← Quay lại trang sách

Chương 6

Luther ngồi trước một chiếc bàn họp nhỏ nhắn trong một căn phòng được bài trí đơn sơ. Cả bàn lẫn ghế đều cũ kỹ, lung lay và sứt sẹo khắp nơi. Ngay cả tấm thảm chùi chân có vẻ cũng già cỗi và trông không sạch sẽ cho lắm. Trên bàn ngoài tập hồ sơ của lão thì chỉ có đúng một chiếc hộp đựng danh thiếp. Lão nhặt một tấm danh thiếp lên và hờ hững liếc nhìn. “Công ty Dịch vụ Tư vấn Luật pháp.” Những người này không phải là dân xuất sắc nhất trong nghề; còn lâu họ mới sánh được với những đồng nghiệp đầy quyền lực ở khu trung tâm thành phố. Vốn chỉ tốt nghiệp từ những trường luật hạng ba và không chen nổi vào những hãng luật truyền thống, họ đành phải sống qua ngày nhờ tấm bằng bé nhỏ với hy vọng một lúc nào đó vận may sẽ rủ lòng thương. Nhưng những giấc mơ của họ về văn phòng hoành tráng, thân chủ giàu sụ, và quan trọng nhất là những khoản trả công kếch xù cứ tàn lụi dần theo năm tháng. Nhưng Luther đâu cần những người giỏi nhất. Lão chỉ cần một người có bằng luật sư và tư cách pháp nhân đầy đủ.

“Mọi thứ đều ổn cả, thưa ông Whitney.” Gã trai có lẽ chỉ hai mươi lăm, đầy hy vọng và nhiệt huyết. Chỗ này không phải đích đến cuối cùng của gã. Chắc chắn gã vẫn tin như vậy. Còn tay luật sư già hom, khuôn mặt nhàu nhĩ, cáu kỉnh và mệt mỏi, ngồi sau gã không có vẻ gì là lạc quan như thế. “Đây là ông Jerry Burns, luật sư trưởng, người sẽ đảm nhiệm vai trò nhân chứng thứ hai trong di chúc của ông. Chúng tôi có giấy phép tự đảm nhiệm quyền chứng thực, nên chúng tôi sẽ có đủ thẩm quyền làm chứng cho di chúc của ông mà không cần xuất hiện trước tòa.” Một người phụ nữ khoảng ngoài bốn mươi với vẻ mặt khó đăm đăm xuất hiện với cái bút và con dấu công chứng trên tay. “Còn đây là bà Phyllis công chứng viên của chúng tôi, thưa ông Whitney.” Tất cả cùng ngồi xuống. “Ông có muốn tôi đọc lại những điều khoản một lần nữa không?”

Từ đầu đến cuối Jerry Burns vẫn ngồi ở bàn của mình, trông ông ta như kẻ buồn chán đến sắp chết, mắt hờ hững nhìn vào chốn mông lung, mơ tưởng về tất cả những nơi tuyệt vời khác mà ông ta muốn tới. Jeny Burns, luật sư trưởng. Trông ông ta lúc này như thể thà đi xúc phân bò ở một trang trại khỉ ho cò gáy nào đó miền Trung Tây hơn là làm công việc hiện tại. Ông ta liếc mắt nhìn gã đồng nghiệp trẻ của mình với vẻ khinh bỉ.

“Tôi đọc rồi,” Luther trả lời.

“Tốt lắm,” Jerry Burns uể oải nói. “Vậy tại sao chúng ta không bắt đầu luôn nhỉ?”

Mười lăm phút sau Luther đã rời khỏi công ty Dịch vụ Tư vấn Luật pháp, với hai bản di chúc gốc của lão được cuộn tròn và nhét trong túi áo khoác.

Lũ luật sư khốn kiếp, nếu thiếu chúng thì con người ta thậm chí còn không thể nào đi nặng, đi nhẹ, hay chết một cách yên lành. Đơn giản là bởi vì luật sư làm ra luật. Chúng kiểm soát toàn bộ cuộc sống của tất cả chúng ta. Rồi lão chợt nghĩ tới Jack và mỉm cười. Jack không như thế. Jack khác với lũ luật sư còn lại. Rồi lão lại nhớ đến con gái mình và nụ cười bỗng tắt lịm. Kate cũng không giống lũ luật sư kia. Nhưng Kate căm ghét lão.

Lão ghé vào một cửa hiệu chụp ảnh và mua một chiếc máy ảnh Polaroid hiệu OneStep cùng một cuộn phim. Lão không hề muốn bất kỳ ai khác rửa những bức ảnh mà lão chuẩn bị chụp. Lão quay về khách sạn. Một tiếng đồng hồ sau lão đã chụp xong tất cả mười bức ảnh. Chúng đều được bọc cẩn thận trong gói giấy, xếp gọn gàng trong túi đựng hồ sơ bằng giấy thô rồi được nhét rất kín đáo xuống dưới đáy ba-lô của lão.

Xong việc, lão ngồi xuống và nhìn ra ngoài cửa sổ. Cứ như thế gần một tiếng đồng hồ sau lão mới đứng dậy, bước qua bên kia phòng và thả người xuống chiếc giường. Cho dù là một tên trộm già dặn và từng trải, lão cũng không thể nào thờ ơ trước cái chết, không thể không cảm thấy kinh hãi trước sự kiện đẫm máu đã tước đi mạng sống của một con người trẻ trung lẽ ra đã có thể tiếp tục sống rất lâu. Và đáng sợ hơn cả là tội ác đó lại liên quan trực tiếp đến Tổng thống của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Một người mà Luther từng ngưỡng mộ, từng bỏ phiếu ủng hộ. Một người đảm trách cương vị cao nhất nước Mỹ lại suýt chút nữa đích thân giết hại một người phụ nữ bằng đôi tay mình trong cơn say bí tỉ. Giả sử lão có chứng kiến người thân của mình đánh chết ai đó một cách dã man thì chắc chắn Luther cũng không thể thấy choáng váng hoặc sốc hơn thế. Cứ như thể chính bản thân Luther là nạn nhân, cứ như thể những bàn tay giết người đó đã chặn quanh cổ lão.

Nhưng vẫn còn một điều khác đang đè nặng trong lòng lão; một điều lão không đủ sức đương đầu. Lão quay người nằm úp mặt xuống gối, nhắm nghiền mắt cố ép mình chìm vào giấc ngủ.

"Tuyệt lắm, Jenn." Jack thốt lên khi đứng trước tòa dinh thự xây bằng gạch và đá tảng trải dài hơn sáu mươi mét từ đầu này đến đầu kia với số phòng còn nhiều hơn cả một khu ký túc xá trong trường đại học, anh không khỏi tự hỏi tại sao họ lại đến đây. Đường lái xe vào uốn lượn được kết thúc bằng cái ga-ra đủ rộng cho bốn chiếc ô tô nằm phía sau tòa nhà đồ sộ. Những thảm cỏ được xén tỉa tỉ mỉ đến nỗi Jack có cảm giác anh đang đứng trước một cái hồ rộng mênh mông màu xanh ngọc bích. Phần đất phía sau nhà được chia thành ba tầng cao thấp khác nhau, mỗi tầng đều được dành riêng cho một hoạt động cụ thể. Tất cả đều đi kèm với những thứ đồ chơi xa xỉ của dân thượng lưu giàu có nhất: những sân tennis và tàu ngựa đua, cùng 8 hectare đất trống để mà tha hồ rong chơi—một trang viên địa chủ thực sự, ngay cả khi xét theo những tiêu chuẩn phong lưu nhất của dân Bắc Virginia.

Người môi giới nhà đất đã chờ sẵn ở cửa trước, chiếc Mercedes đời mới của bà ta đỗ cạnh đài phun nước lớn xây bằng đá được phủ kín những bông hồng tạc từ đá hoa cương to cỡ bàn tay. Những đồng đô-la hoa hồng đang được tính toán rồi lại tính toán lại một cách chớp nhoáng. Chẳng phải họ là một đôi vợ chồng trẻ giàu kếch xù đó sao. Bà ta đã thao thao bất tuyệt đến mức đủ để hai thái dương Jack bắt đầu đập bùng nhùng.

Jennifer Baldwin vịn vào tay anh và hai tiếng sau chuyến tham quan của họ cũng kết thúc. Jack bước ra viền bãi cỏ rộng mênh mông và ngỡ ngàng chiêm ngưỡng vạt rừng cổ thụ rậm rạp, nơi những cây đu, vân sam, thích, và sồi mọc chen chúc, đua nhau vươn cao tỏa bóng mát. Mùa này lá cây bắt đầu chuyển màu và Jack nhận thấy những chiếc lá đầu tiên màu đỏ, màu vàng và da cam đang nhảy nhót trên mái ngôi nhà mà họ cân nhắc định mua.

“Vậy là bao nhiêu?” Anh cảm thấy anh có nhiệm vụ đặt ra câu hỏi đó. Kiểu gì thì con số cuối cùng cũng nằm ngoài khả năng tài chính của họ. Khả năng tài chính của anh. Anh phải thừa nhận là vị trí của ngôi nhà rất lý tưởng. Chỉ cách chỗ anh làm bốn mươi lăm phút lái xe, tính theo giờ cao điểm. Nhưng họ không thể động tay vào chỗ này. Anh quay sang vợ chưa cưới của mình với ánh mắt dò hỏi.

Trông cô hồi hộp, đang nghịch ngợm mấy lọn tóc trước khi trả lời anh. “Ba triệu tám.”

Mặt Jack xám xịt. “Ba triệu tám trăm nghìn? Đô-la?”

“Jack, thực tế nó còn đáng giá hơn thế gấp ba lần cơ đấy.”

“Vậy thì vì lý do chết tiệt gì họ lại đồng ý bán nó với cái giá ba triệu tám? Chúng ta không có tiền, Jenn. Quên nó đi.”

Cô chỉ trả lời anh bằng cách đảo tròng mắt. Cô vẫy tay trấn an người môi giới, người đang ngồi trong xe của bà ta để soạn hợp đồng.

“Jenn, anh kiếm được một trăm hai mươi nghìn mỗi năm. Em cũng vậy, có thể là hơn thế một chút.”

“Khi anh trở thành đối tác chính—”

“Đúng. Lương của anh sẽ tăng thêm, nhưng cũng không thể đủ cho ngôi nhà này. Chúng ta không thể mua trả góp thế chấp được. Anh đã nghĩ là chúng ta sẽ chuyển đến ở chỗ em mà.”

“Chỗ đấy đâu có thích hợp với một cặp vợ chồng.”

“Không thích hợp ư? Nó rộng đến phát ngợp thế cơ mà.” Anh bước tới một chiếc ghế dài trong vườn sơn màu xanh lá rừng và ngồi xuống.

Cô đứng trước mặt anh, hai tay khoanh trước ngực, khuôn mặt ánh lên vẻ kiên quyết. Làn da rám nắng mùa hè của cô đang bắt đầu nhạt bớt. Cô đội một chiếc mũ phớt màu nâu kem, dưới vành mũ là mái tóc dài buông xõa xuống vai. Chiếc quần của cô được may đo vô cùng tinh tế, ôm khít lấy đôi chân dài mảnh và cặp mông tròn trịa. Đôi bốt da đánh xi bóng loáng bọc kín đôi chân và biến mất trong hai ống quần thẳng đứng.

“Chúng ta sẽ không mua trả góp thế chấp, Jack.”

Anh ngước lên nhìn cô. “Thật ư? Không lẽ họ định cho không cả dinh cơ này chỉ vì chúng ta là một cặp vợ chồng đẹp đôi sao?”

Cô lưỡng lự giây lát, rồi nói, “bố sẽ mua ngôi nhà bằng tiền mặt, sau đó chúng ta sẽ trả lại cho ông.”

Đó chính là điều mà Jack đang chờ.

“Trả lại cho ông à? Làm thế quái nào chúng ta có tiền trả lại cho bố em được cơ chứ, Jenn?”

“bố đã gợi ý một kế hoạch rất linh hoạt cho hai đứa, căn cứ vào triển vọng thu nhập trong tương lai. Vì Chúa, Jack, em hoàn toàn có thể mua ngôi nhà này bằng tiền lãi từ một trong những khoản ủy thác của em, nhưng em biết anh sẽ phản đối việc đó.” Cô ngồi xuống cạnh anh. “Em nghĩ là nếu chúng ta làm theo cách này, anh sẽ cảm thấy mọi chuyện dễ chịu hơn nhiều. Em biết anh nghĩ gì về tiền của gia đình Baldwin. Chúng ta sẽ phải trả lại cho bố mà. Đó không phải là món quà. Đó là một khoản vay có tính lãi. Em sẽ bán ngôi nhà em đang ở đi. Được khoảng tám trăm ngàn đô-la từ đó. Anh cũng phải tính cách xoay đâu đó ra một khoản nữa. Đây không phải đồ miễn phí đâu.” Cô nghịch ngợm chọc một ngón tay vào ngực anh, nhấn mạnh vào ý cuối cùng. Cô quay lại nhìn ngôi nhà. “Đúng là một ngôi nhà đẹp tuyệt phải không, Jack? Chúng ta sẽ rất hạnh phúc ở đây cho mà xem. Ngôi nhà là dành riêng cho chúng ta.”

Jack cũng hững hờ liếc qua mặt tiền ngôi nhà nhưng thực ra cũng chẳng để tâm. Tất cả những gì anh nhìn thấy lúc này là Kate Whitney, trong từng ô cửa sổ trên bức tường xây bằng đá nguyên khối.

Jennifer bóp chặt tay Jack và dựa sát vào người anh. Cơn đau đầu của Jack đã chuyển sang trạng thái hoảng loạn. Tâm trí anh gần như mụ mẫm, không thể bắt nó suy nghĩ như bình thường được nữa. Cổ họng anh khô khốc, chân tay bỗng cứng đờ. Anh nhẹ nhàng gỡ tay mình ra khỏi tay người vợ chưa cưới, đứng dậy và lặng lẽ bước ra xe của mình.

Jennifer ngồi lại thêm giây lát, khuôn mặt hiện rõ nhiều cảm xúc phức tạp, trong đó chủ yếu là nỗi choáng váng vì bất ngờ. Cuối cùng cô cũng giận dữ đứng dậy bước theo anh ra xe.

Người môi giới nãy giờ vẫn ngồi trong chiếc Mercedes của mình, chăm chú theo dõi màn trao đổi giữa hai người. Khi hai người đứng lên khỏi chiếc ghế, bà ta cũng ngừng soạn hợp đồng, môi trề ra bất bình không thèm giấu diếm.

Sáng sớm tinh mơ Luther đã rời khỏi cái khách sạn nhỏ nằm ẩn giữa khu dân cư đông đúc và tạp nham mạn Tây Bắc Washington. Lão vẫy một chiếc taxi tới ga tàu điện ngầm trung tâm, trên đường đi lão đề nghị người lái xe chạy lòng vòng qua nhiều chỗ với lý do là để thưởng ngoạn những thắng cảnh khác nhau của thủ đó. Đề nghị này không làm tay tài xế ngạc nhiên chút nào, anh ta tự động chạy qua những tuyến phố đã được lặp đi lặp lại hàng nghìn lần trước khi mùa du lịch chính thức kết thúc, còn trong thực tế ở cái thành phố này có bao giờ hết mùa du lịch đâu chứ.

Bầu trời tối sầm như báo hiệu cơn mưa có thể đổ xuống bất cứ lúc nào. Những đợt thời tiết oái oăm cứ thay nhau lượn quanh hoặc vây bủa khu vực này rồi có khi chỉ lướt qua thành phố hoặc có khi lại trút thẳng xuống nó trước khi đi thẳng ra Đại Tây Dương. Luther ngước lên nhìn bầu trời đen đặc mây, mà những tia nắng của mặt trời buổi sớm không sao rọi qua được.

Chẳng biết liệu lão còn sống thêm được sáu tháng nữa không? Có lẽ là không. Rất có thể họ sẽ lần ra lão một cách dễ dàng, bất chấp những biện pháp đề phòng tinh vi mà lão đã thực hiện. Nhưng lão sẽ tận hưởng khoảng thời gian còn lại của mình.

Tàu điện ngầm đưa lão tới Sân bay Quốc gia Washington, tại đây lão bắt xe bus của sân bay đi xuyên qua Ga chính. Lão đã gửi trước hành lý trên chuyến bay của hãng American Airlines sẽ đưa lão đến sân bay Dallas/Fort Worth, tại đó lão sẽ đổi chuyến bay rồi hướng thẳng đến Miami. Lão sẽ ở đó một đêm rồi sáng hôm sau đáp chuyến bay khác tới Puerto Rico, trước khi chuyến bay cuối cùng thả lao xuống quần đảo Barbados. Tất cả đều được thanh toán bằng tiền mặt; theo hộ chiếu hiện tại thì lão là Arthur Lanis, sáu mươi lăm tuổi, người Michigan. Lão có đến nửa tủ giấy tờ tùy thân kiểu như vậy, tất cả đều được ngụy tạo cực kỳ chuyên nghiệp, trông rất thật nhưng hoàn toàn là đồ giả. Hộ chiếu vẫn còn giá trị trong vòng tám năm nữa và cho thấy lão là người thường xuyên di chuyển rất nhiều.

Lão ngồi lặng lẽ trong sảnh chờ, giả vờ liếc qua một tờ báo. Cả khu vực này đều đông cứng và ồn ào, một ngày trong tuần đặc trưng của một sân bay bận rộn. Thỉnh thoảng Luther lại liếc mắt qua mép tờ báo để xem có ai đang tỏ ra chú ý đến lão quá mức bình thường không, nhưng không thấy có gì bất thường. Hơn nữa lão cũng đã quá già đời trong những trò cảnh giác như thế này nên nếu có chuyện gì chắc hẳn lão đã đánh hơi thấy ngay. Chuyến bay của lão bắt đầu được thông báo trên hệ thống loa sân bay, lão chìa thẻ lên máy bay cho nhân viên soát vé rồi lững thững bước theo bậc thang dẫn ra chiếc máy bay sẽ đưa lão đến trung tâm bang Texas trong ba giờ tới.

Chặng bay tới Dallas/Fort Worth vẫn luôn là một tuyến đông đúc, vậy mà thật lạ lùng khi bên cạnh lão lại là một ghế trống. Lão cởi áo khoác và đặt nó lên mặt ghế để đề phòng ai đó đi qua lại nảy ý định ngồi xuống. Lão ổn định chỗ ngồi của mình rồi đưa mắt nhìn ra cửa sổ.

Khi máy bay bắt đầu lăn bánh trên đường băng để chuẩn bị cất cánh, lão vẫn kịp nhìn thấy chóp của Đài Tưởng niệm Washington vươn cao giữa màn sương mù dày đặc của một buổi sáng lạnh lẽo và ẩm ướt. Chỉ cách đó khoảng nửa cây số thôi là con gái lão giờ này hẳn sắp thức dậy để chuẩn bị đi làm trong khi cha nó lại đang lao vút lên giữa chín tầng mây để bắt đầu một cuộc sống mới, cho dù là cuộc sống đó diễn ra hơi sớm so với những gì lão trù tính và có lẽ cũng không hề dễ dàng chút nào.

Khi chiếc máy bay lao vút lên không trung, lão nhìn xuống mặt đất tít tắp phía dưới, ngắm dòng sông Potomac uốn lượn cho đến khi nó bị bỏ lại phía sau. Những ý nghĩ trong đầu lão chợt vẩn vơ qua người vợ đã khuất từ lâu rồi quay lại với cô con gái vẫn đang sống.

Lão ngẩng lên liếc nhìn khuôn mặt đang mỉm cười chuyên nghiệp của cô tiếp viên rồi gọi một tách cà phê, và một phút sau lão cũng vui vẻ chấp nhận bữa sáng đơn giản được mang đến cho mình. Lão uống hết thứ chất lỏng bốc khói trong tách rồi cúi người chạm tay vào bề mặt tấm cửa kính máy bay với những vết rạch và xước loằng ngoằng rất kỳ quặc. Lau sạch cặp mắt kính, lão mới nhận ra là mắt lão đang ươn ướt. Lão nhìn quanh; hầu hết những hành khách gần đó đều đang bận bịu ăn nốt bữa sáng của mình hoặc tranh thủ chợp mắt nghỉ ngơi một chút trước khi hạ cánh.

Lão đẩy chiếc khay trước mặt mình lên, tháo đai an toàn và bước về phía nhà vệ sinh. Lão nhìn mình trong gương. Hai mắt lão sưng húp, vằn đỏ. Mí mắt bên dưới như xệ hẳn xuống, nặng nề, lão đã già đi trông thấy trong vòng ba mươi sáu giờ vừa qua.

Lão té nước lên mặt, để mặc những giọt nước chảy ròng ròng quanh miệng rồi lại té thêm lượt nữa. Lão lấy tay dụi mắt. Đôi mắt đau nhức khó chịu. Lão dựa hẳn vào chiếc bồn rửa bé xíu, cố gắng kiểm soát những cơ bắp đang co rúm của mình.

Dù đã lấy hết nghị lực để ngăn cản, tâm trí lão vẫn không khỏi quay về căn phòng nơi lão đã tận mắt chứng kiến một người phụ nữ bị hành hung thật dã man. Tổng thống Hoa Kỳ hóa ra cũng chỉ là một tên say khướt, một kẻ lang chạ dâm đãng và một thằng vũ phu đánh đàn bà. Ông ta mỉm cười trước ống kính báo chí, hôn hít đám trẻ con và vui vẻ chọc ghẹo những quý bà cao tuổi đang mê mẩn, chủ trì những cuộc họp quan trọng, bay đi bay lại khắp nơi trên thế giới với tư cách nguyên thủ một siêu cường, vậy mà rốt cục cũng chỉ là một tên vô lại lên giường với đàn bà có chồng, rồi còn đánh đập họ một cách thô bạo và còn khiến họ phải chết.

Ai mà ngờ được chứ.

Đó là một bí mật nặng nề, vượt quá sức chịu đựng của bất kỳ ai.

Luther chợt cảm thấy cô đơn và như sắp phát điên đến nơi.

Và điều khốn nạn nhất là cái tên mạt hạng ấy sẽ thoát tội.

Luther vẫn luôn tự nhủ rằng giá kể nếu trẻ hơn ba mươi tuổi thì lão sẽ dám đương đầu với cuộc chiến này. Nhưng điều đó là không thể. Thần kinh của lão vẫn còn mạnh mẽ hơn khối kẻ, nhưng cũng giống như những tảng đá dưới đáy sông, nó cũng đã bị bào mòn dần theo năm tháng, nó không còn là chính nó nhiều năm trước. Ở cái tuổi của lão thì chiến đấu, thắng lợi, hay thất bại, cũng đều là những khái niệm quá xa xỉ. Lão đã hết thời rồi. Lão không còn đủ sức đương đầu với nó. Ngay chính bản thân lão cũng phải hiểu và chấp nhận thực tế phũ phàng đó.

Luther lại ngẩng lên nhìn mặt mình trong tấm gương bé tí. Một tiếng thổn thức trào lên rồi tắc nghẹn trong cổ họng lão trước khi kịp buột ra khỏi miệng và vang lên trong phòng vệ sinh chật chội.

Nhưng không có gì có thể biện minh cho những gì lão đã không làm. Lão đã không mở cánh cửa gương đó. Lão đã không đẩy người đàn ông ra khỏi Christine Sullivan. Lão hoàn toàn có thể ngăn chặn được cái chết của người phụ nữ đó, sự thật là thế. Lẽ ra cô ta vẫn còn sống nếu lão hành động. Lão đã đổi sự tự do của lão, và có lẽ là cả cái mạng già này, bằng mạng sống của người phụ nữ kia. Một người lẽ ra đã cần đến sự giúp đỡ của lão, một người phải vật lộn để giành mạng sống cho mình trong khi Luther chỉ đứng đó nhìn. Một con người mới chỉ sống được một phần ba quãng đời mà Luther đã trải qua. Đó là một hành động hèn nhát, điều đó đang dày vò và bóp nghẹt lão như một con trăn khổng lồ, đe dọa làm nổ tung tất cả những bộ phận trong người lão.

Lão cúi gục người xuống bồn rửa khi đôi chân run rẩy như muốn phản bội lão. Lão thấy mừng vì lão đã không còn đứng vững. Ít nhất thì lão cũng không phải nhìn gương mặt của mình trong gương nữa. Đúng lúc đó máy bay chợt đi vào một vùng không khí không đều, bụng lão bỗng nhẹ bẫng như sắp nôn đến nơi.

Vài phút nặng nề trôi qua, lão lấy một cái khăn giấy, thấm ướt nó bằng nước lạnh rồi lau lên mặt và gáy. Cuối cùng lão cũng lê bước quay về chỗ ngồi. Máy bay cứ bay thêm được quãng nào là cảm giác cắn rứt và giằng xé trong lòng lão càng nặng nề thềm chừng ấy.

Điện thoại đang đổ chuông. Kate nhìn đồng hồ. Mười một giờ đêm. Bình thường cô vẫn nhìn xem ai đang gọi rồi mới quyết định trả lời. Nhưng lần này không hiểu điều gì đã khiến cô ngay lập tức cầm ống nghe lên.

“Alo.”

“Tưởng em vẫn phải ở chỗ làm cơ đấy?”

“Jack à?”

“Mắt cá chân của em sao rồi?”

“Anh có biết mấy giờ rồi không?”

“Anh chỉ kiểm tra bệnh nhân của mình thôi mà. Bác sĩ có bao giờ ngủ đâu.”

“Bệnh nhân của anh ổn. Cám ơn anh đã lo lắng.” Bất giác cô mỉm cười, hoàn toàn trái với ý định của mình.

“Kem ốc quế phết bơ chocolate, đơn thuốc đó chưa bao giờ làm anh thất vọng.”

“Ồ, vậy là có những bệnh nhân khác đấy?”

“Tôi nhận được lời khuyên của luật sư là không nên trả lời câu hỏi đó.”

“Tư vấn khôn ngoan đấy.”

Jack có thể hình dung ra cảnh cô đang ngồi đó, một ngón tay đang nghịch nghịch đầu lọn tóc, cũng giống hệt như cô vẫn làm khi họ ngồi học cùng nhau; anh thì bận bịu với việc cày cả đống tài liệu về luật chứng khoán, còn cô thì học tiếng Pháp.

“Mấy lọn tóc của em xoăn lắm rồi, đừng có nghịch thêm làm gì nữa.”

Cô dứt ngón tay ra, mỉm cười, rồi cau mày. Nhận xét đó của anh làm trong tâm trí cô lúc này dội về bao nhiêu kỷ niệm, mà không phải tất cả đều là những kỷ niệm vui vẻ.

“Muộn rồi, Jack. Mai em còn có phiên tòa.”

Anh đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng với cái điện thoại không dây, trong đầu suy nghĩ rất lung. Về bất kỳ ý tưởng gì có thể giữ cô trên điện thoại thêm vài giây nữa. Anh cảm thấy thật tội lỗi, như thể anh đang làm điều gì đó vụng trộm. Bất giác anh ngoái đầu nhìn ra phía sau. Không có ai cả, ít nhất thì anh cũng không thấy có ai.

“Xin lỗi vì đã gọi cho em muộn thế này.”

“Không sao.”

“Và anh xin lỗi đã làm em bị đau mắt cá chân.”

“Anh đã xin lỗi chuyện đó rồi.”

“Ừ. Vậy, em thế nào? Ý anh là trừ cái mắt cá chân ra?”

“Jack, em thực sự cần chợp mắt một lúc.”

Anh đã hy vọng là cô sẽ nói thế.

“Vậy thì để bữa trưa mai rồi kể cho anh nhé.”

“Em đã bảo là mai em có phiên tòa mà.”

“Thì sau phiên tòa vậy.”

“Jack, em không chắc đó có phải là một ý hay không. Thực ra em khá chắc đó là một ý tệ hại.”

Anh tự hỏi cô muốn nói gì. Xưa nay thói quen xấu của anh vẫn là phỏng đoán và kỳ vọng quá nhiều từ những lời nói của cô.

“Lạy Chúa, Kate. Chỉ là đi ăn trưa thôi mà. Anh có định cầu hôn em đâu cơ chứ.” Anh bật cười, nhưng rồi nhận ra anh đã làm rối tung mọi chuyện.

Lúc này Kate đã không còn nghịch những lọn tóc của mình nữa. Cô cũng đứng bật dậy. Bóng cô phản chiếu trên tấm gương gắn ở tường gian sảnh. Những nét cau có giận dữ hằn lên trên trán cô.

“Anh xin lỗi,” anh vội vàng thanh minh. “Anh xin lỗi, anh không hề có ý đó. Nghe này, anh sẽ đãi nhé. Anh phải tìm lý do để tiêu hết số tiền của mình chứ.” Đáp lại anh chỉ là sự im lặng. Anh không dám chắc cô có còn ở bên kia đầu dây không nữa.

Anh đã tập dượt cuộc nói chuyện này suốt hai giờ trước đó. Mọi câu hỏi có thể, mọi lời trao đổi, khả năng dẫn dắt. Anh sẽ trơn tru và mạch lạc, còn cô thì thông cảm và thấu hiểu. Họ sẽ kết thúc trong vui vẻ với một cuộc hẹn. Nhưng cho đến giờ thì tuyệt đối không có lấy một chi tiết nào diễn ra giống như anh đã trù tính. Anh đành phải sử dụng phương án dự phòng của mình. Anh van xin.

“Anh xin em, Kate. Anh thực sự muốn nói chuyện với em. Xin em đấy.”

Cô ngồi xuống, hai chân khoanh lại, ngón tay nghịch nghịch những ngón chân dài và mảnh của mình. Cô hít một hơi thật sâu. Từng ấy năm hóa ra cũng chẳng làm thay đổi cô nhiều như cô vẫn tưởng. Không biết như thế là tốt hay xấu nhỉ? Ngay lúc này cô cũng chẳng biết phải trả lời câu hỏi đó như thế nào.

“Khi nào và ở đâu?”

“Quán Morton nhé?”

“Ăn trưa ở đấy?”

Anh có thể hình dung ra vẻ ngờ vực trên mặt cô khi nghĩ tới cái nhà hàng siêu đắt đó. Chắc cô đang tự hỏi không biết giờ đây anh đang sống trong loại thế giới như thế nào nữa. “Được rồi, vậy hay là qua tiệm bán đồ ăn ở khu Phố Cũ gần công viên Founder, khoảng hai giờ chiều nhé? Tầm đó cũng vãn khách rồi.”

“Nghe ổn hơn đấy. Nhưng em không hứa trước gì được. Em sẽ báo nếu em không tới được.”

Anh khe khẽ thở ra. “Cảm ơn em, Kate.”

Anh gác điện thoại và thả người xuống ghế sofa. Giờ thì kế hoạch của anh đã thành công, anh lại tự hỏi không biết mình đang làm cái chết tiệt gì thế này. Anh sẽ nói gì? Cô sẽ nói gì? Anh không muốn hai người cãi nhau. Anh không hề nói dối, anh thực sự chỉ muốn gặp và nói chuyện với cô. Tất cả chỉ có thế. Anh vẫn tự thuyết phục mình như vậy.

Anh bước vào phòng tắm, vùi đầu xuống bồn nước lạnh, rồi quay ra lấy một chai bia và trèo lên bể bơi trên sân thượng ngồi lặng yên một mình trong bóng tối, trầm ngâm nhìn những chiếc máy bay đang cất, hạ cánh qua mặt sông Potomac. Hai ngọn đèn đỏ sánh đôi trên tháp tưởng niệm Washington nhấp nháy liên tục như đang an ủi anh. Đường phố phía dưới chỗ Jack ngồi tám tầng nhà hầu như im ắng, ngoại trừ những chiếc xe cảnh sát và xe cứu thương thỉnh thoảng hú còi chạy lướt qua.

Jack nhìn mặt nước phẳng lặng của bể bơi trên mái nhà, rồi thò chân xuống làn nước mát lạnh và ngắm nhìn những gợn sóng lăn tăn chạy túa ra xung quanh. Anh uống nốt chai bia, đi xuống dưới tầng và nằm gục trên một chiếc ghế bành trong phòng khách, chiếc TV không tắt vẫn nói mãi không thôi. Anh không nghe thấy điện thoại đổ chuông, cũng không có tin nhắn để lại. Cách đó gần hai nghìn cây số, Luther gác ống nghe điện thoại rồi lặng lẽ châm điếu thuốc đầu tiên trong vòng hơn ba mươi năm qua.

Chiếc xe tải của hãng chuyển phát nhanh Federal Express từ từ dừng lại bên lề đường miền quê hiu quạnh, người lái xe căng mắt nhìn những thùng thư hoen rỉ và xiêu vẹo để tìm địa chỉ chính xác. Anh ta chưa bao giờ giao hàng ở khu vực này. Chiếc xe tải đang xóc tung như cưỡi ngựa trên con đường chật hẹp.

Anh ta tấp vào lối đi của ngôi nhà cuối cùng, mở cửa nhảy xuống khỏi xe. Anh ta chỉ tình cờ liếc mắt qua và nhìn thấy ngay dòng địa chỉ trên tấm biển gỗ bé tẹo gắn cạnh cửa. Anh ta lắc đầu và mỉm cười sung sướng. Nhiều khi chỉ cần gặp may thế thôi.

Ngôi nhà nhỏ bé, và cũng không được chăm sóc tử tế gì cho lắm. Những tấm vải bạt che trên khung cửa bằng nhôm cũ kỹ, theo kiểu kiến trúc thịnh hành từ hồi trước khi anh chàng lái xe sinh ra khoảng hai mươi năm, đã oằn võng xuống như thể chúng đã mỏi mệt lắm rồi và đang đòi nghỉ ngơi.

Bà già chậm chạp ra mở cửa mặc một chiếc váy chui đầu bằng vải hoa, một chiếc áo khoác len dày choàng trên vai. Hai mắt cá chân sưng to và đỏ tấy của bà ta cho thấy chủ của chúng có khả năng tuần hoàn máu kém cùng với một số bệnh khó chịu khác của người già. Bà không giấu được vẻ ngạc nhiên khi thấy gói bưu phẩm, nhưng vẫn sẵn sàng ký nhận.

Người lái xe liếc nhìn chữ ký trên tờ biên nhận: Edwina Broome. Rồi anh quay trở lại xe và lái đi. Bà già đứng nhìn chờ cho anh ta đi hẳn rồi mới quay người và đóng cửa.

Chiếc bộ đàm vẳng ra những tiếng lạo xạo.

Fred Barnes đã làm công việc này được bảy năm. Lái xe vòng quanh khu dinh thự của những người giàu có, để mắt đến những tòa nhà đồ sộ, những dải vườn tược được xén tỉa chu đáo, những chiếc xe đắt tiền bóng loáng lăn bánh trên những lối đi trải nhựa phẳng phiu trước khi rời khỏi những vòm cổng nguy nga, tráng lệ, trong xe là những nhân vật giàu có, người lúc nào cũng ưỡn thẳng oai vệ. Anh ta chưa bao giờ được vào trong những ngôi nhà mà anh ta được trả tiền để bảo vệ, và cũng không trông chờ gì vào điều đó.

Anh ta ngước lên nhìn tòa nhà sừng sững đổ bóng trước mặt. Ít nhất cũng phải bốn đến năm triệu đô-la, anh ta nhẩm tính. Anh có sống cả năm kiếp mà làm việc quần quật cũng không thể kiếm ra được ngần ấy tiền. Nhiều lúc mọi chuyện thật ngang trái làm sao.

Anh ta kiểm tra bộ đàm. Anh phải vào đảo một vòng quanh chỗ này nào. Anh cũng không biết chính xác chuyện gì đang xảy ra nữa. Chỉ biết là người chủ đã gọi tới và yêu cầu một chuyến tuần tra.

Không khí lạnh buốt phả vào mặt làm Barnes chợt thấy thèm một cốc cà phê nóng hổi, một chiếc bánh trộn táo và hạnh nhân phết kem, sau đó là giấc ngủ ngon lành tám tiếng một mạch cho đến khi anh ta lại phải lọ mọ đánh chiếc Saturn của mình ra ngoài đường để bắt đầu một đêm bảo vệ tài sản của những người giàu có. Thu nhập từ công việc này cũng không đến nỗi tệ, mặc dù phúc lợi thì chẳng đâu vào đâu. Vợ anh ta cũng phải làm việc cả ngày, và với ba đứa con thì thu nhập của họ cũng chỉ là vừa đủ. Nhưng xét cho cùng thì tất cả mọi người ai cũng khó khăn mà. Anh ta nhìn chiếc ga-ra có năm chỗ đỗ phía sau nhà, bể bơi và sân tennis. Hừm, có lẽ không phải là tất cả mọi người.

Khi đi vòng qua chái nhà, anh ta chợt nhận ra sợi dây thừng treo lủng lẳng từ trên cửa sổ thòng xuống, và những ý nghĩ về tách cà phê nóng hổi và chiếc bánh phết đầy kem vụt biến mất. Anh nép người xuống, bàn tay đưa nhanh xuống hông. Anh lấy chiếc bộ đàm và báo cáo tình hình, giọng run run lo lắng. Cảnh sát thực sự sẽ có mặt ở đây sau vài phút nữa. Anh có thể chờ đợi họ hoặc tự mình điều tra. Với mức lương tám đô-la mỗi giờ, anh quyết định cứ ở yên đây là tốt nhất.

Tổ trưởng của Barnes đến trước tiên trong chiếc xe bán tải màu trắng đến lóa mắt với logo của công ty in nổi bật trên cánh cửa xe. Ba mươi giây sau thì chiếc đầu tiên trong số 5 chiếc xe cảnh sát tuần tra dừng trên lối đi trải nhựa, rồi tiếp đó cả đoàn xe chen chúc nhau như một đoàn tàu đang đỗ trước cửa ngôi nhà.

Hai sĩ quan cảnh sát chặn phía cửa sổ. Rất có thể thủ phạm đột nhập đã cao chạy xa bay từ lâu rồi, nhưng trong nghề cảnh sát thì không bao giờ được đưa ra những giả định khi chưa có bằng chứng cụ thể.

bốn cảnh sát khác tiến vào từ cửa trước, hai người canh gác phía sau. Chia thành hai nhóm hai người, bốn cảnh sát tiến dần vào trong nhà. Họ thấy ngay là cửa trước không hề khóa, hệ thống báo động cũng đã tắt. Họ kiểm tra và sục sạo rất kỹ toàn bộ khu vực dưới tầng rồi bắt đầu tiến dần lên cầu thang rộng thênh thang, cả tai và mắt đều căng ra nhằm phát hiện bất kỳ dấu hiệu di chuyển hay tiếng động nào.

Đến khi đặt chân lên hành lang tầng hai, lỗ mũi của viên trung úy chỉ huy đã báo với ông ta rằng đây không chỉ là một vụ trộm cắp thông thường.

bốn phút sau họ đã đứng thành vòng tròn xung quanh thứ đã từng là một người phụ nữ trẻ trung, xinh đẹp. Màu da mặt hồng hào của những người đàn ông khỏe mạnh đã tái nhợt đi thành màu trắng bệch.

Viên trung úy, ngoài năm mươi tuổi, cha của ba người con, ngẩng lên nhìn khung cửa sổ đang mở toang. Tạ ơn Chúa, ông ta tự nhủ; ngay cả với không khí ngoài trời tràn vào như thế này thì trong phòng vẫn nồng nặc một mùi hôi thối đến lộn mửa. Ông ta nhìn cái xác lần nữa, rồi vội vàng sải chân đến cửa sổ để hổn hển hớp hớp vội vài hơi không khí trong lành bên ngoài.

Ông ta cũng có một đứa con gái trạc tuổi đó. Trong giây lát ông ta đã thoáng hình dung ra cảnh con bé nằm trên sàn nhà kia, khuôn mặt chỉ còn là ký ức, cuộc sống đã bị tước đoạt một cách phũ phàng. Vấn đề này đã vượt quá thẩm quyền giải quyết của ông, nhưng ông ta vẫn ước một điều: ông ta ước mình có mặt khi kẻ gây ra tội ác khủng khiếp này bị bắt.

← Loại máy ảnh tự động chụp cho ra ảnh luôn, không cần rửa ảnh từ phim.