cũng sẽ nổ tung lên thôi.

Yusuf Hashim từng là một trong những tên buôn lậu trong cái guồng máy lớn cung cấp heroin. Cảnh sát đã tìm thấy ma túy trong tòa nhà đó với số lượng và chất lượng đáng kể. Nó không phải là một thứ đua đòi cho hợp mốt trong ly cocktail ở quán cà phê Le Boeuf sur le Toit, hay trong những hộp đêm thời thanh niên của Mathis. Nó là thứ ma túy chết người, được bán lẻ trên toàn quốc, và đường dây cung cấp được điều hành bài bản với nhiều điểm cắt nên không ai có thể lần ra gốc gác của nó.

Những đồng nghiệp ở Marseille, cộng tác với những thanh tra Mỹ, đã từng thành công trong việc ngăn chặn những chuyến hàng đi Mỹ mà đám FBI gọi chiến dịch đó là Kết giao với người Pháp. Điều mà sau đó họ khám phá ra là mặc dù nước Pháp mua nhiều heroin hơn trước đây, nhưng phần lớn những lô hàng được đưa vào sau đó lại được chuyển qua London.

Cứ hoàn toàn như là, cánh cảnh sát Pháp nói với hắn, có ai đó với những nguồn lực vô hạn đang phát động một chiến dịch chống lại Anh quốc.

Mathis nhìn đồng hồ đeo tay. Hắn vẫn còn dư vài phút nên gọi thêm một tách cà phê và một ly cô-nhắc. Mấy ngày qua, có một điều gì đó cứ lởn vởn trong trí nhớ của hắn mà hắn chưa thể nào nghĩ ra được. Và bây giờ, ngồi nhìn qua các vách kính của quán cà phê vỉa hè dưới mái hiên đỏ thắm, điều đó cuối cùng cũng hiện rõ lên trong đầu hắn.

Cái lưỡi bị dứt ra khỏi miệng bằng kìm... Trước đây hắn đã từng nghe tới vụ tra tấn kiểu này, và giờ hắn đã nhớ là ở đâu. Anh trai hắn, một thiếu tá bộ binh từng chiến đấu trong hàng ngũ quân đội Pháp ở Đông Dương đã nói cho hắn nghe về một tên tội phạm chiến tranh của Việt Minh mà họ cố sức bắt và đưa ra trước công lí. Tên này trực tiếp giám sát việc tra tấn những tù binh Pháp, và cũng chính hắn là kẻ ép buộc thi hành học thuyết Cộng sản chống lại các trường dòng Thiên Chúa giáo. Chuyên môn của hắn là sự trừng phạt - hoặc tra tấn - lũ trẻ, mà rất nhiều đứa trong số đó đã trở thành tàn phế suốt đời sau khi bị hắn “chăm sóc”.

Khi về đến văn phòng, Mathis yêu cầu người thư kí tìm lại những hồ sơ hình ảnh về tội phạm chiến tranh trong cuộc chiến ở Đông Dương.

Sau bữa trưa với Bond, Mathis đã giao cho một trong những phụ tá nhiệm vụ truy tìm nhà máy của Julius Gorner ở Paris và chụp hình những người chủ của nó. Vài tấm hình cho thấy đó là một người đàn ông Slavi đẹp trai với một bàn tay mang găng to và dáng điệu ngạo mạn, hung bạo dữ dội. Trong hai tấm hình khác, hắn đi cùng một người đàn ông đội mũ kê-pi có dáng dấp châu Á, có thể là người Việt Nam.

Khi người thư kí quay trở lại cùng tập bìa cứng màu nâu đựng hồ sơ, thì Mathis chỉ mất mấy phút để xác định sự trùng hợp. Hắn để cạnh nhau hai tấm hình, một tấm đen trắng mới tinh bóng lộn có hình người đàn ông đội mũ kê-pi đứng cạnh chiếc Mercedes 300D Cabriolet màu đen, và một tấm mờ nhạt được cắt ra từ tờ báo cách đây mười một năm có hình của Phạm Sinh Quốc, kẻ một thời có trên những tờ yết thị truy nã dán khắp các bức tường ở Sài Gòn thuộc Pháp. Tất cả chỉ là một người duy nhất.

Tuy vậy, Mathis cũng không vội nhấc điện thoại gọi xe đưa hắn đến nhà máy hóa chất của Gorner. Thay vào đó, hắn cố gắng phân tích xem liệu đối với Gorner mối liên quan từ vùng Viễn Đông có thể có ý nghĩa hơn là việc chỉ cung cấp cho hắn một gã sĩ quan tùy tùng tâm thần hay không.

Châm một điếu Gauloise đầu lọc, hắn gác cả hai chân lên bàn và cân nhắc thử xem liệu có thể có mối lợi nào cho Gorner không, khi tên này quyết định đi vào cái tam giác nguy hiểm Lào, Việt Nam và Campuchia.

❀ ❀ ❀

Do đi sau Paris chín tiếng đồng hồ, nên lúc này là chín giờ sáng của một ngày đẹp trời ở Santa Monica, và Felix Leiter đang đến thăm một căn nhà xây theo kiểu Tây Ban Nha trên đại lộ Georgina. Anh khập khiễng bước qua bãi cỏ đến trước cửa chính.

Anh chàng người Texas có mái tóc hoa râm, người từng là cộng sự trong một số điệp vụ thử thách nhất trong đời làm điệp viên của Bond, nay đang làm cho hãng thám tử tư Pinkerton và cũng chẳng giấu giếm nỗi buồn tẻ của mình. Anh đã được nhà sản xuất của một trong những xưởng phim ở Hollywood thuê điều tra về một vụ mất tích. Đó là cô gái có tên gọi Trixie Rocket, người đã xuất hiện trong hai bộ phim hạng B, bỗng dưng biến mất tăm, không hề để lại địa chỉ nơi đến hay số điện thoại liên lạc, chẳng có gì hết. Cha mẹ cô gái, đến từ Idaho, đã lớn tiếng đe dọa xưởng phim. Mọi sự nghi ngờ đang đổ dồn lên nhà sản xuất, người đã phân vai cho Trixie và hiện đang rất nóng lòng tìm cho ra cô gái để tránh tiếng xấu trước khi bà vợ của ông ta có thể biết chuyện.

Đây là công việc tẻ nhạt đối với một người có khả năng như Leiter, nhưng kể từ khi bị mất chân phải và cánh tay phải cho con cá mập đầu búa trong khi cứu Bond ở Miami, anh đã bị hạn chế trong những việc mà anh có thể làm.

Một tiếng chó sủa vang ở đằng sau cánh cửa căn nhà số 1614 đại lộ Georgina, rồi một phụ nữ tóc đen, trông khá hấp dẫn ngó đầu ra ngoài. Bà ta đang nghe dở điện thoại và ra hiệu cho Felix chờ. Anh bước tới, ngồi xuống bờ cỏ và mở tờ Los Angeles Times.

Sau chừng hai mươi phút chuyện trò trên điện thoại, cuối cùng người phụ nữ, Louisa Shirer, cũng mời anh vào và đưa anh tới sân nhỏ phía sau dùng một tách cà phê. Bà Shirer hóa ra lại là một phụ nữ duyên dáng và hay chuyện. Trixie Rocket đã từng ở trọ trong nhà bà, và bà nhớ rõ cô ta, nhưng cô đã không ở đây được ba tháng rồi. Cô ta không để lại địa chỉ nơi đến nhưng... Đúng lúc đó chuông điện thoại lại reo vang, và Felix buộc phải ngắm nhìn tách cà phê của mình mười lăm phút nữa.

Chuyến viếng thăm rất dễ chịu nhưng lại không được việc. Cuối cùng khi về tới khách sạn rẻ tiền ở phía tây Hollywood, anh mệt rã người. Chiếc quạt trần nhếch nhác lờ đờ quay bên trên những cây cọ trồng trong chậu ở sảnh khách sạn, còn thang máy thì đang bị kẹt ở tuốt trên lầu mười. Thế nhưng lại có một tin nhắn cho anh ở quầy tiếp tân yêu cầu anh gọi cho một số điện thoại ở Washington. Felix nhận ngay ra hàng chữ mở đầu và cảm thấy một niềm cảm hứng trào dâng trong lồng.

Chuyến hành động thực sự cuối cùng mà anh thấy là lần ở trên tàu lửa cùng với Bond tại Jamaica. Trước đó, anh đã được CIA tái tuyển dụng khi họ bị thiếu hụt nhân sự. Một khi đã có tên trong sổ, bạn sẽ ở trong danh sách trù bị cho đến cuối đời.

Cuối cùng, thang máy đã được phục hồi và đưa anh lên phòng. Felix gọi cho số máy ghi trong mảnh giấy. Sau một loạt những kiểm tra về an ninh, cuối cùng anh cũng được nối máy. Một giọng nói tẻ nhạt nhưng nghiêm trọng nói chuyện với anh trong suốt hai phút.

Leiter đứng cạnh giường, vừa hút thuốc vừa thỉnh thoảng gật đầu. “Vâng... vâng... tôi hiểu.”

Cuối cùng giọng nói kia cũng ngừng lời và Leiter thốt lên: “Rồi thì Tehran ở cái chỗ quái quỷ nào đây?”

❀ ❀ ❀

Cùng lúc, bấy giờ là chiều tối ở thành phố này, Darius Alizadeh đang đi lên trên khu andaroon - khu dành riêng cho phụ nữ - trong ngôi nhà cổ của ông. Ông thì quá là hiện đại và trần tục để tôn trọng sự phân biệt nam nữ theo tôn giáo trong nhà mình, nhưng cũng dùng những tòa nhà riêng cho công việc hoặc riêng cho sinh hoạt gia đình. Darius đã có ba cuộc hôn nhân ngắn ngủi và có ba người con trai với ba người vợ. Ông đã theo những điều khoản của muta cho phép các cặp cam kết sống với nhau một thời gian ngắn và có thể chấm dứt mà không phải li hôn. Ông rất khoái trích dẫn những lời dạy hữu ích từ kinh Koran: “Nếu như con sợ rằng mình sẽ không thể đối xử công bằng với trẻ mồ côi, thì hãy cưới những người phụ nữ mà con thấy tốt cho con, hai, ba hoặc bốn người; nhưng nếu con sợ mình sẽ không thể chung sống với họ được, thì hãy chỉ cưới một người...”

Darius đâu có sợ chuyện đó và ông đã chu cấp hậu hĩnh cho tất cả những người con trai cùng những người mẹ của chúng. Ông đang để ý tìm kiếm người vợ thứ tư mà Nhà tiên tri đồng ý, và đã tự cho phép mình thỉnh thoảng thử với những người có khả năng thích hợp với vị trí này. Khuya hôm nay ông sẽ gặp một người trong số đó - đó là Zoherh ở nhà hàng mà ông đã cùng ăn tối với Bond.

Văn phòng của Darius ở trên tầng thượng của khu andaroon - một phòng đơn trống trải có gắn máy lạnh cùng những tấm màn chớp bằng gỗ của Mỹ, và sàn nhà lát gỗ với tấm thảm xưa của vùng Isfahan cùng một chiếc lồng mạ vàng, nơi ông nuôi một con vẹt trắng. Hằng ngày, vào lúc 6 giờ chiều, ông đều đặn gửi điện tín báo cáo của mình về London. Nếu không lên sóng chính xác vào giờ đó, khoảng nửa tiếng sau ông sẽ nhận được lời quở trách dưới dạng một “cuộc gọi màu xanh” gửi đến từ công viên Regent, rồi một cuộc gọi màu đỏ sẽ được tiếp tục gửi đến lúc 7 giờ. Nếu vẫn không có hồi âm, London sẽ chuẩn bị tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra với ông.

Darius chưa bao giờ phải nhận những nhắc nhở của cả hai màu, và tối nay cũng thế, ông đang chú ý đặc biệt để thực hiện đúng giờ. Ông đeo tai nghe và ngồi vào trước máy truyền tin. Những ngón tay lão luyện của ông gõ lên bàn phím những kí hiệu liên lạc - “PXN gọi WWW” - trên tần số 14 megacycles. Ông chợt nghe thấy một khoảng trống rỗng trong thinh không, như vậy có nghĩa là London sắp sửa thông báo đã nhận được tín hiệu.

Ông đang có rất nhiều thông tin cho họ biết, thế nhưng lúc này quan trọng là phải giữ bình tĩnh. Trong phòng điều khiển ở công viên Regent có một bức tường treo đầy mặt đồng hồ cùng những chiếc kim luôn cử động run rẩy, trong đó có một chiếc dùng để đo độ nặng của các phím gõ và tốc độ của từng nhóm mật mã, đồng thời ghi nhận lại cả những lần gõ vấp đặc trưng của Darius cho những chữ riêng biệt - ví dụ như chữ “s”, do ngón tay thứ hai ở bàn tay trái của ông bị yếu. Nếu như chiếc máy đo không nhận ra “bàn tay” đặc trưng của ông, sẽ có một tiếng còi nhỏ vang lên và ngay lập tức ông sẽ bị cắt liên lạc.

Ông có biết trường hợp một nhân viên ở Tây Ấn, luôn chuyển điện quá nhanh khi bị kích động quá độ và đã bị máy bảo vệ cắt liên lạc. Có những cách khôn khéo để những điệp viên sau khi bị bắt có thể cho biết, bằng những thay đổi - có thể bằng “bàn tay” đặc trưng của họ, hay bằng những nhóm từ đã được cam kết từ trước trong bức điện - rằng họ đang hoạt động dưới sự ép buộc. Thế nhưng Darius lại không tin cậy những phương pháp đó. Cả một nhóm Tình báo Anh SOE ở Hà Lan, khi bị bắt trong chiến tranh đã trung thành đưa vào các bức điện gửi về nhà dưới sự giám sát của bọn Quốc xã những kí hiệu bị lộ mà đã được thỏa thuận từ trước, thế mà cuối cùng chính những sếp ở phố Baker lại gửi điện lại yêu cầu họ dừng ngay những trò lộn xộn đó.

Darius thông báo cho London bằng mật mã rằng vẫn không có tin tức gì từ 007 cả và yêu cầu cho chỉ dẫn xem bản thân ông có cần đi tới Noshahr không. Ông cũng đưa vào báo cáo cả chi tiết mỏng manh về những gì ông đã phát hiện từ trước tới giờ ở Tehran - từ Hamind và những người khác - về Quái vật Biển Caspian. Vào bữa trưa, ông xuống phố, tới một câu lạc bộ Pháp thanh lịch và mua cocktail ở hàng hiên cho một số tay người Đông Dương khẳng định là đã nhìn thấy nó. Qua món cốt-lết cừu non và vang đỏ Burgundy, ông biết được họ đã trông thấy, và những tấm ảnh của họ cho thấy con Quái vật đã được sửa để phóng tên lửa. Trên đường về, Darius ghé qua một câu lạc bộ nổi tiếng như là nơi kiểm chứng tin tức, một trong những chốn thanh lịch và hợp thời trang nhất ở Tehran, nơi có những con người am hiểu thời trang nhất thành phố, chơi môn bowling mười con ki trong hành lang lát đá cẩm thạch với những bản nhạc nền của Frank Sinatra và Dave Brubeck.

Ở đây, từ một gã người Mỹ uống quá nhiều rượu bourbon, Darius đã được biết những điều còn hấp dẫn hơn. Một chiếc Vicker VC-10, đáng lẽ phải được giao cho hãng Gulf Air ở Bahrain do BO AC làm chủ từ hai tuần trước, đã không tới nơi một cách đầy bí ẩn. Gã người Mỹ này đã nghe con của một người bạn làm ở căn cứ Không lực Hoa Kỳ nói rằng chiếc VC-10 trên thực tế đã vào không phận phía tây của Ba Tư, song không thấy bay ra. Nó có thể đã bị rơi hoặc hạ cánh trong sa mạc Dasht-e Lut, một nơi nào đó gần Kerman. Chẳng ai tìm thấy dấu vết gì.

Những ngón tay của Darius chuyển tin một cách đều đặn và khẩn trương. Ông biết rằng ông M sẽ hiểu rõ ràng toàn bộ những vấn đề nguy hiểm và phức tạp này, cứ như là ông đã chuyển cả bức điện mà không mã hóa vậy.

❀ ❀ ❀

Một tiếng sau, đúng giữa trưa ở London, mạch máu trên thái dương ông M đập mạnh như nó vẫn thường xảy ra khi ông bị căng thẳng. Ông quẹt diêm, châm vào tẩu thuốc rồi rít mạnh một hơi. Trên bàn làm việc của ông là những bức điện từ Paris và Washington, cũng như lời đề nghị cuối cùng của Darius từ Tehran. So sánh chúng với nhau có thể cho thấy toàn cảnh một bức tranh, nhưng cho tới nay chúng vẫn chỉ là những mảnh rời rạc-khẩn cấp, rất bực mình và chưa đầy đủ. Trên nóc nhà, cách đầu ông M khoảng hơn một mét, có ba chiếc ăng-ten thấp lè tè của một trong những đài phát sóng mạnh nhất nước Anh. Hầu hết lầu chín bị chiếm dụng bởi một nhúm các chuyên viên thông tin, những người thường hay sử dụng thứ ngôn ngữ riêng về những vết đen mặt trời và cái “lớp E của tầng điện li”. Nhưng vì họ đã kiên nhẫn giải thích cho ông M, trước những câu hỏi đầy cáu kỉnh của ông, rằng họ chẳng thể giúp gì hơn nữa nếu không có thêm những luồng tín hiệu mới.

Ông M bước tới gần cửa sổ và nhìn xuống công viên Regent. Vài tuần trước, ông đã dành nguyên một buổi sáng dưới sân vận động Lord để xem đội tuyển cricket Anh giành chiến thắng trước đội khách Ấn Độ trong vòng thi đấu của họ chỉ bằng một lượt chơi và một trăm hai mươi bốn lần chạy. Giờ thì làm gì còn thời gian cho cái việc phù phiếm đó nữa.

Ông nhấn nút đàm thoại nội bộ. “Moneypenny hả? Gọi trưởng ban tham mưu gặp tôi.”

Tay trưởng ban tham mưu, một người đàn ông gầy gò, dáng thanh thản, trạc tuổi với James Bond, đi qua cánh cửa bọc vải len xanh ngăn khu vực nhân viên của ông M với thế giới bên ngoài và bước vào hành lang trải thảm mềm.

Cô Moneypenny nhướng cao một bên lông mày khi tay này bước tới. “Cứ vào thẳng đi, Bill.” - Cô nói. - “Nhưng nhớ dây an toàn trên ghế nhé.”

Một ánh đèn xanh trên khung cửa sáng lên khi cánh cửa phòng ông M mở ra và đóng lại.

“Ngồi đi.” - Ông M nói. - “Anh nghĩ gì về bức điện của Quả Hồ Trăn?”

“Tôi mới có báo cáo của bên hàng không.” - Tay trưởng ban tham mưu nói. - “Cũng khó có thể chắc chắn với những thông tin chúng ta đã có được trong bức điện, nhưng họ nghĩ đó có thể là một chiếc Ekranoplan.”

“Nó là cái quái gì vậy?” - ông M hỏi.

“Trông nó giống chiếc máy bay cánh cụt nhưng lại hoạt động tựa như chiếc tàu chạy trên đệm không khí dựa vào cái gọi là “hiệu ứng bề mặt”. Nó nặng gấp đôi chiếc phi cơ loại thông thường nặng nhất, và dài gần một trăm mét với sải cánh rộng khoảng bốn mươi mét. Ông biết đấy, khi những con chim bay vào đất liền - hay những con ngỗng trời bay trên hồ nước, ví dụ như vậy - chúng kéo dài thời gian lượn mà không cần vỗ cánh? Đó là hiệu ứng bề mặt. Còn cái áp lực ép ngược người lên mà ông cảm thấy khi máy bay tiếp đất? Đó cũng là hiệu ứng bề mặt. Một vùng đệm không khí ép lại giữa cánh máy bay và đường băng sẽ tạo ra một lực nâng. Bọn Xô Viết đã tìm được cách khai thác sức nâng này. Nó được gọi là “WIG” - nghĩa là chiếc tàu có cánh-hiệu-ứng-bề-mặt. Vật này của họ đã đi trước vài năm so với tất cả những gì chúng ta đang có hiện nay dấy. Toàn bộ các chi tiết có trong báo cáo này.” - Tay trưởng ban để bộ hồ sơ lên bàn.

“Nêu nó đúng là như vậy,” - Ông M nói. - “Thì chúng ta có rắc rối đó.”

“Đúng vậy. Hiện nay họ vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm nó. Chúng ta được biết, đến nay mới chỉ có bốn chiếc được chế tạo. Thế nhưng người Nga đang có kế hoạch chế tạo thêm cả trăm chiếc nữa trong xưởng đóng tàu ở sông Volga đấy. Có một số ảnh chất lượng thấp do vệ tinh của Mỹ chụp ở biển Caspian và một bức do máy bay trinh sát U2 chụp. Những ngư dân Ba Tư cũng bàn tán chuyện nhìn thấy nó. Họ gọi nó là Quái vật biển Caspian.”

“Thế nó có thể gây tác hại như thế nào?” - Ông M hỏi.

“Chúng tôi nghĩ nó được thiết kế như một chiếc tàu chở lính và tấn công. Thế nhưng nó còn có tải trọng ước chừng khoảng hai mươi lăm tấn và có thể bay cách mặt biển khoảng một mét.”

“Tốc độ thế nào?” - Ông M hỏi tiếp.

“Tôi nghĩ tốt hơn ngài nên bình tĩnh để nghe điều này, thưa ngài.” - Tay trưởng ban nói. - “Nó có thể di chuyển với tốc độ bốn trăm cây số giờ.”

“Cái gì?”

“Vâng. Tương đương hai trăm năm mươi dặm một...”

“Tôi biết chính xác nó nhanh bao nhiêu.” - Ông M nói. - “Thế thì nó đang làm cái quái gì ở Ba Tư hả?”

“Vâng, Quả Hồ Trăn chỉ dựa vào lời truyền miệng từ một gã lái xe đã đưa 007 tới bến tàu ở đó thôi, như vậy thực ra chúng ta không thể nói gì hơn. Thế nhưng xem chừng việc này không ổn. Đặc biệt nếu như nó đã được cải tiến.”

Ông M bập mạnh một hơi thuốc lên chiếc tẩu. “Được rồi, tôi tin Quả Hồ Trăn. Thế anh đã cho phân tích mẫu hàng ông ta gửi về chưa? Gói hàng ở Noshahr được gửi về lúc sáng hôm nay ấy?”

“Dạ đã làm rồi. Toàn là heroin nguyên chất. Nếu mà heroin có thể được “nguyên chất” đến như vậy. Được gửi đi... Ồ, có Chúa mới biết được. Hình như nó được gửi đi Nga. Trong chiếc Ekranoplan.”

“Như vậy là Gorner có làm ăn với tụi Nga. Chúng sẽ tuồn heroin tới phương Tây qua ngã Đông Âu. Có thể qua những quốc gia Baltic, Estonia,... chẳng hạn.”

“Tôi sợ đúng là như vậy, thưa ngài.”

Ông M lại đi tới cửa sổ. Lưng vẫn quay về phía tay trưởng ban, ông nói: “Nhưng tôi không nghĩ toàn bộ câu chuyện chỉ có như vậy. Tôi không nghĩ nó chỉ là chuyện thương mại, chỉ là buôn lậu ma túy - dù cho có lớn đến như vậy. Bọn Mỹ lúc này đang đổ người vào Ba Tư đó.”

“Không phải họ luôn như vậy à?”

“Đúng, nhưng không phải như thế này. Tôi chưa từng thấy sự hoảng loạn đến như vậy ở Trung Đông kể từ khi gã Philby lộ diện ở Beirut. Bọn ở Langley biết đang sắp xảy ra chuyện gì rất lớn đó.”

“Thế chuyện của chúng ta và Langley có gì tốt hơn không?” - Tay trưởng ban hỏi.

Ông M lắc đầu. “Vẫn còn lạnh nhạt lắm, tôi e là như vậy. Việt Nam chính là rắc rối đấy. Phải cho tới khi đám chính trị gia có thể nhìn thẳng vào mắt nhau về chuyện đó hoặc cho tới khi chúng ta có thể gửi quân tới đó, còn thì vẫn là mức độ... dè dặt này.”

“Ý ông là về mặt Ba Tư mà nói, cả hai chúng ta cùng đang rơi bổ nhào xuống đất song chẳng ai nói chuyện với ai cả, phải không?”

Ông M thở nặng nhọc. “Đầu đuôi câu chuyện chính là như vậy đó, Bill ạ. Đó là lí do chúng ta cần tin tức từ 007 đến như vậy.”

“Thế còn 004 thì sao? Có tin tức gì không?”

“Chẳng có lấy một tiếng nào cả. Điều làm tôi thực sự lo là những gì tôi được biết từ Washington. Hầu như tất cả các điệp viên dự trữ đều đang được đưa tới Tehran. Ngay cả đến những gã bán hưu trí nữa. Mọi người đang vào cuộc cả.”

“Và chúng ta thực ra lại không biết tại sao như vậy. Có điều gì đó họ không nói cho chúng ta biết.”

Ông M lặng lẽ gật đầu.

Cuối cùng, sau một hồi im lặng nặng nề, tay trưởng ban nói: “Nếu như Gorner làm ăn với tụi Nga để có thể dùng chiếc Ekranoplan của họ vận chuyển heroin của hắn, thì hắn sẽ phải bằng cách nào đó trả lễ cho tụi nó chứ.”

“Không chỉ tiền thôi đâu.” - Ông M nói. - “Anh có đang nghĩ như tôi nghĩ không đó?”

“Tôi tin rằng đó là công việc của tôi, thưa ngài.” - Tay trưởng ban nói.

Ông M hạ tẩu thuốc xuống mặt bàn và nhấn vào nút đàm thoại nội bộ. “Moneypenny.” - Ông nói. - “Nối máy cho tôi nói chuyện với thủ tướng.”