← Quay lại trang sách

Chương 7

Seth Frank vừa nhồm nhoàm nhai một mẩu bánh mì nướng vừa loay hoay tìm cách buộc sợi ruy-băng trên tóc cho cô con gái sáu tuổi chuẩn bị đi học thì điện thoại đổ chuông. Ánh mắt của vợ đã nói cho anh biết tất cả những gì cần thiết. Vợ anh buộc nốt sợi ruy-băng cho con gái. Seth một tay kẹp điện thoại, một tay tìm cách thắt cà-vạt cho mình, vừa nghe không sót một lời nào từ giọng nói bình tĩnh, rành rọt của người gọi tới. Hai phút sau anh đã ngồi trong xe; chiếc đèn hụ vô tích sự của cảnh sát được lắp ngay ngắn trên nóc chiếc Ford do Sở Cảnh sát trang bị. Những ánh đèn màu xanh hải quân bắt đầu lóe lên đầy đe dọa khi anh phi xe qua những con đường tồi tàn gần như vắng hoe của hạt.

Khung người to xương và cao lêu nghêu của Frank đang bắt đầu hành trình không thể tránh được của tuổi trung niên với những cơ bắp nhão dần, mái tóc đen xoăn cũng đã qua rồi những ngày trẻ trung. Giờ đây khi đã bốn mươi mốt tuổi, đã là bố của ba đứa con gái càng lớn càng phức tạp và nổi loạn, dần dần anh cũng nhận ra rằng trên đời này cũng chẳng có nhiều điều thực sự có ý nghĩa như người ta vẫn tưởng. Nhưng nhìn chung anh vẫn là một người hạnh phúc. Cuộc sống ưu ái không dành tặng anh đòn knock-out nào. Đúng hơn là chưa. Anh đã ở trong cái nghề cảnh sát này đủ lâu để biết rằng cuộc sống yên bình này có thể trở thành địa ngục bất kỳ giây phút nào.

Frank ném một thanh kẹo cao su Juicy Fruit vào miệng và chậm rãi nhai trong khi những hàng thông dày đặc hai bên đường cứ vun vút lùi lại phía sau ngoài cửa sổ xe. Anh đã bắt đầu sự nghiệp trong ngành bảo vệ pháp luật của mình với vị trí một tay cảnh sát quèn tại những khu vực tồi tệ nhất của New York, nơi mà cụm từ “giá trị cuộc sống” chỉ là một trò hề và ở đó anh đã chứng kiến không thiếu gì cách mà con người ta có thể nghĩ ra để giết hại lẫn nhau. Cuối cùng anh cũng trở thành một thanh tra, trước sự thở phào nhẹ nhõm của vợ mình. Ít nhất thì bây giờ anh sẽ chỉ đến hiện trường sau khi những kẻ xấu đã biến mất. Mỗi tối chị có thể ngủ ngon hơn vì biết rằng sẽ không có những cú điện thoại lúc nửa đêm mà chị ghê sợ sẽ hủy hoại cuộc đời của mấy mẹ con. Đó là điều tối thiểu chị có thể hy vọng khi chấp nhận làm vợ một cảnh sát.

Cuối cùng Frank được phân công phụ trách điều tra mảng trọng án, chuyên về án mạng, đây xứng đáng được coi là thách thức lớn nhất trong nghề của anh. Sau vài năm, anh đã quyết định rằng anh yêu thích việc này và những thách thức đi cùng với nó, nhưng không phải là với tốc độ bảy cái xác một ngày ở New York. Vậy nên, anh quyết định di cư về phía Nam tới Virginia.

Anh là thanh tra cao cấp phụ trách điều tra án mạng thuộc Sở cảnh sát hạt Middleton, nghe cao cấp thì oai nhưng thực chất cũng chẳng có gì, đơn giản anh là thanh tra án mạng duy nhất mà Hạt có. Thực tế thì tình hình tương đối thanh bình và yên ả của vùng nông thôn Virginia cũng chẳng đáng để có nhiều người làm gì. Mức thu nhập trung bình trong khu vực anh đảm trách thuộc dạng ngoại hạng. Tất nhiên là vẫn có án mạng, nhưng ngoài những vụ vợ bắn chồng hoặc ngược lại, hay cùng lắm là những đứa con vì tham lam thừa kế mà xuống tay khử đấng sinh thành thì công việc cũng không có gì thú vị cả. Thủ phạm trong những vụ này đã quá rõ ràng, công việc của anh chủ yếu là việc chân tay chứ không mấy khi phải động não. Nhưng cú điện thoại vừa rồi hứa hẹn sẽ thay đổi tất cả.

Con đường ngoằn ngoèo luồn lách qua khu rừng rậm rạp rồi đâm ra cánh đồng cỏ rộng mênh mông xanh mướt, nơi những con ngựa nòi chân dài đang thơ thẩn chạy tung tăng đón bình minh ngày mới. Đằng sau những cánh cổng nguy nga và những lối đi vòng vèo là dinh thự của số ít những kẻ may mắn trên đời, nhưng lại tập trung vô số ở cái hạt Middleton này. Frank kết luận rằng anh sẽ chẳng thể trông mong gì từ sự giúp đỡ của những người hàng xóm như thế này. Một khi đã rút vào trong pháo đài kiên cố của mình, họ sẽ chẳng bao giờ có thể nghe hoặc nhìn thấy điều gì khác ở bên ngoài. Đó chính xác là điều họ muốn và sẵn sàng trả thêm bộn tiền để được hưởng cái đặc quyền riêng tư ấy.

Khi Frank đến gần biệt thự nhà Sullivan, anh chỉnh thẳng lại cà-vạt qua gương chiếu hậu và vuốt ngược mấy lọn tóc dựng ngược trước trán. Anh chẳng thích thú gì những kẻ giàu có này, nhưng cũng không việc gì phải căm ghét họ. Họ là một phần của câu đố. Một câu đố hóc búa và xương xẩu hơn bất kỳ trò chơi nào có thể hình dung. Và đây chính là điều đáng hài lòng nhất trong công việc của anh. Giữa một mớ bòng bong những thăng trầm, ngóc ngách, những mối quan hệ rối rắm và những sai lầm sơ đẳng, vẫn luôn hiện hữu một chân lý không ai có thể chối cãi: cho dù có là ai, nếu đã giết người thì coi như đã nằm dưới vòng kiểm soát của Frank và tội ác sẽ bị trừng phạt thích đáng. Còn hình thức trừng phạt cụ thể là gì thì thường Frank cũng chẳng quan tâm. Anh chỉ quan tâm đến một điều là sẽ có kẻ bị đưa ra xét xử và, nếu bị kết tội, sẽ phải nhận bản án thích đáng. Giàu, nghèo, hay thường thường bậc trung đều như nhau. Có thể sau quãng thời gian an nhàn, những kỹ năng của anh đã mai một đi ít nhiều, nhưng bản năng vẫn còn nguyên vẹn. Về lâu dài, bản năng là tất cả những gì anh có thể trông đợi.

Khi dừng xe lại ở đầu lối vào, anh chợt để ý đến một chiếc máy gặt đập liên hợp nhỏ đang cày xới trên ruộng ngô bên cạnh, người lái máy đang chăm chú quan sát những hoạt động của cảnh sát trong nhà. Thông tin về vụ án chắc chắn sẽ lan truyền khắp vùng với tốc độ chóng mặt. Người đàn ông trên chiếc máy gặt đập không thể nào biết rằng anh ta đang phá hủy bằng chứng, bằng chứng của một cuộc đào thoát. Tất nhiên là cả Seth Frank cũng chưa biết gì, khi anh vẫn điềm nhiên bước ra khỏi xe, khoác chiếc áo choàng lên người và vội vã tiến về phía cửa trước.

Hai tay nhét sâu trong túi áo khoác, anh chậm rãi lia mắt khắp căn phòng, thu thập các chi tiết trên sàn nhà, bức tường, rồi lại ngước lên nhìn trần nhà trước khi quay lại cánh cửa bằng gương, và cuối cùng là chỗ người đàn bà xấu số đã nằm suốt mấy ngày qua.

Seth Frank nói, “Chụp thật nhiều ảnh vào, Stu, có vẻ như chúng ta sẽ cần đến đấy.”

Nhân viên chụp ảnh của bộ phận trọng án đang khẽ khàng bước đi bước lại khắp phòng theo những ô vuông tưởng tượng xung quanh cái xác để bảo đảm có thể ghi lại những tấm ảnh từ mọi góc độ của căn phòng một cách chính xác nhất. Sau khi chụp ảnh, anh ta sẽ quay phim toàn bộ hiện trường vụ án rồi bổ sung bằng lời tường thuật. Những việc làm này chưa chắc đã được chấp nhận trước tòa, nhưng đối với cuộc điều tra thì đó là những bằng chứng vô cùng giá trị. Nếu như một cầu thủ bóng đá phải xem đi xem lại băng ghi hình các trận đấu, thì các thanh tra còn phải mất nhiều công sức hơn với việc ngồi trước màn hình video để tìm kiếm những manh mối mới mà nhiều khi phải xem xét tỉ mỉ đến lần thứ tám, thứ mười, hoặc thậm chí thứ một trăm, họ mới phát hiện được.

Đầu này của chiếc dây thừng vẫn buộc chặt vào chân tủ, còn đầu kia vẫn thòng ra bên ngoài cửa sổ. Chỉ có điều lúc này nó đã được phủ một lớp bột đen đặc biệt để hiện dấu vân tay, nhưng cũng không hy vọng gì nhiều. Người ta vẫn thường mang găng tay khi leo dây thừng, cho dù là sợi dây đã được thắt nút đi nữa.

Sam Magruder, sĩ quan phụ trách hiện trường, tiến lại gần, sau hai phút thò đầu ra khỏi cửa sổ mà hít lấy hít để. Khoảng ngoài năm mươi với mái tóc bù xù màu hung đỏ quạch mọc trên khuôn mặt béo ị nhẵn nhụi không một sợi râu, ông ta phải khó khăn lắm mới ngăn được bữa sáng của mình không trào lên cổ họng. Ai đó đã mang vào đây một chiếc quạt máy khá lớn, tất cả những cửa sổ trong phòng đều được mở toang hết cỡ. Tất cả các nhân viên bộ phận trọng án đều đeo khẩu trang bảo hộ, nhưng mùi thịt thối rữa vẫn nồng nặc đến choáng váng. Người chết đang cười nhạo những người còn sống. Mới phút trước còn trẻ trung xinh đẹp, mà giờ đây chỉ còn là một đống bầy nhầy thối hoăng.

Frank kiểm tra bản ghi chép của Magruder, rồi liếc nhìn khuôn mặt xanh lét của viên cảnh sát khu vực với vẻ thông cảm.

“Sam này, nếu như ông đứng tránh cái cửa sổ kia ra, thì chỉ sau bốn phút là khứu giác của ông sẽ gần như tắc tị. Ông cứ làm thế này chỉ khiến mọi chuyện trở nên tệ hơn thôi.”

“Tôi biết, Seth. Não tôi cũng nói như thế, nhưng mũi tôi không chịu nghe theo.”

“Người chồng gọi về khi nào?”

“Sáng nay, 7h45 giờ địa phương.”

Frank căng mắt đọc những dòng nguệch ngoạc trong sổ ghi chép của viên cảnh sát. “Và bây giờ ông ta đang ở đâu nhỉ?”

“Đảo Barbados.”

Frank hơi nhăn trán, “Bao lâu rồi?”

“Chúng tôi đang xác minh điều đó.”

“Làm ngay đi.”

“Có manh mối gì chưa, Laura?” Frank cúi xuống nhìn kỹ thuật viên giám định hiện trường, Laura Simon.

Cô ngẩng đầu lên. “Tôi không tìm được gì nhiều, Seth.”

Frank bước lại gần cô. “Thôi nào, Laura. Dấu vết của cô ta kiểu gì chẳng có khắp trong phòng. Thế còn chồng cô ta thì sao? Người giúp việc? Chắc chắn phải có gì có ích quanh đây chứ.”

“Tôi chẳng thấy gì cả.”

“Cô chắc đang đùa tôi.”

Simon, người luôn làm việc với tinh thần trách nhiệm và say mê nhất, đồng thời là chuyên gia tìm dấu vân tay giỏi nhất Frank từng làm việc cùng, nhìn anh với vẻ xin lỗi. Bột bụi carbon phủ khắp nơi trong phòng, vậy mà không có dấu vết gì là sao? Trái với những gì chúng ta thường nghĩ, nhiều tên tội phạm vẫn để lại dấu vân tay của chúng tại hiện trường. Vấn đề là phải biết tìm kiếm ở đâu. Laura Simon luôn biết những vị trí đó, vậy mà lần này cô ấy cũng đành bó tay. Hy vọng họ sẽ phát hiện được điều gì đó sau khi phân tích trong phòng thí nghiệm. Rất nhiều dấu vết ngầm vẫn không thể nào nhìn ra bằng mắt thường cho dù có tìm kiếm từ góc độ nào đi chăng nữa. Nếu không người ta đã không gọi chúng là những là dấu vết ngầm. Điều duy nhất có thể làm bây giờ là rắc bột bụi và dán băng dính phát hiện vân tay lên khắp mọi nơi tên thủ phạm có thể đã chạm vào. Nhiều lúc biết đâu lại gặp may.

“Tôi đã gói vài thứ để gửi đến cho phòng thí nghiệm. Sau khi tôi dùng đến ninhydrin và thử những phần còn lại với Super Glue, biết đâu tôi sẽ có thứ gì đó cho anh.” Cô lại miệt mài quay lại với công việc của mình.

Frank lắc đầu. Super Glue, một chất cyanoacrylate, có lẽ là giải pháp tối ưu nhất để phát hiện dấu vân tay từ những nơi không ai có thể ngờ tới. Vấn đề là quá trình khốn kiếp này mất rất nhiều thời gian mới phát huy được phép màu của nó. Mà thời gian lại là điều họ không có.

“Thôi nào, Laura, nhìn vẻ ngoài của xác chết thì thủ phạm chạy trước chúng ta một khoảng thời gian khá xa rồi.”

Cô chằm chằm nhìn anh. “Tôi có một loại ester cyanoacrylate khác mà tôi muốn thử. Loại này nhanh hơn nhiều. Hoặc không thì tôi có thể hơ nóng để rút ngắn thời gian cho kết quả của loại Super Glue.” Cô mỉm cười.

Vị thanh tra nhăn mặt. “Phải rồi. Lần trước cô làm điều đó, chúng ta đã phải sơ tán cả tòa nhà.”

“Tôi không hề nói đấy là một phương án hoàn hảo, Seth.”

Magruder hắng giọng chen vào. “Trông có vẻ như chúng ta đang đương đầu với những tay chuyên nghiệp.”

Seth nghiêm khắc nhìn tay cảnh sát khu vực. “Chúng không phải là dân chuyên nghiệp, Sam. Chúng là những tên tội phạm, những kẻ giết người. Chúng không học ở một cái trường đại học khốn kiếp nào đó cái sự chuyên nghiệp này.”

“Vâng, thưa ngài.”

“Chúng ta chắc chắn đây là xác bà chủ nhà chứ?” Frank hỏi.

Magruder chỉ tay về phía bức ảnh trên chiếc bàn phía đầu giường. “Chistine Sullivan. Tất nhiên chúng ta sẽ tiến hành xác minh nhân dạng sau.”

“Có bất kỳ nhân chứng nào không?”

“Hiện giờ chưa có ai cả. Chúng tôi chưa hỏi hàng xóm quanh đây. Đang định sáng nay sẽ bắt tay vào việc đó.”

Frank ghi chép tỉ mỉ tất cả những chi tiết liên quan đến căn phòng cùng điều kiện của cái xác bà chủ nhà, rồi lại vẽ phác họa căn phòng và những thứ bên trong. Một tay luật sư biện hộ cáo già hoàn toàn có thể biến bất kỳ nhân chứng nào của bên công tố thành một gã ngốc nếu không chuẩn bị cẩn thận. Không chuẩn bị cẩn thận cũng đồng nghĩa với việc những tên tội phạm được nhởn nhơ tại ngoại.

Frank đã nhận lấy bài học duy nhất anh cần học trong lĩnh vực này khi còn là một tay cảnh sát mới chập chững vào nghề và là người đầu tiên có mặt tại hiện trường một vụ đột nhập. Anh chưa bao giờ bối rối và suy sụp như lần đó khi đứng chết lặng như trời trồng trên bục nhân chứng, tất cả lời làm chứng của anh cuối cùng đã bị xé tan tành và hóa ra lại trở thành cơ sở để bị cáo thoát tội. Giá mà hôm đó mà anh được phép mang khẩu.38 của mình vào trong phòng xử án thì trên đời này hẳn đã bớt thêm được một tên luật sư.

Frank đi ngang qua căn phòng tới chỗ Chuyên viên Pháp y, một người đàn ông lực lưỡng tóc bạc trắng khắp người đầm đìa mồ hôi bất chấp không khí se lạnh buổi sáng, đang lột chiếc váy của cái xác. Frank cũng quỳ xuống và kiểm tra một trong hai bàn tay nhỏ nhắn, rồi ngước lên nhìn khuôn mặt người phụ nữ. Trông như thể cô ta đã bị đánh đập đến thâm tím vậy. Quần áo trên người đã ướt sũng. Ngay sau khi nạn nhân tử vong thì các cơ thắt bắt đầu thả lỏng và các loại chất dịch theo đó mà chảy ra ngoài. Đủ các loại mùi quyện vào nhau không hề dễ chịu chút nào. Cũng may là sự xuất hiện của các loại côn trùng quanh cái xác mới chỉ ở mức độ tối thiểu, cho dù cửa sổ để ngỏ suốt mấy ngày qua. Mặc dù thường thì dựa vào các loài giòi bọ có thể đánh giá thời điểm tử vong chính xác hơn các phương pháp giải phẫu thông thường, nhưng chẳng ai lại thích thú với cái ý nghĩ kiểm tra một cái xác người đang trở thành bữa tiệc thịnh soạn cho lũ giòi.

“Ước lượng được chưa?” Frank hỏi Chuyên viên Pháp y.

“Đặt nhiệt kế ở trực tràng chắc không có nhiều tác dụng, khi mà nhiệt độ cái xác cứ mỗi tiếng lại tụt đi một độ rưỡi trong điều kiện thời tiết này. Thời điểm tử vong dao động trong khoảng bảy mươi hai cho đến tám mươi tư giờ gì đó. Tôi sẽ có con số chính xác hơn cho anh sau khi tôi tiến hành mổ giám định.” Chuyên viên Pháp y đứng dậy. “Nguyên nhân tử vong là những vết thương do súng bắn thẳng vào đầu,” ông ta nói thêm, mặc dù điều đó đã quá rõ ràng đối với bất kỳ ai trong phòng.

“Tôi để ý thấy có những dấu vết trên cổ nạn nhân.”

Chuyên viên Pháp y chằm chằm nhìn Frank một lúc rồi nhún vai. “Và chúng vẫn ở nguyên đấy. Tôi chưa xác định được nguyên nhân cụ thể.”

“Tôi sẽ rất biết ơn nếu ông có thể xác định nhanh chi tiết này.”

“Anh sẽ sớm nhận được thôi. Không có nhiều vụ kiểu này. Bao giờ chúng cũng sẽ được ưu tiên đặc biệt, anh biết đấy.”

Vị thanh tra kín đáo nháy máy đồng tình với lời nhận xét.

Chuyên viên Pháp y nhìn anh. “Hy vọng anh thích cánh báo chí. Chúng sẽ sớm xúm quanh đây như một đàn ong mật cho mà xem.”

“Ong vò vẽ thì đúng hơn.”

Chuyên viên Pháp y nhún vai. “Cũng may là anh chứ không phải tôi. Tôi quá già đối với cái trò vớ vẩn ấy rồi. Tôi xong việc rồi. Cô ta đã sẵn sàng để chuyển đi.”

Chuyên viên Pháp y thu dọn đồ nghề và bước ra ngoài.

Frank kéo bàn tay nhỏ nhắn lên sát mặt mình, chăm chú theo dõi những móng tay được xén tỉa cực kỳ chuyên nghiệp. Anh nhận thấy mấy vết xước trên lớp ngoài móng tay, trông như thể đã có vật lộn khá dữ dội trước khi cô ta bị bắn. Cả cái xác đã trương phềnh; các loại vi khuẩn đang hoành hành trên mọi bộ phận của cơ thể khi mà quá trình phân hủy đã lên đến cao trào. Cái xác đã qua giai đoạn cương cứng từ lâu, có nghĩa là cô ta đã chết được hơn bốn mươi tám giờ. Các cơ bắp ở chân và tay đều mềm oặt vì các mô mềm của cơ thể đã phân hủy hết. Frank thở dài. Cô ta nằm đây được khá lâu rồi. Điều này tốt cho tên giết người, nhưng lại tệ cho phía cảnh sát.

Anh vẫn không khỏi bàng hoàng khi chứng kiến những thay đổi mà cái chết có thể gây ra ở một con người. Một đống thịt bầy nhầy trương phềnh hầu như không còn mang hình hài của một con người, thế mà mới chỉ vài ngày trước… Nếu khứu giác của anh chưa tê liệt, chắc chắn anh không thể làm được những gì anh đang làm lúc này. Nhưng đó là điều mà một thanh tra án mạng phải chấp nhận. Những thân chủ của anh đều chỉ là những cái xác.

Anh thận trọng nâng đầu người chết lên, lần lượt nghiêng từng phía ra chỗ có ánh sáng. Hai vết đạn xuyên vào ở phía đầu bên phải, một lỗ xuyên ra to đùng, vỡ toác nham nhở ở bên trái. Thủ phạm đã sử dụng loại đạn cỡ lớn. Stu đã chụp ảnh các vết thương từ đủ mọi góc khác nhau, kể cả chụp trực diện từ trên xuống. Những viền da xoắn lại xung quanh vết bắn, trong khi không thấy vết hằn của nòng súng hay vết bỏng do tia lửa đạn bắn ra khiến Frank kết luận rằng hai viên đạn được bắn ra từ cự li khoảng gần một mét.

Những vết thương bằng đạn cỡ nhỏ bắn tiếp xúc, tức là nòng súng áp sát với da thịt nạn nhân, cùng những vết thương do đạn bắn cách mục tiêu khoảng vài phân, cũng có thể tạo ra hiệu ứng tương tự. Nhưng nếu thế thì kiểu gì cũng phải còn sót lại những tàn dư rất nhỏ của thuốc súng dính trong các mô cơ thể nạn nhân dọc theo đường đi của viên đạn. Kết quả giám định pháp y sẽ giúp kết luận được điều đó.

Sau đó Frank bắt đầu săm soi vết đụng giập trên cằm phía trái của nạn nhân. Thực ra nó cũng đã bị che khuất phần nào khi cái xác bắt đầu trương thối tự nhiên, nhưng Frank đã chứng kiến quá nhiều xác chết đủ để nhận ra sự khác biệt. Bề mặt da chỗ này có một đám hỗn hợp màu xanh, nâu và đen bầm rất đáng ngờ. Chắc chắn phải là một cú đấm rất mạnh. Một người đàn ông? Thật khó hiểu. Anh bảo Stu chụp thêm ảnh khu vực đó với tỷ lệ màu sắc điều chỉnh phù hợp. Sau đó anh khẽ khàng đặt cái đầu xuống sàn nhà với sự kính trọng người chết đáng được nhận ngay cả trong hoàn cảnh rất chuyên môn và nghiệp vụ lúc này.

Chắc hẳn người chết sẽ khó mà được đối xử như vậy trong cuộc giải phẫu pháp y sau đó.

Frank từ từ kéo váy nạn nhân lên cao. Đồ lót vẫn còn nguyên vẹn. Quá trình giải phẫu pháp y cũng sẽ trả lời cho câu hỏi hiển nhiên này.

Frank lững thững đi quanh phòng trong khi các nhân viên đội trọng án tiếp tục công việc của mình. Điều may mắn khi sống ở cái hạt miền nông thôn thượng lưu và giàu có của Virginia này là ngân sách hoạt động quá thừa thãi để bảo đảm cho cả một đội trọng án dù nhỏ nhưng lại tinh nhuệ hạng nhất với tất cả những công nghệ và thiết bị hỗ trợ điều tra tân tiến mà về lý thuyết là sẽ giúp tóm được những tên tội phạm kia một cách dễ dàng hơn.

Nạn nhân đã ngã xuống về phía sườn trái, đổ người vào phía trong, ngược với cửa ra vào. Hai đầu gối hơi chụm lại và co lên trên, cánh tay trái duỗi ra, tay kia để sát dọc theo hông bên phải. Mặt cô ta ngoảnh về phía đông, vuông góc với cạnh bên phải của chiếc giường; hình dáng cơ thể gần giống với tư thế bào thai. Frank bần thần xoa mũi. Từ lúc khởi đầu đến lúc kết thúc, rồi lại quay lại điểm khởi đầu. Làm gì có ai biết trước rằng cuối cùng thì chúng ta sẽ rời bỏ thế giới cũ kỹ này theo cách nào đây?

Với sự giúp đỡ của Simon, anh thực hiện phép đạc tam giác về vị trí của cái xác; cái thước dây kêu ken két đến chói tai khi anh kéo nó ra. Không hiểu sao anh có cảm giác âm thanh đó nghe thật báng bổ và tục tĩu trong căn phòng chết chóc này. Anh nhìn ngưỡng cửa và tư thế của cái xác. Anh và Simon thống nhất nhanh đường đi mô phỏng ban đầu của hai viên đạn. Có thể những phát đạn được bắn đi từ cửa ra vào, trong khi nếu là một vụ trộm mà thủ phạm bị chủ nhà đi từ ngoài vào bắt quả tang thì đáng ra những phát súng phải được bắn theo chiều ngược lại. Dù sao, vẫn còn một bằng chứng nhỏ khác có thể chứng minh khá chắc chắn việc những viên đạn đã được bắn từ hướng nào.

Frank lại quỳ xuống bên cạnh xác chết. Hoàn toàn không có vết kéo xác trên mặt thảm trong khi những dấu máu và những thứ bắn ra từ xác nạn nhân cho thấy cô ta đã bị bắn tại đúng vị trí cô ta đã ngã xuống. Frank cẩn thận quay lại với xác chết, lại khẽ khàng nâng váy cô ta lên. Sau khi nạn nhân chết, máu trên cơ thể sẽ dồn xuống những phần thấp nhất, đây được gọi là hiện tượng hồ máu tử thi. Sau khoảng từ bốn đến sáu tiếng, những hồ máu tử thi này sẽ cố định vị trí. Do đó, việc dịch chuyển cái xác không hề làm thay đổi sự phân bổ của lượng máu ứ trong cơ thể. Frank lật sấp cái xác xuống. Tất cả các dữ kiện đều chứng tỏ rằng Christine Sullivan đã chết đúng tại vị trí này.

Những vết máu tung tóe ra xung quanh càng củng cố kết luận rằng nạn nhân có lẽ đang quay mặt về phía chiếc giường thì bị bắn chết. Nếu quả thật như vậy thì cô ta đang nhìn cái chết tiệt gì nhỉ? Bình thường một người sắp bị bắn thường nhìn thẳng về hướng thủ phạm, cầu xin hắn thương tình mà tha mạng cho mình. Nếu có cơ hội, chắc chắn Christine Sullivan sẽ cầu xin, Frank biết rõ điều đó. Viên thanh tra nhìn quanh nội thất xa hoa và cầu kỳ của căn phòng. Cô ta có quá nhiều điều quý giá đáng để cầu lấy con đường sống.

Anh chăm chú kiểm tra mặt thảm trải sàn, mặt anh dí sát xuống dưới chỉ cách bề mặt tấm thảm vài centimet. Những vết máu và óc bắn ra không đều như thể có gì đó đã nằm chắn ngay phía trước mặt hoặc phía bên sườn người chết. Rất có thể đây sẽ là một chi tiết quan trọng. Đã có rất nhiều điều được ghi lại liên quan đến những vết máu bắn ra. Frank tôn trọng tính hữu dụng của chúng, nhưng anh cũng cố gắng không kỳ vọng và diễn giải quá nhiều vào những gì hiện có. Tuy vậy, nếu quả thật có thứ gì đó chắn bớt phần nào vết máu bắn ra tấm thảm, anh cần phải biết cụ thể nó là cái gì. Ngoài ra, anh cũng thấy ngạc nhiên khi không có những vết máu vương vào chiếc váy của nạn nhân. Anh phải ghi lại chi tiết này; biết đâu sau đấy nó lại giúp được việc gì.

Simon mở hộp đồ nghề kiểm tra cưỡng hiếp, và với sự giúp đỡ của Frank, cô bắt đầu đẩy sâu thiết bị của mình vào trong âm đạo người chết. Sau đó họ tìm kiếm thật tỉ mẩn cả tóc trên đầu cũng như đám lông mu của nạn nhân nhưng cũng không phát hiện được chi tiết gì khác thường. Xong xuôi họ gói ghém trang phục trên người cô ta lại.

Frank trầm ngâm nhìn cái xác hồi lâu. Anh liếc nhìn Simon. Dường như cô cũng đọc được ý nghĩ trong đầu anh.

“Sẽ chẳng ăn thua gì đâu, Seth.”

“Cứ chiều tôi đi, Laurie.”

Simon nghiêm túc thực hiện theo yêu cầu của Frank, cô kéo túi đồ nghề phát hiện dấu vân tay của mình lại rồi bắt đầu rắc bột chuyên dụng lên cổ tay, ngực, cổ và phần dưới nách. Sau vài giây, cô ngẩng lên nhìn Frank và ngán ngẩm lắc đầu. Cô gói ghém những gì ít ỏi họ vừa tìm được.

Anh đứng nhìn cái xác được bọc vào một tấm vải trắng, lồng bên ngoài là một chiếc túi đựng xác chuyên dụng rồi đưa ra ngoài nơi một chiếc xe cứu thương đã chờ sẵn để đưa Christine Sullivan tới một nơi mà tất cả mọi người đều thầm cầu mong sẽ không bao giờ phải tới.

Sau đó anh bắt đầu xem xét căn phòng bí mật, để ý trước tiên tới chiếc ghế và cái điều khiển từ xa. Những đám bụi kết lại trên sàn căn phòng bí mật đã bị xới tung. Simon cũng đã kiểm tra xong khu vực này. Có một vết bụi bẩn mờ mờ trên mặt ghế. Thủ phạm đã phá cửa để vào trong; còn nguyên dấu vết trên tường và cánh cửa gương chỗ khóa bị phá. Họ sẽ phải tháo riêng phần bằng chứng này ra, kiểm tra xem có khôi phục được dấu vân tay nào không. Frank quay lại nhìn xuyên qua cánh cửa bằng gương và ngao ngán lắc đầu. Gương một chiều. Hay ho làm sao. Lại còn trong phòng ngủ. Lúc này anh chỉ muốn gặp ngay ông chủ nhà.

Anh quay ra phòng ngủ, nhìn bức ảnh lồng khung trên chiếc bàn đầu giường. Rồi lại quay ra nhìn Simon.

“Tôi đã kiểm tra nó rồi, Seth,” cô nói. Anh gật đầu và cầm bức ảnh lên. Một người phụ nữ quyến rũ, anh tự nhủ, thực sự khiêu khích và bốc lửa theo kiểu hãy-tới-đây-và-yêu-em-đi. Bức ảnh được chụp ngay trong căn phòng này, con người xấu số kia mới ngày nào còn ngồi trên chiếc ghế kê cạnh giường. Rồi anh nhận ra dấu vết trên tường. Căn phòng này được trát thạch cao xung quanh tường thay vì để tường đá mộc như bình thường, nhưng dấu vết hằn trên đó vẫn rất sâu. Frank để ý thấy chiếc bàn đầu giường đã hơi xê dịch; tấm thảm dày phía dưới đã tiết lộ vị trí ban đầu của nó. Anh quay sang Magruder.

“Trông như có người va vào đây thì phải.”

“Có lẽ là trong lúc vật lộn.”

“Có lẽ thế.”

“Đã thấy đầu đạn chưa?”

“Một cái vẫn nằm trong đầu cô ta, Seth.”

“Tôi đang hỏi viên còn lại, Sam.” Frank nóng nảy lắc đầu. Magruder chỉ lên bức tường bên cạnh chiếc giường nơi có một cái lỗ nhỏ xíu rất khó phát hiện.

Frank gật đầu. “Cắt cả mảng vữa xung quanh ra và để các chuyên gia của phòng thí nghiệm lấy nó ra. Đừng có tự mình làm rồi bung bét mọi chuyện đấy.” Chỉ trong năm ngoái thôi đã hai lần liền những kết quả phân tích đạn đạo trở nên vô dụng chỉ vì một tay cảnh sát thiếu hiểu biết nhưng lại thừa nhiệt tình nào đó đã hăm hở tự cạy đầu đạn ra khỏi tường, làm hỏng mất những vết xước do đường khương tuyến trong nòng súng tạo ra trên đầu đạn.

“Có thấy vỏ đạn nào không?”

Magruder lắc đầu. “Giả sử như vũ khí của thủ phạm có đẩy ra vỏ đạn nào thì chắc chúng cũng được phi tang rồi.”

Anh quay sang Simon. “E-vac có tìm thấy gì không?” E-vac là một loại máy hút bụi chuyên dụng cực mạnh được trang bị rất nhiều màng lọc khác nhau, có tác dụng quét qua thảm và những vật liệu khác để tìm kiếm các sợi vải, lông, tóc, cùng những vật siêu nhỏ nhưng nhiều khi lại có giá trị điều tra rất lớn vì nếu đã nhỏ đến mức thủ phạm không nhìn thấy, hắn cũng sẽ không tìm cách xóa chúng đi làm gì.

Magruder cố pha trò, “Giá mà thảm nhà tôi cũng sạch được thế này.”

Frank quay sang nhìn đội phân tích hiện trường của mình. “Có tìm thấy dấu vết gì không, mọi người? Tất cả đều ngỡ ngàng nhìn nhau không hiểu Frank đang nói thật hay nói đùa. Họ vẫn còn đang bán tín bán nghi khi Frank lặng lẽ bước ra khỏi phòng và đi xuống tầng dưới.

Một đại diện của công ty thiết bị báo động đang nói chuyện với nhân viên cảnh sát ngay bên cạnh cửa chính. Một thành viên đội trọng án đang thu thập nắp hộp điều khiển hệ thống báo động và mớ dây rợ vào trong túi nylon. Hai người chỉ cho Frank thấy màng sơn nhỏ xíu hơi bị bong ra cùng với một vết xước li ti trên mặt kim loại cho thấy tấm bảng điều khiển đã bị tháo. Trên sợi dây điện cũng có lờ mờ những vết hằn nhỏ xíu như vết răng cắn. Viên đại diện công ty thiết bị báo động nhìn có vẻ thán phục tác phẩm của kẻ phá hoại. Magnude cũng đến tham gia cùng họ. Máu đã bắt đầu xuất hiện trở lại trên mặt ông ta.

Tay đại diện công ty gật gù. “Đúng, có lẽ chúng đã sử dụng một thiết bị đếm số. Những dấu hiệu ban đầu cho thấy đúng là như thế.”

Seth nhìn anh ta. “Có nghĩa là sao?”

“Đó là một phương pháp được hỗ trợ bằng máy vi tính có khả năng nạp một loạt tổ hợp các dãy số vào ngân hàng dữ liệu nhận biết của hệ thống cho đến khi tìm ra đúng đáp án. Anh biết đấy, cũng giống kiểu chúng vẫn làm để lấy mật khẩu máy ATM ấy mà.”

Frank nhìn tấm bảng điều khiển bị tháo tung rồi lại nhìn anh chàng đại diện. “Tôi lấy làm ngạc nhiên là một chỗ như thế này lại không có hệ thống bảo vệ nào tinh vi hơn.”

“Như thế này là tinh vi lắm rồi.” Tay đại diện công ty biện hộ.

“Thời buổi này thì tên tội phạm nào mà chẳng sử dụng đến máy tính.”

“Đành là vậy, nhưng vấn đề là ở chỗ, cậu bé này là một mã gồm 15 chữ số, không phải là mười như bình thường, mà thời gian cho phép chỉ có đúng bốn mươi ba giây. Nếu anh không nhập đúng trong khoảng thời gian đó, cánh cổng sẽ sập xuống ngay tức khắc.”

Frank xoa xoa mũi. Chắc anh phải về nhà và chui ngay vào phòng tắm. Cái mùi xác chết để trương mấy ngày liền trong một căn phòng nóng nực bao giờ cũng để lại những dấu vết không sao xóa đi được trên quần áo, đầu tóc và da thịt anh. Và cả trong xoang mũi nữa.

“Vậy thì?” Frank hỏi.

“Vậy thì, những thiết bị cầm tay mà nhiều khả năng thủ phạm sử dụng cho các phi vụ loại này sẽ không tài nào nhồi đủ ngần ấy mã số ngẫu nhiên trong vòng ba mươi giây gì đó. Mẹ kiếp, muốn thử các tổ hợp 15 chữ số như thế, các anh sẽ có đến một nghìn ba trăm tỷ phương án khác nhau. Mà chắc chắn không có chuyện tên đó dẫn xác đến đây với một chiếc máy tính cá nhân siêu mạnh.”

Tay cảnh sát khu vực ngơ ngác hỏi chen vào. “Tại sao lại chỉ có ba mươi giây?”

Frank trả lời, “Vì chúng sẽ cần thời gian để mở nắp hộp điều khiển nữa, Sam.” Anh quay lại tay nhân viên công ty hệ thống an ninh. “Vậy ý anh đang muốn nói là gì?”

“Tôi đang muốn nói là nếu thủ phạm vô hiệu hóa được hệ thống này bằng một thiết bị đếm số thì chắc chắn hắn phải loại bỏ được một số chữ số nhất định trong quá trình thao tác. Có thể là một nửa, thậm chí là hơn thế. Ý tôi là biết đâu bọn chúng đã có một hệ thống phần mềm tinh vi có thể làm được việc này một cách dễ dàng, hoặc đơn giản nhất là chúng đã cài thiết bị đọc trộm mật mã từ trước. Nhưng thứ mà chúng ta tìm kiếm ở đây chắc chắn không phải là một thiết bị rẻ tiền, và cũng không thể có chuyện đây là một tên ất ơ nào đó tạt vào Radio Shack lấy một cái máy tính tùy ý được. Đúng là hiện tại càng ngày những chiếc máy tính càng có tốc độ xử lý nhanh hơn, nhưng anh phải hiểu là chỉ riêng tốc độ thiết bị của anh cũng chưa đủ để giải quyết vấn đề đâu. Anh phải nắm được tốc độ phản ứng của hệ thống an ninh nữa. Rất có thể nó xử lý dãy số nhập vào còn chậm hơn rất nhiều so với thiết bị của anh. Và nếu thế thì coi như anh đã gặp rắc rối to. Tóm lại nếu tôi là những gã này tôi sẽ phải khá chắc chắn trước khi hành động, anh hiểu ý tôi chứ? Trong cái nghề đạo chích này, không có chỗ cho việc sửa chữa sai lầm đâu.”

Frank nhìn bộ đồng phục của tay đại diện rồi lại tấm bảng điều khiển. Nếu như anh chàng này nói đúng thì anh hiểu điều đó có nghĩa là gì. Suy nghĩ của anh cũng đã bắt đầu theo hướng đó, căn cứ vào thực tế là cánh cửa trước không hề bị phá hay có bất kỳ dấu hiệu bị cạy mở khác thường gì cả.

Tay đại diện an ninh tiếp tục, “Lẽ ra chúng tôi hoàn toàn có thể loại bỏ được khả năng này. Chúng tôi có những hệ thống bảo vệ có thể từ chối tiếp nhận nếu những dãy số ồ ạt được tống vào bộ xử lý của chúng. Trong trường hợp đó tất cả các loại máy tính đều trở nên vô dụng. Vấn đề là đôi khi những hệ thống này lại tỏ ra quá nhạy cảm nên thành ra lại gây khó khăn cho chính những người chủ sử dụng trong trường hợp họ không sao nhớ được mật mã chính xác trong một vài lần thử đầu tiên. Mẹ kiếp, đã không biết bao nhiêu lần chúng tôi nhận được những hồi chuông báo động giả đến nỗi các Sở Cảnh sát đang bắt đầu áp lệnh phạt với chúng tôi. Những con số chết dẫm.”

Frank cảm ơn anh ta rồi đi kiểm tra toàn bộ phần còn lại của ngôi nhà. Dù cho thủ phạm vụ án này có là ai thì chắc chắn chúng cũng biết rõ những gì mình đang làm. Vụ này sẽ không kết thúc chóng vánh được. Nếu như chúng lên kế hoạch chi tiết trước khi bắt tay hành động thì có nghĩa là kế hoạch lẩn trốn và xóa dấu vết sau khi kết thúc còn tinh vi hơn. Nhưng có lẽ chúng không tính đến tình huống phải hạ sát bà chủ nhà.

Frank chợt dựa hẳn người vào khung của và trầm tư suy nghĩ về những gì ông bạn Chuyên viên Pháp y của anh vừa nói: những vết thương.

← Livor mortis: Ở người chết, máu sẽ ngừng lưu thông và dồn xuống những bộ phận ở phần thấp trên cơ thể (dưới tác động của trọng lực) và đọng lại.