Chương 16 “Chúng Ta Chơi Chứ?” (II)
Ngay sau đó, Bond bị sáu nòng súng tiểu liên gí sát vào đầu và ba con chó bẹc-giê Đức, tuy đang bị gìm lại bởi những tên giữ chó, nhảy chồm lên mặt. Chàng đứng thật im với lưng xoay lại phía cửa văn phòng của Gorner và hai tay giơ cao trên đầu, với hi vọng mọi tính toán của mình đều đúng.
Chàng tin rằng lính của Gorner đã nhận được lệnh bắt sống chàng. Không có Bond, Gorner vẫn có thể kiếm được một người có hộ chiếu Anh để khống chế, bằng cách ép buộc viên phi công của chiếc VC-10 bị không tặc quay trở lại buồng lái. Nhưng với quan điểm luôn ở mức khiêu khích cao độ, Gorner sẽ không bao giờ sử dụng một nhân vật vô danh như công cụ khởi chiến chống lại Liên Xô nêu vẫn còn cơ hội sử dụng một kẻ thù nổi tiếng từ trước đến giờ. Hành động mang tính tượng trưng to lớn, Bond nghĩ, luôn là nhân tố chính cho các phương pháp hoạt động và sự trả thù đầy thèm muốn của Gorner.
Rồi, chàng thấy từ cuối hành lang hiện lên trong ánh đèn đêm một hình bóng lực lưỡng tiến về phía chàng. Trên đầu nó là chiếc mũ kê-pi của lính Lê dương, và Bond cảm thấy một cảm xúc mới lạ khi nhìn thấy bóng dáng của Chagrin: thật khuây khỏa.
Chagrin sủa ra hai từ bằng tiếng Farsi trong khi bước tới. Bọn lính gác giãn ra một chút để nhường chỗ cho hắn.
“Con ranh kia đâu?” - Chagrin hỏi.
“Tao không biết.” - Bond đáp.
Chúng sẽ thấy cánh cửa mở ra ngoài và sẽ tìm kiếm bên ngoài tòa nhà. Sự mạo hiểm mà chàng trông vào là nơi cuối cùng chúng nghĩ người phụ nữ có thể ẩn náu - trên máy bay mà cô ta biết sẽ cất cánh và rơi vào ngày hôm sau. Cơ may không lớn, song đó là cách cuối cùng chàng có thể theo.
Chagrin hất mạnh đầu xuống hướng lối đi dẫn về chỗ xà lim và ra lệnh ngắn gọn. Khi bị tụi lính túm chân tay khiêng đi như con ếch, Bond đã nhận ra sự náo loạn của cả tòa nhà. Chuông báo động reo inh ỏi và hàng trăm bước chân chạy rầm rập trên sàn. Tiếp tục đi, Scarlett, chàng nhủ thầm. Hình bóng nhỏ nhắn lặng lẽ đi khuất lên cao lẫn vào bóng đêm lóe lên trong đầu chàng.
Hai tên lính ở lại với chàng trong xà lim, và chúng trói tay chàng lại. Thêm hai tên nữa đứng bên ngoài. Sau vài phút, khi chuông và còi báo động đã im hẳn, cánh cửa xà lim mở ra và Chagrin bước vào.
“Quỳ xuống.” - Hắn ra lệnh và chỉ xuống sàn.
Bond quỳ xuống, để hai đầu gối lên trên nền cát đúng vào nơi hai mảnh thủy tinh đã được chàng chôn trở lại.
“Con kia đâu?” - Chagrin hỏi.
“Tao đã nói với mày rồi.” - Bond đáp. - “Tao không biết. Tên lính gác mở cửa vì cô ấy bị bệnh. Cô ấy chạy đi rồi, nhưng tao không biết cô ấy đi đâu. Tao đi xuống hành lang để báo cho Tiến sĩ Gorner biết một trong những vị khách của ông ấy đã đi mất. Tao hình như đã nhớ nhầm mã số văn phòng ông ấy.”
“Láo toét!” - Chagrin gầm lên. - “Láo toét!”
Cái bên mặt có thể cử động được bình thường của hắn co rúm lại trong cơn giận dữ, trong khi nửa mặt bên kia vẫn lặng im một cách bất thường. Một bên mép của hắn sùi bọt lốm đốm vàng khè.
Và đây, Bond nghĩ, chính là hình ảnh đã bày ra trước mắt bọn trẻ con khi chúng ngồi xếp bằng thành vòng tròn trong sân làng, lắng nghe dụ ngôn về người Samaria nhân lành được ghi lại trong sách Phúc âm.
“Nói cho tao biết con ranh ấy đi đâu. Nói đi!”
Bond nhìn tên đao phủ với vẻ kinh tởm. Một câu nói từ bài giảng trích trong Kinh Thánh chợt đến với chàng. “Hãy chịu đựng thay cho lũ trẻ đã đến với ta.” - Chàng nói. - “Và đừng tha thứ cho bọn người kia: vì đó chính là vương quốc của...”
Chagrin đá mạnh mũi giày vào sườn của Bond, và Bond nghe thấy tiếng xương bị gãy. Rồi, từ trong túi áo, hắn lấy ra cái hộp bằng da bên trong đựng một đôi đũa bằng ngà voi có những hàng chữ Trung Hoa màu đỏ tươi.
Một tên lính nắm tóc và giật ngược đầu của Bond lên, tên khác nắm chặt lấy hàm của chàng để Chagrin từ từ luồn sâu chiếc đũa vào lỗ tai bên trái của chàng.
Bọn lính gác vẫn giữ chặt lấy đầu chàng, trong khi đó Chagrin, với sự thận trọng và chính xác như vừa rồi, tiếp tục luồn chiếc đũa thứ hai vào lỗ tai bên kia của chàng. Bond có thể cảm nhận rõ chiếc đũa luồn sâu tới màng nhĩ của mình như thế nào.
“Mày đã nghe những điều xấu và mày không được nói lại.” - Chagrin nói. - “Đây là điều Phạm Sinh Quốc làm khi có người nghe điều xấu.”
Bond gồng người khi Chagrin tiến lại gần và đứng dạng hai chân. Chàng có thể thấy đôi giày nhà binh lún sâu xuống cát để lấy điểm tựa chắc hơn trong khi hắn dang rộng hai cánh tay lực lưỡng ra.
Bond nín thở, nhắm mắt lại và không nhìn thấy gương mặt ở phía trên với cái miệng phát ra chỉ hai từ “Dừng lại.”
Chàng ngó lên, và thấy trên tấm phên đang mở của cánh cửa xà lim là những ngón tay dài của một chiếc găng trắng ngoại cỡ. Cánh cửa mở ra và Gorner bước vào, trên mình mặc bộ đồ ngủ bằng lụa đỏ sẫm.
“Cám ơn, Chagrin. Mày có thể đi được rồi. Tao muốn thằng Bond có thể nghe được những chỉ dẫn trong khi bay. Đứng lên.”
Bond đứng dậy. “Vậy là,” - Gorner nói. - “Con chó cái đó đã trốn rồi. Bọn công nhân sẽ rất thất vọng nếu tao không bắt được nó về. Thế nhưng tao nghĩ chúng ta cũng sẽ làm được thứ gì đó mà không có nó, đúng không mày?” Hắn cười tự mãn.
Poppy, Bond nghĩ ngay. Hắn sẽ bắt cô em thay cho cô chị và đám công nhân sẽ không bao giờ biết được sự thay thế dó.
“Được rồi.” - Gorner nói. - “Tao cũng tính phải hi sinh một con tốt trong ván cờ này. Để thắng trận, đôi lúc mày cũng phải thua trong cuộc đụng độ nhỏ - và thành thật mà nói, con ranh đó là một phiền toái. Con cá lớn vẫn đang còn trong lưới của tao. Có phải là mày không, hả Bond?”
“Mấy giờ chúng tao sẽ bay?”
“Tao chả thấy có lí do gì để thay đổi kế hoạch cả.” - Gorner nói. - “Cũng chẳng phải bởi con ranh đó vì người của tao sẽ tìm thấy nó trong khoảng một giờ. Mày sẽ lên máy bay lúc chín giờ. Hoa tiêu là một trong những đứa khá nhất của bọn tao, một tên cựu đầu gấu ở chợ Tehran mà tao đã huấn luyện được. Nó tên là Massoud. Nó nói được tiếng Anh - hoặc ít nhất cũng đủ để cho mày biết cần phải làm gì. Chiếc máy bay chỉ có đủ nhiên liệu để bay tới Zlatoust thôi. Khi mày hạ thấp độ cao và thả bom xong, theo hướng dẫn của Massoud, mày sẽ tiếp tục hạ độ cao và rồi nó sẽ rời máy bay bằng dù. Còn mày, Bond à, mày sẽ tiếp tục bay cho tới khi không còn nhiên liệu, và rồi...” - Hắn giang rộng hai cánh tay.
“Tao hiểu.”
“Máy bay của Anh. Rất không an toàn. Và trong trường hợp nếu mày muốn làm một chuyện anh hùng nào đó sau khi Massoud đã đi thì cũng còn ba tên lính nữa. Chúng không biết chuyện Massoud nhảy dù hay máy bay không còn nhiên liệu đâu. Chúng là bọn đã không làm vừa lòng tao. Chúng quá tuyệt vọng để trở lại danh sách tốt của tao, và chúng nghĩ đây sẽ là cơ hội cuối cùng của chúng. Chúng sẽ nghĩ Massoud quay máy bay lại và trở về căn cứ. Nhưng chúng cũng có hộ chiếu Anh và sẽ cùng rơi với mày. Do vậy mày có thể quên cái chuyên hạ cánh khẩn cấp trên đường băng của Nga như trong sách chỉ dẫn.”
Gorner nhìn đồng hồ của hắn. “Cũng gần bốn giờ rồi. Tao quay về ngủ đây. Sáu giờ tao sẽ dậy và ăn sáng. Trứng luộc lòng đào, thăn heo xông khói, cà phê.”
“Tao muốn có hạt tiêu đen rắc lên phần của tao.” - Bond nói. - “Giã thôi chứ đừng xay.”
“Hãy nhớ đến những người Ailen chết đói.” - Gorner nói. - “Tám giờ mày sẽ có một ly nước. Ngủ ngon nhé Bond. Ngày mai nhiều việc lắm đấy.”
Cánh cửa xà lim đóng sầm lại. Bond nằm xuống và bắt đầu dùng lưỡi tìm mấy miếng kính giấu dưới cát.
❀ ❀ ❀
Cũng cùng lúc đó, Darius chợt tỉnh giấc vì tiếng chuông điện thoại reo trong phòng ngủ ở khách sạn Jalal Năm Sao tại Noshahr. Ông vừa mơ thấy mình ở trong phòng tắm hơi chung với Zohreh.
“Chào Darius. Xin lỗi vì đã đánh thức ông. Tôi là Felix Leiter của CIA. Sắp nổ ra một vụ lớn lắm. Tôi cần ông giúp.”
“Làm sao anh kiếm được tôi?” - Darius hỏi trong khi miễn cưỡng gạt khỏi đầu hình ảnh nóng bỏng vì hơi nước của Zohreh.
“Mối liên hệ giữa những đồng minh cũ vẫn chưa hoàn toàn đứt đâu. Tôi vừa nói chuyện với mấy người ở London. Vứt mẹ nó cái chính trị chính em đi. Đây là một vụ thực sự.”
“Thế anh đã gặp J.D. Silver chưa?” - Darius hỏi.
“Carmen ấy hả? Rồi. Gặp hắn ở Tehran. Tôi nghĩ hắn cũng đang trên đường đến đây đấy.”
“Thế anh đang ở đâu vậy, Felix?”
“Tôi đang ở ngay bên kia đường đây, Darius.”
“Anh là bạn của James Bond hả?”
“Santiago!. Đó là tiếng kêu xung trận của chúng tôi đấy. Cũng giống như Cortez. James là người anh em kết nghĩa máu thịt của tôi đấy. Tôi rất ngượng với thị hiếu của cậu ấy về xe hơi. Ngoài ra thì cậu ấy...”
“Với tôi vậy đủ rồi.” - Darius nói. - “Hãy lên phòng tôi đi. Số hai ba bốn.”
“Tôi hiểu, thưa ông.”
Leiter gác ống nghe trong buồng điện thoại bên bến cảng và cà nhắc lê bước sang phía khách sạn Jalal. Khi lên tới phòng 234, anh thấy Darius đã mặc xong quần áo và đang đợi anh với khay cà phê cùng trái cây trên bàn.
Trong phòng còn có một người đàn ông bệ vệ với hàng ria mép rậm như chổi xể. “Đây là Hamid.” - Darius giới thiệu trong khi bắt tay Felix. - “Tài xế. Gián điệp thời vụ. Chuyên gia về hộp thư chết và những nơi ở an toàn.”
Hamid rụt rè cười.
“Các bạn ơi, cái vụ đó lại lôi tôi trở lại đấy.” - Felix nói.
“Và Hamid biết con Quái vật sống ở đâu đấy.”
“Thế Bond có tin anh ta không?”
“Bằng cả tính mạng của cậu ta đấy.” - Darius nói.
“Vậy tốt rồi.” - Leiter nói và đón tách cà phê Darius mời. - “Hãy nói cho tôi ông biết gì đi.”
Sau khi Darius cho biết về những chi tiết ông nhận từ London về chiếc Ekranoplan cải tiến, Leiter nói: “Tốt lắm, ít nhất chúng ta cũng biết nó sẽ xuất phát từ đâu. Thế nhưng với tốc độ mà máy bay ấy lướt trên mặt nước như vậy, chúng ta sẽ chỉ có gần hai tiếng đồng hồ cho máy bay cất cánh và thả bom thôi. Sau đó máy bay của chúng ta vào tới không phận Xô Viết rồi. Và đấy không phải là nơi máy bay của Mỹ có thể sống sót quá năm phút.”
“Căn cứ không quân gần nhất của các anh ở đâu?” - Darius hỏi.
“Chính thức mà nói thì xa lắm. Ở chỗ khỉ ho cò gáy nào đó tôi không biết. Nhưng không chính thức mà nói thì chúng tôi có máy bay ở Dhahran, Ả Rập Saudi và một vài cái gì đó ở phía đông Thổ Nhĩ Kỳ. Máy bay tiêm kích - Ném bom. Tôi không thật chắc chắn lắm. Tôi được cử tới đây chỉ để tìm-hiểu-tình-hình thôi, Darius ạ. Tôi chỉ vừa mới chuyển những tin tốt đi thôi. Nó sẽ căng thẳng như điên đó. Thế nhưng đấy mới chỉ là một nửa của vấn đề thôi.”
“Nửa kia là gì vậy?” - Darius hỏi.
“Đây là điều mà tôi biết. Chiếc máy bay dân dụng của Anh mới bị mất tích vài ngày trước ấy, nó sẽ xuất hiện trở lại vào một ngày đẹp trời nào đó và bay về hướng bắc.”
“Đến Liên Xô à?”
“Đúng. Chúng tôi không biết nó sẽ đáp xuống nơi nào, nhưng biết chắc nó sẽ không tốt chút nào cả. Chúng tôi có một số máy bay tiêm kích ở ngoại ô Istanbul. Chiếc máy bay dân dụng đó chắc chắn đã được sửa lại để mang bom hay một thứ gì đó. Mạng lưới rađa của Liên Xô khá tốt và tôi nghĩ chúng ta có thể trông chờ vào một phi đội MIG-21 sẽ nhanh chóng bu quanh chiếc máy bay sau khi nó xâm phạm không phận Liên Xô. Rồi bùm một cái. Chiếc máy bay sẽ bị hạ.”
“Thế nhưng bụi phóng xạ từ nó nữa.” - Darius nói. - “Còn chuyện chính trị nữa. Nhưng nếu nó trông giống một phần của vụ dàn xếp như thể Anh hay Nato tấn công thì sao?”
“Ông hiểu vấn đề rồi đó, Darius. Chúng ta phải hạ con chim đó trước khi bọn Xô Viết làm. Thế nhưng chúng ta lại không biết nó sẽ cất cánh từ đâu. Mọi căn cứ không quân của chúng tôi đều đang trong tình trạng báo động đỏ đấy, mẹ nó chứ, bầu trời thật quá rộng. Carmen Silver đang bị cháy cả tai vì nghe thông tin cập nhật từng phút một từ Langley đấy.”
“Tệ đến thế cơ à?” - Darius nói.
“Đúng thế. Tổng thống đã hủy hết các cuộc hẹn rồi. Họ đang theo quy trình mà họ đã lập ra sau cái vụ tên lửa ở Cu Ba ấy. Họ thấy đây là một vụ lớn, có thể xảy ra bất cứ lúc nào.”
“Thế chúng ta có thể làm được gì nào?”
“Ngay bây giờ thì chưa. Hãy cứ đợi chỉ thị đã. Silver có thể sẽ có thêm tin mới.”
Darius hớp một hớp cà phê và thở dài. “Tôi sẽ phải làm gì đó chứ.” - Ông nói. - “Nếu đó là Gorner thì Savak đã biết được đại khái căn cứ của hắn ở đâu trong sa mạc chứ.”
“Đúng vậy, thế nhưng làm sao máy bay có thể cất cánh từ sa mạc được, đúng không? Nó cần tới đường băng chứ. Hoặc một sân bay nào đó. Đó là một chiếc máy bay lớn mà.”
Darius đứng dậy, vừa gãi gáy vừa đi vòng vòng trong phòng, “Ừm... Sân bay. Yazd, Kerman... Trong khi tôi lục lọi lại đầu óc thì Felix,” - Ông nói. - “Hãy cho tôi biết một chuyện. Tại sao mọi người gọi hắn là Carmen?”
“Ông nghe được chuyện gì?”
“Hắn kể cho tôi nghe câu chuyện về vụ đầu tiên của hắn ở Guatemala.” - Darius nói. - “Và việc hắn đã giúp làm một vụ binh biến lật đổ và tống khứ tay lãnh đạo quyền lực; đấy cũng chính là điều mà nhân vật Carmen làm trong vở opera - tiến hành một cuộc binh biến.”
Felix phá lên cười, “Toàn là những chuyện tào lao. JD là một gã không khoái phụ nữ, nếu như ông biết tôi muốn ám chỉ điều gì. Một trong những cái đó ấy. Trong một phi vụ, hắn đã phải làm việc trong vỏ bọc nhân viên của hãng General Motors. Hãy quên nó ở đâu đi. Một đêm sau khi uống vào, hắn khoe đã quyến rũ được ba gã trong đội bán xe của General Motors. Hắn khoái nhất mấy thằng bán xe hơi. Carmen Silver.”
Darius cười lộn ruột. “Thế mà hắn cứ giấu chúng tôi suốt từ trước đến giờ.”
“Ông cũng phải làm như vậy với hắn đi. Ông hãy gọi cho hắn theo số này nếu không tìm được tôi.” - Felix đưa cho ông tấm danh thiếp. - “Nào, thế bây giờ ông có nghĩ chúng ta cần phải xuống bến tàu và để ý canh chừng con Quái vật chứ?”
Darius nhìn chằm chằm vào mặt Felix như thể đang xem xét lại anh lần cuối. Rồi ông quyết định. “Chúng ta không cần phải xuống bến tàu.” - Ông nói. - “Hãy cứ ở đây. Tôi có một người ở trên tàu.”
“Ông có cái gì?” - Leiter thốt lên.
“Tôi đâu có ngồi chơi không.” - Darius nói. - “Tôi sẽ không ngồi cả ngày để đợi kị binh Mỹ đến. Tôi thu phục được một trong những tên người Nga đào ngũ đã cải tiến chiếc Ekranoplan. Hắn đang gửi điện bằng radio cho văn phòng của tôi ở Tehran thông báo chính xác tọa độ mà chúng gài vào hệ thống dẫn đường. Babak, người của tôi ở Tehran sắp điện đến đây cho tôi đấy.”
“Ông tài tình thật đấy.” - Felix nói. - “Làm sao ông có thể thuyết phục được hắn?”
“Cách thông thường thôi.” - Darius nói. - “Bằng đôla Mỹ. Thật là nhiều.”
“Được, vậy khi nào có tin, tôi sẽ gọi cho Langley và họ sẽ cho bất cứ thứ gì họ có cất cánh ngay.”
Có một tiếng bíp ở chiếc điện thoại cạnh giường. Đó là nhân viên tiếp tân.
“Ông Silver đang ở đây. Tôi có thể đưa ông ta lên được không?”
❀ ❀ ❀
Ngay trước lúc tám giờ, Bond, chân không giày và vẫn mặc bộ đồ bảo hộ lao động, bị đưa từ xà lim ra phòng vệ sinh, và từ đó tới văn phòng của Gorner.
Từ người của gã đàn ông trong bộ đồ vải lanh toát ra vẻ kích động hầu như có thể sờ thấy được. Trên ve áo của hắn có gài một bông cẩm chướng tươi, đỏ thắm, và hình như hắn mặc chiếc áo mới với cravat đỏ thẫm chói lọi. Mái tóc mềm rũ đã được chải ngược từ trên vầng trán cao xuống sau gáy. Ngay cả chiếc găng tay màu trắng cũng đã được giặt giũ cẩn thận.
Gorner đưa ra bộ đồng phục BOAC với cấp hiệu cơ trưởng. “Năm phút trước khi kết thúc.” - Hắn nói. - “Mày sẽ phải thay bộ này. Nó sẽ được để sẵn trên máy bay. Trong bộ đồ cơ trưởng này, mày trông sẽ bảnh lắm đây Bond ạ. Trông cũng bảnh bao như bọn cựu sinh viên trường Eto ấy. Cứ thưởng thức những giây phút ấy đi, phải không? Như người Pháp thường nói, Hôm nay là vua, ngày mai...”
“Tao biết nó có nghĩa gì.” - Bond nói.
“Đương nhiên là mày biết rồi. Rất khác thường khi nói tiếng nước ngoài. Hầu hết người dân nước mày đều mong đợi “những chủng tộc kém hơn” phải hiểu tiếng Anh nếu như chúng la lên đủ lớn. Thế nhưng vào giờ này ngày mai, sự kiêu ngạo và trò “lá mặt lá trái” của chúng sẽ bị nghiền nát. Mãi mãi. Thủ đô của chúng mày sẽ trở thành con tàu cháy âm ỉ, vùng quê đẹp đẽ của mày - hai hạt Kent và Surrey ấy - sẽ trở thành một vùng nhiễm bụi phóng xạ.”
Gorner bước vòng quanh bàn cho tới khi đến đứng bên cạnh Bond. “Tao sẽ theo dõi mày cất cánh trong ít phút, rồi tao sẽ đợi cái điều chắc chắn sẽ xảy ra. Mày có lời trối trăng nào cho đồng bào của mày? Cho Nữ hoàng của mày? Cho Thủ tướng của mày không?”
Bond cắn môi. Lời nói của Poppy thoảng qua trong đầu chàng. “Hãy giết Gorner đi.”
“Rất tốt, vậy thì...” - Gorner nói. - “Chúng ta chơi nhé?”
Những tên lính gác quen thuộc dẫn Bond qua hành lang và gí chặt nòng súng của chúng vào mang tai chàng trong khi chiếc thang máy hình trụ đưa họ lên cao. Một chiếc xe điện đang đợi ở cửa, và người lái xe ngắt tia lade cho cánh cửa mở ra.
Chưa tới chín giờ nhưng mặt trời ở Ba Tư đã chiếu rát trên đầu khi mọi người đi qua đường băng tiến tới chiếc máy bay VC-10 sáng bóng. Chiếc đuôi vươn cao và bốn động cơ phản lực Rolls-Royce Conway gắn ở phía sau làm cho máy bay có một dáng vẻ đẹp tuyệt vời, và nếu vào lúc khác thì cái triển vọng của một chuyến bay với “sức mạnh bí mật” sẽ làm cho Bond sướng như bay bổng. Thế nhưng chàng biết chắc lần này, chàng chỉ có một cơ may để sống sót và thoát khỏi chiếc máy bay, và nó lại phụ thuộc vào một cơ hội mong manh là người phụ nữ mảnh khảnh làm ở ngân hàng đầu tư có mái tóc đen mượt, mang khẩu súng ngắn Xô Viết mà cô ta chưa từng được huấn luyện sử dụng, có thể ẩn náu thế nào trên chiếc máy bay này.
Bond hít một hơi dài và đặt chân lên chiếc cầu thang dẫn đến cửa máy bay. Vừa lên tới máy bay, chàng đã bị đẩy mạnh đi giữa hai hàng ghế rồi bị xô đến chiếc ghế sát cửa sổ gần cuối khu hạng nhất. Ngay khi cúi đầu để tránh cái hộc để hành lí trên trần máy bay, chàng nhả ngay mảnh thủy tinh nãy giờ vẫn giấu trong miệng xuống chiếc ghế trước mặt. Một tên lính gác ngồi cạnh chàng, một tên nữa ở dãy trên phía trước và tên thứ ba ngồi ngay phía sau. Động cơ máy bay đã bắt đầu chậm chạp quay.
Một tên có dáng người to khỏe, đen nhẻm trong chiếc quần lính chiến và chiếc áo thun trắng từ giữa lối đi cúi người xuống. “Tao là Massoud.” - Hắn nói. - “Chúng tao đã kiểm tra với phi công rồi. Sẽ khởi hành trong nửa tiếng nữa. Mày cứ ngồi yên ở đây. Nếu nhúc nhích, chúng tao sẽ giết ngay.”
“Đúng là tệ hơn cả hãng Hàng không Dan.” - Bond nói. - “Mày có thuốc lá không?”
“Im mồm. Không được hút thuốc. Thắt dây an toàn vào.”
Bond làm theo yêu cầu. Thường thì đây chính là khoảnh khắc chàng thích nhất khi đi máy bay, vì biết rằng mình sắp có vài giờ riêng tư mà không một ai có thể quấy rầy được - kể cả những mệnh lệnh của ông M hay bất cứ người phụ nữ nào trong đời chàng - thời gian mà chàng có thể đọc vài trang trong cuốn sách Những nguyên tắc cơ bản của môn đánh golf hiện đại của Ben Hogan, rồi ngắm nhìn ánh mặt trời lấp lánh trên cánh máy bay trong khi thong thả nhấm nháp ly Bloody Mary trên những tầng mây Bắc cực.
Bond ngó lên và thấy một người đàn ông khác đang nhìn chàng chằm chằm từ phía lối đi. Ông ta mặc chiếc áo BOAC nhàu nhĩ dơ bẩn. Trông ông ta có vẻ là người Anh và tỏ ra rất sợ sệt. “Tên tôi là Ken Mitchell.”- Ông ta nói, với giọng của dân chơi golf ở Surrey. - “Tôi là phi công của cái thùng gỗ này vì những tội lỗi của tôi. Tôi đến đây chỉ để nói với ông rằng xin đừng cố làm bất cứ điều gì không được phép. Đó là cơ hội duy nhất của chúng ta. Tôi sẽ cho máy bay cất cánh và đưa chúng ta đi trong hầu hết chuyến bay. Sau đó, họ sẽ để ông lái chặng cuối. Họ đã hứa nếu tôi cùng tham gia, họ sẽ thả tôi. Xin đừng làm hỏng việc của tôi, ông Bond. Ngày mai là sinh nhật đứa con gái bé nhỏ của tôi.”
“Được thôi.” - Bond nói. - “Thế có chỉ dẫn gì để tôi có thể lái nó không?”
“Để giữ thăng bằng thì đừng nhìn vào các thiết bị. Hãy chọn một điểm ở đường chân trời, cạnh rìa đám mây hoặc một cái gì đó. Tự định hướng bằng những thứ đó chứ không phải bằng các thiết bị. Thế nhưng hầu hết thời gian bay là do lái tự động cả. Nó tự bay.”
“Cám ơn. Thôi bây giờ hãy ngồi xuống và thưởng thức chuyến bay của mình đi, ông Ken.”
Mitchell ném cho chàng cái nhìn van lơn lần cuối khi bị túm lấy hai tay và đẩy ngược trở về buồng lái.
Sau đó vài phút, Bond thấy động cơ giật nhẹ một cái khi máy bay bắt đầu di chuyển. Qua cửa sổ, chàng có thể thấy ánh đèn xanh lá cây nhấp nháy trên nóc tháp không lưu đơn sơ, cách đó hơn nửa cây số. Khi ra đến cuối đường băng, chiếc máy bay to lớn quay vòng và dừng lại.
Bond nghe thấy tiếng gầm của những động cơ Roll-Royce từ phía sau thân máy bay, rồi chiếc máy bay di chuyển mạnh lên phía trước, nhanh chóng tăng tốc. Chàng cảm thấy lưng mình dán chặt vào lưng ghế mềm mại của loại ghế hạng nhất trong khi mũi của chiếc máy bay ngóc lên, và lực đẩy phía sau đưa chiếc máy bay đồ sộ vút lên trên vùng trời nóng bỏng của sa mạc.
❀ ❀ ❀
Bên trong nhà chứa tàu bằng thép ở Noshahr, chiếc lưới ngụy trang cuối cùng đã được gỡ ra khỏi mũi của chiếc Ekranoplan, và những động cơ của nó cũng đã được khởi động. Cả mười bốn tên trong thủy thủ đoàn đều mang hộ chiếu Anh giả, mặc dù trong số đó có tám tên là người Ba Tư, hai tên người Iraq, hai tên người Thổ Nhĩ Kỳ, một tên người Ả Rập Saudi, và tên cuối cùng, đeo tai nghe ngồi cạnh bàn điều khiển radio là một gã người Nga nói được tiếng Farsi.
Đây là lần đầu tiên chiếc Ekranoplan, được cải tiến để gắn thêm bốn thùng nhiên liệu, sáu dàn phóng hỏa tiễn và bốn quả tên lửa đất-đối-không, rời khỏi nhà chứa tàu, và tất cả thủy thủ đoàn đều trông rất căng thẳng trong khi động cơ của con tàu gầm lên trên mặt biển yên tĩnh. Lực kéo lê do sóng mũi tàu tạo ra cho thấy cần phải tăng thêm công suất để đạt được sức nâng khỏi mặt biển hơn là cứ chạy hết tốc độ. Phải đạt được tốc độ cần thiết để tạo lực nâng tối đa bởi con tàu cần phải vượt lên, qua được những con sóng phía mũi trước khi có thể bốc lên khỏi mặt nước.
Trong tiếng rú mỗi lúc một to của động cơ, và chiếc Ekranoplan vẫn dính bụng dưới mặt biển, gã người Nga nhìn những khuôn mặt lo lắng xung quanh rồi nói bằng tiếng Farsi: “Đừng lo.”
Viên hoa tiêu vươn người bật công tắc phía trước mặt để kích hoạt bộ phận PAR - để tăng sức mạnh động cơ thổi luồng gió xuống phía dưới các cánh.
Đột nhiên con tàu được nâng ngược lên, và nó chạy lướt khỏi mặt nước trên một nệm không khí. Viên hoa tiêu có thể giảm vòng quay của động cơ xuống trong khi tốc độ của con tàu vẫn tăng lên, và lập tức một tràng vỗ tay nổi lên trong khu vực thủy thủ đoàn nãy giờ vẫn đang sợ cứng cả người.
Những chiếc xe trên đường dọc theo bờ biển Norshahr và Chalus đều dừng cả lại, hàng trăm người dân ở đó đứng sững và trố mắt nhìn cảnh ngoạn mục này.
Không thèm chú ý tới cảnh ngoạn mục mà chiếc Ekranoplan vừa tạo ra, gã người Nga cúi xuống chiếc radio của mình.
❀ ❀ ❀
“Đây là căn phòng chiến sự lạ nhất mà tôi từng thấy.” - Felix Leiter vừa nói vừa nhìn mấy chiếc tô đựng những quả lựu và quả hoàng liên gai trên bàn, và khung cảnh mặt biển qua cửa sổ phòng 234 khách sạn Jalal Năm Sao.
J.D. Silver vừa đưa tách trà lên miệng vừa đảo mắt khắp phòng nhằm ghi nhận những thứ xung quanh gã.
Chiếc điện thoại cạnh giường đổ chuông và Felix nhấc ống nghe lên. “Của ông này, Darius.” - Anh nói. - “Cậu Babak của ông ở Tehran.”
Darius nhảy vọt qua giường và chộp ngay ống nghe.
“Babak hả? Cậu đã có được những chi tiết đó chưa? Tốt. Đọc chúng cho tôi đi.”
Chiếc bút của ông nguệch ngoạc một cách dữ dội trên tệp giấy để cạnh giường - “Vĩ độ 46.34944. Kinh độ 48.04917. Vĩ độ 48.8047222. Kinh độ 44.5858333” - và những chữ khác bằng tiếng Farsi mà Leiter và Silver, từ nãy tới giờ đang ngó qua vai của ông, không thể đọc được.
Khoảng năm phút sau, Darius đặt ống nghe xuống và đưa tờ giấy cho J. D. Silver. “Đây là nơi chiếc Ekranoplan đang hướng tới.” - Ông nói. - “Đây là con số tính toán tốc độ, còn những mật mã này có nghĩa là nó có trang bị vũ khí hạt nhân. Các anh phải nhanh lên mới được.”
“Chắc chắn rồi.” - Silver nói. - “Đường dây này có độ tin cậy tới đâu?”
“Ai mà biết được?” - Leiter nói. - “Nhưng chúng ta chỉ có mỗi cái này thôi, ông bạn ạ.”
Silver khom người trên chiếc điện thoại. “Hãy bỏ qua cho tôi một chút nhé các ông bạn. Tôi phải dùng một hai mật mã khi nối được máy mà ngay cả đối với các ông... Tôi không có ý xúc phạm đâu.”
“Đâu có gì.” - Leiter nói. - “Nào Darius, chúng ta hãy ngắm cảnh đi.”
“Hamid.” - Darius nói. - “Phiền cậu đợi ở hành lang một chút nhé.”
Felix và Darius ngồi cạnh cửa sổ và ngó xuống biển. Felix giơ cái móc kim loại trên đầu bàn tay giả bên phải lên và nói: “Tôi sẽ làm dấu và cầu Chúa nếu như tôi còn những ngón tay này.”
Darius, với dáng dấp to lớn như con gấu, quàng tay qua vai Felix. “Tất cả đều là số phận.” - Ông nói. - “Kismet.”
“Bốn-bốn-sáu,” - Tiếng của Silver. - “Tám-bảy. Gọi lại.” Dùng bàn chân phải, gã đạp nhẹ lên sợi dây nối từ điện thoại tới ổ nối trên tường cạnh chiếc bàn đầu giường.
Từng chút từng chút một, rồi sợi dây nối máy điện thoại đó đã bị ngắt mạch dưới sức đè nặng của bàn chân gã. Cuối cùng thì toàn bộ sợi dây điện thoại bung ra khỏi miếng gỗ chân tường và Silver âm thầm đẩy đầu dây bị đứt vào khuất dưới gầm giường.
“Đây rồi, Landley!” - Gã nói, vẻ đầy nhiệt tình. - “Nghe này. Vĩ độ 46.34944. Kinh độ 48.04917. Vĩ độ 48.8047222. Kinh độ...”
“Hình như chúng ta đã ổn cả rồi, Darius à.” - Felix nói. - “Nào, bây giờ thì tới chiếc máy bay dân dụng.”