Chương 13
Mỗi năm Nhà Trắng nhận được hàng triệu thư từ không chính thức. Từng thứ một đều được kiểm tra và xử lý rất kỹ càng, toàn bộ công việc này được thực hiện bởi một đội ngũ nhân viên thường trực với sự hỗ trợ và giám sát của Cơ quan Mật vụ.
Có hai phong bì đề người nhận là Gloria Russell, đây là điều cũng hơi khác thường vì phần lớn những thư từ kiểu này đều được gửi cho Tổng thống hoặc Đệ nhất phu nhân và con cái họ, thậm chí nhiều khi còn gửi cho Đệ nhất Thú cưng của gia đình Tổng thống, mà hiện tại đang là một chú chó săn nhỏ lông vàng tên là Barney.
Chữ viết trên cả hai phong bì đều là chữ in hoa, phong bì là loại màu trắng rẻ tiền bán ở khắp mọi nơi. Russell nhận được chúng vào khoảng mười hai giờ trưa một ngày mà mọi chuyện vẫn diễn ra tốt đẹp cho tới lúc đó. Bên trong phong bì thứ nhất là một tờ giấy duy nhất còn trong phong bì thứ hai là một vật mà bà ta trừng trừng nhìn suốt mấy phút liền. Được viết trên tờ giấy, cũng bằng chữ in hoa, là những dòng:
Câu hỏi: Điều gì cấu thành tội nặng và tội nhẹ? Câu trả lời: Tôi không nghĩ là bà muốn biết. Tôi đang giữ một vật có giá trị, hãy đợi đấy, bà Chánh văn phòng, gửi từ một người hâm mộ giấu mặt.
Mặc dù bà ta đã chờ đợi nó, thậm chí phải nói là muốn nhận được nó đến mức tuyệt vọng, vậy mà lúc này bà vẫn có thể cảm thấy tim mình đột nhiên đập rộn lên như một con ngựa đang phi điên cuồng trong lồng ngực; nước bọt trong miệng bà ta như khô đắng đến mức bà ta vội huơ tay rót và nốc một hơi hết cốc nước, rồi lại thêm cốc nữa cho đến khi có thể cầm lá thư mà không run rẩy. Sau đó bà ta nhìn sang phong bì thứ hai. Một bức ảnh. Hình ảnh con dao rọc giấy khiến những ký ức khủng khiếp như một cơn ác mộng ập về trong đầu Russell. Bà ta vội chộp lấy tay vịn của ghế. Mãi rồi cơn chấn động cũng qua đi.
“Ít nhất thì hắn cũng muốn dàn xếp.” Collin đặt lá thư cùng với bức ảnh xuống và quay về ghế của mình. Anh ta nhận ra vẻ xanh xao, tái nhợt của người đàn bà và băn khoăn không biết lần này bà ta có đủ vững vàng vượt qua được không.
“Có thể. Nhưng cũng có thể chỉ là một cái bẫy.”
Collin lắc đầu. “Anh không nghĩ thế.”
Russell ngồi ngả người ra lưng ghế, tay day day thái dương, thả thêm một viên giảm đau Tylenol vào miệng. “Tại sao không?”
“Việc gì hắn phải dựng bẫy lên như thế này? Việc gì hắn phải giăng bẫy cơ chứ? Hắn đang nắm trong tay thứ có thể chôn vùi chúng ta mà. Hắn muốn tiền.”
“Hắn đã xoáy được hàng triệu đô-la của Sullivan rồi đấy.”
“Có thể thế. Nhưng chúng ta không biết bao nhiêu trong số đó là tiền mặt. Có thể hắn đã giấu chúng vào đâu đó và ngay lúc này chưa thể đến lấy lại được. Cũng có thể hắn chẳng qua chỉ là một kẻ cực kỳ tham lam. Thế giới này đâu thiếu gì những tên như vậy.”
“Em cần uống thứ gì đó. Tối nay đến chỗ em được không?”
“Tối nay Tổng thống sẽ dùng bữa ở Đại sứ quán Canada.”
“Chết tiệt. Anh không kiếm được ai thay mình à?”
“Có thể, nếu em chịu khó tác động.”
“Coi như xong. Theo anh nghĩ thì bao lâu nữa chúng ta sẽ lại nhận được tin của hắn?”
“Hắn có vẻ không quá sốt sắng, mặc dù có thể hắn đang làm ra vẻ thận trọng mà thôi. Anh mà là hắn chắc anh cũng làm thế.”
“Tuyệt. Vậy là em có thể đốt hai bao thuốc lá bạc hà mỗi ngày cho đến khi chúng ta nhận được tin tiếp theo. Đến khi ấy thì em đã ngoẻo vì ung thư phổi rồi cũng nên.”
“Nếu hắn đòi tiền, em định làm gi?” anh ta hỏi.
“Phụ thuộc vào con số nữa, mọi việc có thể êm xuôi không có gì là khó khăn cả.” Lúc này bà ta đã có vẻ bình tĩnh hơn.
Collin đứng dậy rời đi. “Tùy ý em thôi.”
“Tim?” Russell bước lại bên anh ta. “Ôm em một lúc được không?”
Collin cảm thấy Russell xoa xoa khẩu súng trong khi anh ôm chặt lấy bà ta.
“Tim, nếu mọi chuyện không chỉ đơn giản là tiền. Nếu như chúng ta không thể kiểm soát tình hình.”
Collin cúi xuống nhìn bà ta.
“Thì anh sẽ giải quyết, Gloria.” Anh ta chạm ngón tay lên môi người tình, rồi quay người và bước đi.
Collin tìm thấy Burton đang đợi anh ta ngoài sảnh.
Burton săm soi nhìn gã thanh niên từ đầu đến chân. “Vậy bà ta sao rồi?”
“Ổn cả.” Collin vừa nói vừa tiếp tục bước vào hành lang, cho đến khi Burton chụp lấy cánh tay anh ta và kéo giật lại.
“Có chuyện mẹ gì đang xảy ra vậy, Tim?”
Collin gỡ bàn tay đang nắm chặt của đồng nghiệp ra. “Đây không phải lúc cũng không phải chỗ, Bill.”
“Hừm, vậy cậu nói cho tôi biết lúc nào và chỗ nào đi, tôi sẽ đến đó ngay vì chúng ta cần nói chuyện.”
“Về chuyện gì?”
“Cậu nhất định giở cái trò giả vờ giả vịt chó chết ấy ra với tôi phải không?” Anh ta xồng xộc kéo Collin vào một góc.
“Tôi muốn cậu suy nghĩ thật tỉnh táo về người đàn bà trong kia. Bà ta chẳng quan tâm đếch gì đến cậu, tôi hay bất kỳ ai khác. Điều duy nhất bà ta quan tâm là cứu lấy cái mông của mình thôi. Tôi không biết bà ta đang mớm cho cậu những câu chuyện nào, và tôi cũng không biết hai người đang mưu toan gì, nhưng tôi muốn bảo cậu hãy cẩn thận. Tôi không muốn thấy cậu vứt bỏ tất cả chỉ vì bà ta.”
“Tôi rất biết ơn anh vì đã lo lắng cho tôi, nhưng tôi biết mình đang làm gì, Bill.”
“Thật sao, Tim? Lên giường với bà Chánh văn phòng cũng là nhiệm vụ của một Mật vụ đấy nhỉ? Tại sao cậu không chỉ cho tôi thấy chỗ nào trong điều lệnh huấn luyện có đề cập đến chuyện đó nhỉ? Tôi muốn tự mình đọc nó cho kỹ. Và nhân tiện đang nói đến chuyện này, tại sao cậu không mở mắt cho tôi luôn về việc thế chó nào mà hôm đó chúng ta phải hộc tốc quay lại ngôi nhà nhỉ? Bởi vì chúng ta đã không lấy được cái cần lấy, và tôi đoán tôi biết ai đang giữ nó. Cái mạng tôi cũng liên can trong vụ này, Tim. Và nếu tôi có đi đứt thì tôi cũng phải được biết tại sao chứ.”
Một người trợ lý đi qua hành lang và nhìn hai người với vẻ lạ lùng. Burton mỉm cười và gật đầu rồi quay lại trừng trừng nhìn Collin.
“Thôi nào, Tim, cậu sẽ làm cái chết tiệt gì nếu cậu là tôi hả?”
Gã thanh niên nhìn bạn mình, mặt anh ta từ từ dãn ra khác hẳn cái vẻ lạnh lùng hàng ngày khi đang làm nhiệm vụ. Ừ nhỉ, nếu ở địa vị của Burton anh ta sẽ làm gì? Câu trả lời thật dễ dàng. Anh ta sẽ đá đít một số kẻ cho đến khi chúng chịu nói thì thôi. Burton là bạn anh ta, Burton đã chứng tỏ điều đó không biết bao nhiêu lần. Những gì anh ta nói về Russell có thể hoàn toàn chính xác. Vậy là lý trí của Collin đã không hoàn toàn bay hơi hết chỉ vì đống đồ lót bằng lụa mềm mại kia.
“Có thời gian uống một cốc cà phê chứ, Bill?”
Frank đi xuống hai tầng cầu thang, rẽ phải và mở cửa bước vào phòng khoa học hình sự. Mặc dù chật chội và cần phải sơn sửa lại, căn phòng vẫn ngăn nắp và gọn gàng một cách đáng ngạc nhiên, chủ yếu nhờ vào việc Laura Simon là một người cực kỳ kỹ tính. Frank hình dung cô ở nhà mà lúc nào cũng săm soi, gọn gàng quá mức như thế này cho dù việc phải một mình nuôi hai đứa con ở độ tuổi chuẩn bị đến trường cũng đủ khiến cô bận tối mắt. Xung quanh phòng cơ man nào là những hộp bằng chứng chưa sử dụng cùng dấu niêm phong màu da cam của chúng, tạo nên một dải màu nổi bật và vui mắt trên nền tường xám xịt, u ám. Những chiếc thùng bằng bìa giấy, được dán nhãn cẩn thận, xếp thành đống trong một góc phòng. Ở góc phòng đối diện là một chiếc tủ két an toàn nhỏ lưu giữ những bằng chứng cần được bảo vệ đặc biệt. Bên cạnh đó là một chiếc tủ lạnh để bảo quản những bằng chứng cần một môi trường nhiệt độ phù hợp.
Anh nhìn tấm lưng nhỏ nhắn của cô đang chăm chú cúi xuống bên một chiếc kính hiển vi ở phía cuối phòng.
“Cô gọi điện à?” Frank ghé sát lại. Trên mặt kính là những mẩu vụn li ti của một chất gì đó. Anh không thể hình dung ra cảnh mình suốt ngày ngồi nhìn chằm chằm mấy thứ siêu nhỏ, nhưng anh ý thức được rằng công việc mà Laura Simon thực hiện đóng góp đặc biệt quan trọng vào thành công của quá trình điều tra.
“Nhìn này.” Simon ra hiệu cho anh ghé mắt vào ống kính. Frank tháo kính của mình ra, mà trước đó anh còn quên khuấy là vẫn đeo trên mặt. Anh liếc nhìn xuống rồi lại ngẩng đầu lên.
“Laura, cô thừa biết là tôi chẳng hiểu tôi đang nhìn cái gì mà. Tóm lại đây là gì vậy?”
“Một mẫu vật lấy từ thảm trong phòng ngủ của Sullivan. Lần kiểm tra đầu tiên chúng ta chưa thu thập nó, mà là trong lần sau.”
“Vậy nó có ý nghĩa gì không?” Frank đã học được cách lắng nghe rất chăm chú về lĩnh vực này.
“Thảm phòng ngủ là một trong những loại cực kỳ đắt. Mỗi mét vuông thảm loại này có giá cỡ hai ngàn đô-la. Chắc hẳn họ đã phải chi đến cả một phần tư triệu chỉ cho tấm thảm phòng ngủ.”
“Lạy Chúa tôi!” Frank ném thêm một chiếc kẹo cao su vào miệng. Dạo này anh đang cố bỏ hút thuốc nên mồm miệng cứ buồn buồn, đã thế vòng eo lại to ra. “Hai trăm năm mươi ngàn cho cái thứ chỉ để đặt chân lên thôi sao?”
“Nó cực kỳ bền, anh có thể cho cả một chiếc xe tăng chạy qua mà thảm vẫn không bị dẹt. Nó mới chỉ được trải khoảng từ hai năm trước. Hồi ấy họ có sửa sang lại ngôi nhà.”
“Sửa sang? Ngôi nhà đó mới xây được vài năm thôi mà.”
“Hai năm trước là thời điểm nạn nhân kết hôn với Walter Sullivan.”
“Ồ.”
“Phụ nữ bao giờ cũng muốn khẳng định cái tôi của mình trong những chuyện như thế này, Seth. Quả thật gu chọn thảm của cô ta phải nói là tinh tế.”
“Được rồi, vậy cái gu tinh tế của cô nàng đưa chúng ta tới đâu đây?”
“Anh cứ nhìn lại những sợi thảm đi.”
Frank thở dài nhưng vẫn ngoan ngoãn tuân theo lời đề nghị.
“Anh thấy những đầu sợi chứ? Chỗ giao nhau kia kìa. Chúng đã bị cắt rời. Có lẽ là bằng một chiếc kéo không được sắc cho lắm. Vết cắt trông khá nham nhở, dù sao như tôi đã nói những sợi thảm này dai như dây thép.”
Frank ngẩng lên nhìn cô. “Cắt à? Tại sao lại làm thế nhỉ? Có tìm thấy chúng ở đâu?”
“Những mẫu này được tìm thấy trên mép giường. Kẻ cắt những sợi thảm này hẳn đã không để ý là một vài sợi đã dính vào tay hắn. Sau đó hắn quệt tay vào mép giường, thế đấy.”
“Cô đã tìm thấy phần tương ứng trên tấm thảm rồi chứ?”
“Rồi. Ngay sát bên trái vuông góc với thành giường, cách khoảng 10 centimet gì đó thôi. Vết cắt rất nhỏ, nhưng có thể nhận ra ngay.”
Frank đứng thẳng dậy rồi ngồi xuống một trong những chiếc ghế đẩu bên cạnh Simon.
“Chưa hết đâu, Seth. Trên một trong những mẫu thảm này tôi còn tìm thấy dấu vết của một loại dung môi. Hình như là một chất tẩy vết bẩn.”
“Có thể là do lần lau dọn thảm gần đây. Hoặc biết đâu một người giúp việc trong nhà đã làm vương thứ gì đó ra ngoài.”
Simon lắc đầu. “Ừ ừ. Các công ty lau dọn bao giờ cũng dùng máy phun hơi nước để làm sạch thảm. Còn đối với một vết bẩn cục bộ, thường họ sẽ dùng một loại dung môi đặc biệt có nguồn gốc hữu cơ. Tôi kiểm tra rồi. Đây là một loại dung môi có gốc là xăng, loại chất tẩy rửa cấp tốc. Còn những người giúp việc trong nhà thì sử dụng loại chất tẩy rửa mà nhà sản xuất khuyên dùng. Cũng là một loại dung môi gốc hữu cơ. Họ dự trữ rất nhiều trong nhà. Và mặt thảm đã được xử lý bằng hóa chất để ngăn vết bẩn thấm sâu vào. Sử dụng một loại dung môi gốc xăng chỉ làm mọi chuyện tồi tệ thêm. Có thể đó là lý do tại sao cuối cùng chúng chọn giải pháp cắt bỏ một mảng mặt thảm.”
“Vậy là hung thủ đã cắt bỏ những sợi thảm này vì chúng có lưu giữ dấu vết gì đó. Đúng không?”
“Không có gì trên mẫu thảm mà tôi thu được, nhưng có thể hắn đã cắt vòng quanh khu vực đó để bảo đảm là không bỏ sót tí gì và chúng tôi đã chỉ thu thập được một mẫu sạch sẽ.”
“Không biết dính lại trên thảm là cái gì khiến cho chúng phải mất công cắt cả một mảng sợi đi nhi? Chắc hẳn phải là một thứ gì đó của nợ.”
Cả Simon và Frank đều có chung một ý nghĩ, một ý nghĩ đã xuất hiện ngay từ khi cuộc trò chuyện này bắt đầu.
“Máu,” Simon nói tỉnh queo.
“Và không phải là máu của người chết. Nếu tôi nhớ không nhầm, máu cô ta không hề bắn ra đến khu vực đó.” Frank nói thêm, “Tôi nghĩ là cô sẽ phải làm thêm một cái xét nghiệm nữa đấy, Laura ạ.”
Cô nhấc một hộp đựng mẫu xét nghiệm trên tường xuống. “Tôi đã chuẩn bị đi rồi, chỉ là tôi nghĩ nên thông báo cho anh trước.”
“Thông minh lắm.”
Hành trình lái xe mất khoảng ba mươi phút. Frank hạ kính cửa sổ xuống và để gió lùa vào mặt. Gió cũng giúp xua bớt đi mùi thuốc lá nồng nặc trong xe. Simon vẫn thường càu nhàu với anh về chuyện đó.
Phòng ngủ vẫn được niêm phong cẩn thận theo lệnh của Frank.
Anh đứng quan sát từ một góc trong phòng ngủ của Walter Sullivan, trong khi Simon thận trọng pha trộn các chai hóa chất rồi rót hỗn hợp đó vào một chiếc bình xịt bằng nhựa. Sau đó Frank giúp cô chèn khăn vải dưới khe cửa chính và dán giấy gói hàng màu nâu lên tất cả các cửa sổ. Họ kéo kín những tấm rèm nặng nề lại, ngăn chặn hầu như toàn bộ nguồn ánh sáng tự nhiên chiếu vào trong phòng.
Frank quan sát lại căn phòng lần nữa. Anh nhìn tấm gương, chiếc giường, cửa sổ, những ngăn kéo tủ, và cuối cùng ánh mắt anh dừng lại trên cái bàn đầu giường cùng cái lỗ toang hoác phía sau nơi cả một mảng thạch cao trát tường đã bị cạy đi. Rồi mắt anh lướt sang bức ảnh. Anh cầm nó lên. Nó nhắc anh một lần nữa rằng Christine Sullivan là một phụ nữ vô cùng xinh đẹp, trước khi trở thành một đống máu thịt bầy nhầy mà anh từng chứng kiến. Trong bức ảnh này cô ta đang ngồi trên chiếc ghế cạnh giường. Có thể trông thấy rõ ràng cái bàn đầu giường bên tay trái. Góc chiếc giường nằm thẳng tắp so với cạnh bên phải của tấm ảnh. Kể cũng trớ trêu, nếu vì chiếc giường như một chiếc xe thì hẳn cô nàng đã sử dụng nó không thương tiếc. Những chiếc lò xo dưới đệm chắc cũng rệu ra như một cỗ xe cần bảo dưỡng sau chặng đường gần một trăm nghìn cây số. Đến độ ấy chắc chúng cũng chẳng còn tích sự gì nữa cả. Anh chợt nhớ nét mặt Walter Sullivan lúc trước. Rời xa, tàn tạ.
Anh đặt bức ảnh xuống và tiếp tục quan sát những thao tác thành thục của Simon. Bất giác anh quay lại liếc nhìn tấm ảnh, có gì đó khiến anh cảm thấy ngờ ngợ, nhưng cho dù có là gì chăng nữa thì nó cũng vụt biến khỏi đầu anh cũng nhanh không kém khi nó nhảy vào.
“Cô vẫn gọi cái chất ấy là gì ấy nhỉ, Laura?”
“Luminol. Tên thương mại của nó thì có vô vàn, nhưng vẫn chỉ là một chất mà thôi. Tôi sẵn sàng rồi.”
Cô gí sát chiếc bình xịt xuống chỗ thảm bị cắt.
“May cho cô là không phải đền tiền cho tấm thảm này.” Viên thanh tra mỉm cười trêu cô.
Simon quay lại nhìn anh. “Với tôi cũng chẳng sao. Cùng lắm thì tuyên bố phá sản là xong. Họ chỉ việc tịch thu tiền lương của tôi từ giờ đến hết đời. Đó là món đồ thế chấp lý tưởng của người nghèo còn gì nữa.”
Frank tắt đèn, cả căn phòng chìm vào bóng tối đen như mực. Có tiếng khí phun ra khi Simon bóp mạnh vào cần xịt của bình. Gần như ngay lập tức, giống như cả một mảng đom đóm, một khoảng nhỏ trên mặt thảm bắt đầu hắt ra ánh sáng lập lòe màu xanh nhạt, rồi biến mất. Frank bật công tắc đèn trên trần phòng và nhìn Simon.
“Vậy là chúng ta đã có vết máu của kẻ nào đó ở đây. Phát hiện tuyệt vời, Laura. Liệu có cách nào thu thập đủ vết máu để phân tích, nhóm máu? ADN?”
Simon tỏ vẻ hoài nghi. “Chúng ta phải lột tấm thảm lên xem có chút máu nào thấm xuống dưới không, nhưng tôi nghi ngờ điều đó. Với một tấm thảm được xử lý kỹ như thế này thì khả năng thấm xuống sàn là không nhiều lắm. Vả lại nếu có thì cũng lẫn với nhiều chất khác rồi. Anh đừng hy vọng nhiều làm gì.”
Frank nói thành lời những lập luận của mình. “Vậy là có một tên bị thương. Không chảy máu nhiều, nhưng cũng có một chút.” Anh chờ đợi sự đồng tình của Simon về nhận xét này và nhận được một cái gật đầu khẳng định từ cô. “Bị thương, nhưng bằng cái gì chứ? Khi phát hiện ra nạn nhân thì trên tay cô ta không có gì cả.”
Simon đọc được suy nghĩ của anh. “Và trên thực tế cô ta chết ngay lập tức, nên rất có thể là có hiện tượng co thắt cơ tử thi. Nếu muốn lấy thứ gì đó ra khỏi tay cô ta thì chúng gần như phải bẻ gãy các ngón tay của của nạn nhân.”
Frank nói nốt ý nghĩ đó. “Và kết quả khám nghiệm tử thi không đề cập gì đến kiểu dấu vết như thế.”
“Trừ khi tác động của những viên đạn đã khiến tay nạn nhân mở bung ra.”
“Chuyện đó có xảy ra thường xuyên không?”
“Với vụ này thì khả năng nào cũng có thể.”
“OK, vậy giả sử rằng nạn nhân có một thứ vũ khí, và hiện tại thứ vũ khí đó đang mất tích. Theo cô thì đó có thể là loại vũ khí gì?”
Simon vừa gói ghém lại hộp đồ xét nghiệm vừa lặng lẽ suy nghĩ về câu hỏi này.
“Có thể loại trừ một khẩu súng; nếu có thì nhiều khả năng nạn nhân đã kịp bắn một phát, nhưng trên tay cô ta không hề có dấu vết của thuốc súng. Hung thủ không thể nào xóa sạch hoàn toàn dấu vết đó được.”
“Đúng vậy. Thêm vào đó không có bằng chứng nào cho thấy cô ta từng đăng ký sở hữu một khẩu súng. Và lại chúng ta đã khẳng định rằng trong ngôi nhà này không có khẩu súng nào.”
“Vậy là không phải súng. Có thể là một con dao. Không thể nói chính xác đó là một vết thương như thế nào, nhưng có lẽ chỉ là một vết xước, không có gì nghiêm trọng. Số lượng sợi thảm bị cắt đi cũng rất ít, nên có thể khẳng định vết thương không hề đe dọa đến tính mạng của hung thủ.”
“Vậy là cô ta đâm một trong những tên hung thủ, có thể là vào tay hoặc vào chân. Rồi chúng vùng dậy và bắn cô ta à? Hay cô ta đâm chúng khi đang hấp hối?” Frank tự chỉnh lại lập luận của mình. “Không, cô ta chết ngay lập tức. Cô ta đâm một tên trong bọn chúng ở phòng khác, chạy sang phòng này và bị bắn. Và khi đứng nhìn xác nạn nhân, máu của một tên hung thủ đã nhỏ xuống đây.”
“Trừ việc cái gian phòng bí mật lại nằm ở đây. Nhiều khả năng là cô ta đã làm chúng giật mình khi đang hành động.”
“Chính xác, chỉ có điều cô nên nhớ là những phát đạn được bắn từ cửa vào trong phòng. Và đạn hướng xuống. Vậy thì ai làm ai giật mình đây? Đó chính là điều khiến tôi băn khoăn mãi mà không sao hiểu được.”
“Vậy nếu mọi chuyện xảy ra đúng như vậy thì tại sao chúng phải lấy con dao đi?”
“Vì trên đó có dấu vết có thể làm ai đó lộ tẩy, bằng cách nào đó.”
“Vân tay chăng?” Simon khịt khịt mũi như đánh hơi khi cô thoáng nghĩ đến những bằng chứng quan trọng đang lẩn khuất đâu đây.
Frank gật đầu. “Đó chính là điều tôi đang nghĩ.”
“Không biết bà Sullivan quá cố có thói quen mang dao theo trong người không nhỉ?”
Frank đáp lại bằng cách tự vỗ vào trán mình một cái mạnh đến nỗi làm Simon phải cau mày. Cô nhìn anh ta chạy vội đến chiếc bàn đầu giường và cầm bức ảnh lên. Anh lắc mạnh đầu rồi chìa tấm ảnh cho cô xem.
“Con dao chết tiệt của cô đây rồi.”
Simon chăm chú nhìn bức ảnh. Trong đó, nằm ngay ngắn trên chiếc bàn đầu giường, là một con dao rọc giấy dài, có tay cầm bọc da.
“Chất da ở chuôi dao cugx giải thích tại sao có dư chất dầu bảo quản trong lòng bàn tay nạn nhân.”
Frank dừng lại trên ngưỡng cửa chính khi bước ra ngoài ngôi nhà. Anh nhìn hộp điều khiển hệ thống an ninh đã được khôi phục lại chế độ hoạt động bình thường. Rồi bỗng nhiên anh toét miệng cười đắc chí khi một ý nghĩ tưởng chừng như mơ hồ cuối cùng cũng chịu hiện hình rất rõ ràng.
“Laura, cô có mang theo đèn huỳnh quang trong thùng xe không?”
“Có, làm gì?”
“Cô đi lấy cho tôi được không?”
Simon làm theo dù không hiểu ý định của Frank là gì. Cô quay lại gian sảnh chính và cắm điện vào chiếc đèn.
“Chiếu thẳng nó vào trên các phím số đi.”
Những gì hiện ra dưới ánh đèn huỳnh quang lại khiến Frank mỉm cười.
“Mẹ khỉ, tuyệt thật.”
“Có nghĩa là thế nào?” Simon sốt ruột nhìn anh, trán cô cau lại, khó chịu.
“Có nghĩa là hai việc. Thứ nhất, trong vụ này chắc chắn có một kẻ tay trong và, thứ hai, phải công nhận bọn tội phạm có đầu óc sáng tạo thật.”
Frank ngồi trong gian phòng thẩm vấn bé tí và đấu tranh tư tưởng với việc hút một điếu thuốc nữa hay chuyển sang nhai một chiếc kẹo cao su hương anh đào. Anh nhìn những bức tường bê-tông xám xịt, chiếc bàn kim loại rẻ tiền và những chiếc ghế cũ kỹ thảm hại rồi tự nhủ đây quả là chỗ thật u ám cho kẻ nào vô phúc bị thẩm vấn. Chính như thế lại tốt. Những kẻ đang suy sụp tinh thần là những kẻ dễ bị khai thác nhất, và những kẻ dễ bị khai thác, nếu biết cách khơi gợi phù hợp, sẽ luôn có xu hướng muốn nói chuyện. Và Frank thì muốn lắng nghe. Anh sẵn sàng ngồi nghe cả ngày cũng được.
Vụ án vẫn cực kỳ bế tắc, nhưng cũng đã có một số yếu tố nhất định đang dần trở nên sáng tỏ.
Buddy Budizinski vẫn sống ở Arlington và đang làm cho một cửa hàng rửa xe ở Falls Church. Ông ta đã thừa nhận từng làm việc trong nhà Sullivan, đã đọc về vụ án mạng, nhưng ngoài điều đó ra thì không biết gì hết. Frank cũng phần nào tin là ông ta nói thật. Ông ta không được khôn ngoan cho lắm, chưa từng có tiền án tiền sự và cả đời hầu như chỉ sống nhờ những công việc lặt vặt chẳng ai thèm làm, cũng không có gì đáng ngạc nhiên vì ông ta mới chỉ học hết lớp năm. Căn hộ của ông ta đơn sơ đến mức gần như nghèo nàn. Budizinski là một hướng điều tra vào ngõ cụt.
Trong khi đó, Rogers lại là cả một kho báu mới được đào ra. Mã số An sinh Xã hội mà ông ta cung cấp trong hồ sơ xin việc của mình là số thật, chỉ có điều nó thuộc về một nhân viên nữ của Bộ Ngoại giao Mỹ, và cô này đang công tác ở Thái Lan suốt hai năm qua. Chắc ông ta biết công ty giặt thảm sẽ chẳng hơi đâu mà kiểm tra. Họ quan tâm làm gì chứ? Địa chỉ trong hồ sơ xin việc là một nhà nghỉ bên đường ở Beltsville, Maryland. Chưa từng có ai có tên là Rogers từng đăng ký thuê phòng tại nhà nghỉ này trong một năm qua và ở đó cũng không thấy ai có hình dáng giống với đặc điểm ngoại hình của ông ta. Bang Kansas không có hồ sơ lưu về ông ta. Và quan trọng nhất là Rogers chưa bao giờ rút một đồng nào từ những tờ séc trả lương mà ông ta nhận được từ hãng Metro. Bản thân chi tiết này cũng đã nói lên rất nhiều điều.
Bức phác họa chân dung của Rogers căn cứ theo miêu tả của Pettis đang được thực hiện ở phòng bên cạnh và sẽ sớm được phân phát ra khắp nơi trong vùng.
Rogers chính là kẻ cần tìm. Frank có thể linh cảm thấy điều đó. Hắn đã ở trong ngôi nhà của Sullivan, và hắn đã đột ngột biến mất để lại đằng sau một loạt những thông tin ngụy tạo. Chắc giờ này Simon đang cần mẫn kiểm tra chiếc xe tải của Pettis với hy vọng tìm được dấu vân tay của Rogers còn lẩn khuất đâu đó. Họ không có dấu vân tay nào tại hiện trường vụ án, nhưng nếu có thể xác định được danh tính thật sự của Rogers thì đánh cuộc mười mươi là kiểu gì hắn cũng có tiền án tiền sự, và thế là cuối cùng vụ án của Frank cũng thành hình. Thậm chí sẽ có một bước đột phá cực lớn nếu người mà anh đang chờ đợi sẽ quyết định hợp tác.
Và Walter Sullivan cũng đã khẳng định rằng một con dao rọc giấy đồ cổ trong phòng ngủ của ông ta đang mất tích. Frank vô cùng hy vọng sẽ đặt được tay lên cái bằng chứng có giá trị hơn cả một mỏ vàng ấy. Frank cũng đã chia sẻ giả thuyết của mình với Sullivan về khả năng vợ ông ta đã đâm kẻ tấn công bằng con dao rọc giấy. Lão già tỏ vẻ không quan tâm đến thông tin đó lắm. Frank tự hỏi không biết lão còn minh mẫn nữa không.
Viên thanh tra kiểm tra lại danh sách những người giúp việc tại biệt thự của Sullivan một lần nữa, mặc dù thời điểm này anh đã thuộc lòng tên của họ. Chỉ có một người khiến anh thực sự quan tâm.
Trong đầu anh không ngừng suy nghĩ lời khẳng định mà gã đại diện công ty cung cấp hệ thống an ninh đã nói. Số lượng tổ hợp dãy năm số được tạo ra từ mười lăm chữ số để hoàn toàn nằm ngoài khả năng xử lý của một máy tính thông thường trong khoảng thời gian hạn chế là ba mươi giây để tìm ra được tổ hợp chính xác, nhất là khi tốc độ phản hồi từ máy chủ của công ty an ninh không đủ nhanh. Muốn tìm được dãy số chính xác, điều quan trọng nhất là phải giảm bớt được số lượng tổ hợp kia. Vậy phải làm thế nào đây?
Kiểm tra kỹ bàn phím của bảng điều khiển thiết bị cho thấy một loại hóa chất đặc biệt—Frank không thể nhớ được tên chính xác của nó mặc dù Simon đã nhận ra—đã được phết lên những phím số. Điều đặc biệt là hóa chất này chỉ hiện rõ khi được chiếu bởi tia sáng của đèn huỳnh quang.
Frank ngồi ngả lưng ra ghế và hình dung ra cảnh Walter Sullivan—hoặc người quản gia, hoặc là bất kỳ ai có nhiệm vụ cài đặt thiết bị báo động—bước tới nhập mã số. Ngón tay trỏ của người đó sẽ nhấn vào những phím thích hợp, có năm phím tất cả, và thiết bị báo động đã được cài đặt xong. Người đó sẽ bước đi, hoàn toàn không biết là trên đầu ngón tay của mình vừa dính một chút hóa chất không mùi và mắt thường không nhìn thấy. Và quan trọng hơn cả là họ hoàn toàn không biết rằng mình vừa để lộ những con số tạo thành mật mã an ninh của ngôi nhà. Khi dùng đèn huỳnh quang để soi, thủ phạm có thể nhận ra những số nào vừa được nhập vào thiết bị và hóa chất phết trên phím số đó đã bị nhòe đi. Với những thông tin này, máy tính của hắn hoàn toàn có thể tìm ra dãy số chuẩn xác, mà theo tay đại diện công ty thì đó là điều hoàn toàn có thể thực hiện được trong khoảng thời gian cho phép kia, sau khi đã loại bỏ được đến 99,9% những tổ hợp không chính xác.
Câu hỏi đặt ra lúc này: Ai là kẻ đã bôi hóa chất lên các phím số? Ban đầu Frank đã nghĩ rằng có thể Rogers, hay bất kể tên thật của hắn có là gì chăng nữa, đã làm điều đó khi tới giặt thảm tại ngôi nhà, nhưng có rất nhiều thực tế phản bác lại suy đoán đó. Thứ nhất, ngôi nhà lúc nào cũng có người và ngay cả người chủ quan nhất cũng không thể không nghi ngờ khi thấy có người lạ lảng vảng gần bản điều khiển thiết bị báo động. Thứ hai, sảnh vào rất rộng và thoáng, lại là chỗ khó ẩn náu nhất trong toàn bộ ngôi nhà. Cuối cùng, việc bôi hóa chất lên các phím số sẽ đòi hỏi sự tỉ mỉ và nhiều thời gian. Rogers không thể kỳ công đến thế được. Chỉ cần một sự nghi ngờ nhỏ nhất, một cái nhìn vô tình liếc qua, là cũng đủ khiến toàn bộ kế hoạch của hắn bị đổ bể. Kẻ đã nghĩ ra kế hoạch thông minh này không thể là một kẻ liều lĩnh được. Rogers không làm việc đó. Frank dám chắc rằng anh biết đó là ai.
Thoạt nhìn, người đàn bà có vẻ gầy gò đến nỗi Frank có cảm giác bà ta đang hốc hác dần vì một căn bệnh ung thư nào đó. Nhưng khi nhìn kỹ lại, màu hồng tươi tắn trên gò má, kết cấu xương nhẹ nhàng và dáng đi lại dẻo dai buộc anh phải kết luận rằng tuy bà ta gầy, nhưng thật ra hoàn toàn khỏe mạnh.
“Xin mời ngồi, thưa bà Broome. Cảm ơn bà đã đến đây.”
Người phụ nữ gật đầu và khẽ lách người ngồi xuống một chiếc ghế trong phòng. Bà ta mặc một chiếc váy hoa dài đến ngang bắp chân. Trên cổ bà là một chuỗi vòng nhựa giả ngọc trai to bự. Mái tóc được buộc túm lại gọn gàng phía sau gáy; vài lọn tóc lòa xòa phủ xuống trước trán đã bắt đầu ngả màu xám bạc, giống như vết mực loang vào giấy. Căn cứ vào làn da còn khá mịn màng và không có nếp nhăn, Frank có thể cho rằng bà ta chỉ khoảng gần bốn mươi. Thực tế bà ta già hơn thế một chút.
“Tôi tưởng tôi đã trả lời tất cả những gì ông cần biết rồi, ông Frank.”
“Cứ gọi tôi là Seth. Bà có hút thuốc không?”
Bà ta lắc đầu.
“Tôi chỉ có thêm vài câu hỏi thôi, theo thủ tục ấy mà. Bà không phải là người duy nhất. Theo tôi biết thì bà chuẩn bị thôi việc ở nhà ông Sullivan?”
Có thể thấy là bà ta khẽ nuốt khan, cúi nhìn nhanh xuống đất, rồi lại ngẩng lên. “Có thể nói, tôi đã khá thân thiết với bà Sullivan. Ông biết đấy, cho nên bây giờ thật khó khăn…” Giọng bà ta như lạc đi.
“Tôi hiểu, tôi biết cảm giác đó như thế nào. Thật kinh khủng, tồi tệ.” Frank ngừng lại một lát. “Tính đến thời điểm này bà đã làm cho gia đình Sullivan được bao lâu rồi nhỉ?”
“Khoảng hơn một năm.”
“Bà làm công việc dọn dẹp và…?”
“Tôi giúp làm công việc dọn dẹp trong nhà, Sally, Rebecca và tôi. Chúng tôi có bốn người, Karen Taylor lo việc bếp núc. Tôi cũng phụ trách trông nom những đồ dùng của bà Sullivan. Quần áo và những thứ đồ linh tinh khác. Có thể nói tôi là người giúp việc nêng cho bà ấy. Ông Sullivan cũng có người giúp việc riêng, Richard.”
“Bà uống chút cà phê nhé?”
Frank cũng không đợi bà ta trả lời. Anh đứng dậy và mở cửa phòng thẩm vấn.
“Molly này, mang cho tôi chút cà phê được không?” Anh quay lại nhìn bà Broome. “Bà uống đen hay với kem?”
“Đen.”
“Hai cốc nhé, Molly, cảm ơn.”
Anh đóng cửa lại và ngồi xuống.
“Không khí bên ngoài lạnh thật, ngồi trong này mà vẫn không thấy ấm hơn.” Anh vỗ vỗ lên mặt tường xù xì. “Cái kiểu khối bê-tông này thế mà cũng chẳng ăn thua. À mà bà đang nói về bà Sullivan nhỉ?”
“Bà ấy đối xử với tôi rất tử tế. Tôi muốn nói là bà ấy tin tưởng và tâm sự với tôi nhiều chuyện. Ông biết đấy, bà ấy không—bà ấy không xuất thân từ tầng lớp kia, ý tôi là tầng lớp thượng lưu ấy. Bà ấy cũng học cùng trường trung học của tôi trước kia, ở ngay Middleton này.”
“Và theo tôi nghĩ thì cũng không cách nhau nhiều khóa lắm thì phải.”
Nhận xét của Frank làm Wanda Broome bẽn lẽn nở một nụ cười, và bất giác bà ta đưa tay lên vén một lọn tóc vô hình nào đó.
“Thật ra niên khóa chúng tôi cách xa nhau hơn những gì tôi dám thú nhận.”
Cửa phòng bật mở và cà phê của hai người được chuyển vào. Cà phê mới pha, nóng bỏng tay và thơm ngào ngạt. Frank không hề nói dối về không khí lạnh lẽo trong phòng.
“Tôi không dám nói là bà ấy thực sự hòa nhập được với những người ở tầng lớp đó, nhưng dường như bà ấy vẫn có thể đứng vững. Ý tôi là bà ấy không bao giờ lấy bất kỳ cái gì của ai cả.”
Frank có lý do để tin rằng đó là sự thật. Căn cứ theo những gì anh biết thì bà Sullivan quá cố là một người gai góc trên nhiều phương diện.
“Vậy bà nhận xét như thế nào về mối quan hệ giữ hai vợ chồng ông bà Sullivan… tốt, xấu, hay bình thường?”
Bà ta nói ngay không do dự. “Rất tốt. Ồ, tất nhiên tôi biết thiên hạ vẫn dèm pha như thế nào về chênh lệch tuổi tác này nọ, nhưng bà ấy đối xử rất tốt với chồng, và ông ấy cũng chiều chuộng bà. Tôi thực sự tin vào điều đó. Ông ấy yêu vợ mình, tôi có thể cam đoan là như vậy. Có lẽ giống kiểu một người cha yêu con gái của mình hơn, nhưng dù sao cũng vẫn là tình yêu.”
“Về phía bà ấy thì sao?”
Lần này thì có đôi chút do dự. “Chắc ông cũng hiểu Christy Sullivan, dù sao cũng vẫn là một cô gái còn rất trẻ, thậm chí còn trẻ hơn theo nhiều phương diện với những phụ nữ khác cùng tuổi với bà ấy. Ông Sullivan đã mở ra một thế giới hoàn toàn mới mẻ trước mắt Christy và—” Bà ta bỗng ngưng bặt, rõ ràng là không biết phải nói tiếp như thế nào.
Frank chuyển chiến thuật. “Vậy còn cái ngăn bí mật trong phòng ngủ? Những ai biết về sự tồn tại của nó?”
“Tôi không biết. Tôi cũng không biết có những ai biết. Theo tôi thì ông và bà Sullivan đều biết. Người giúp việc riêng của Sullivan, Richard, có thể cũng biết. Nhưng tôi cũng không chắc về điều đó.”
“Vậy là Christine Sullivan hoặc chồng bà ta không hề nói gì với bà về việc đằng sau tấm gương có một căn phòng bí mật?”
“Ôi lạy Chúa, làm gì có chuyện ấy. Có thể coi tôi là bạn của bà chủ theo phương diện nào đó, nhưng dù sao tôi cũng chỉ là một người làm thuê. Mà cũng mới có hơn một năm. Ông Sullivan còn chưa bao giờ thực sự nói chuyện với tôi nữa là. Ý tôi là những chuyện như thế này đâu phải là kiểu chuyện mà ông chủ sẽ nói với những người như tôi, đúng không.”
“Đúng, tôi nghĩ vậy.” Frank đoán chắc chắn bà ta đang nói dối, nhưng anh chưa có bằng chứng nào để chứng minh điều đó. Chistine Sullivan chắc hẳn là kiểu người thích khoe khoang sự giàu có của mình với ai đó mà cô ta giao du cùng, chỉ để cho họ thấy rằng cô ta đã thăng tiến nhanh như thế nào trên thế giới này.
“Vậy là bà không hề biết rằng đó là tấm gương một chiều, đứng từ bên trong có thể nhìn ra ngoài phòng ngủ đâu nhỉ?”
Lần này người phụ nữ không giấu nổi vẻ ngỡ ngàng. Frank nhận thấy một thoáng hồng ửng lên dưới lớp phấn mỏng trên mặt bà ta.
“Wanda, tôi có thể gọi bà là Wanda được chứ? Wanda này, chắc bà phải hiểu rằng chính kẻ đột nhập vào nhà đã vô hiệu hóa hệ thống báo trộm? Nó bị vô hiệu hóa vì hắn nhập đúng mã số cần nhập, chứ không phải bẻ khóa hay hack vào. Giờ thì ai là người thường đặt thiết bị báo động vào buổi tối?”
“Richard làm việc đó,” bà ta trả lời không do dự. “Hoặc là thỉnh thoảng đích thân ông Sullivan tự làm”.
“Và tất cả những người trong nhà đều biết mã số bí mật?”
“Ồ, không, tất nhiên là không rồi. Richard biết. Ông ấy làm cho ông Sullivan gần bốn mươi năm nay rồi. Theo như tôi biết thì ông ấy là người duy nhất ngoài vợ chồng ông bà Sullivan biết mã số.
“Đã bao giờ bà nhìn thấy ông ấy cài đặt thiết bị báo động chưa?”
“Thường thì lúc ông ấy đặt thiết bị báo động tôi đã lên giường đi ngủ rồi.”
Frank chăm chú nhìn bà ta. Tôi cá là thế mà, Wanda, tôi cá là thế mà.
Wanda Broome tròn mắt. “Ông đang, ông không nghi ngờ Richard có liên quan đến vụ án này đấy chứ?”
“Hừm, Wanda, bằng cách nào đó, có người, mà không ai nghĩ là có thể, đã vô hiệu hóa hệ thống báo động. Và lẽ tất nhiên mối nghi ngờ sẽ tập trung vào những người được tiếp cận với mã số đó.”
Trông Wanda Broome như sắp òa khóc đến nơi, nhưng rồi bà ta cũng kiềm chế được. “Richard gần bảy mươi tuổi rồi.”
“Thế thì có lẽ ông ta lại càng cần có chút vốn dưỡng già cho những ngày tháng cuối đời. Chắc bà hiểu rằng những gì tôi đang chia sẻ với bà lúc này cần phải được giữ bí mật một cách tuyệt đối chứ?”
Bà ta vừa gật đầu vừa lấy tay quệt mũi và thút thít. Cốc cà phê, vẫn yên vị trên bàn cho đến bây giờ, đã được bà ta cầm lên nhấp lấy vài ngụm
Frank nói tiếp. “Và từ giờ cho đến khi ai đó có thể giải thích cho tôi biết thủ phạm đã tắt hệ thống báo động như thế nào, tôi sẽ phải xem xét tất cả những khả năng mà tôi cho là cần thiết nhất.”
Anh vẫn không rời mắt khỏi bà ta. Cả ngày hôm qua anh đã kỳ công tìm hiểu tất cả những gì có thể về Wanda Broome. Cuộc đời bà ta là câu chuyện khá phẳng lặng chỉ trừ một khúc ngoặt duy nhất. Wanda Broome năm nay bốn mươi tư tuổi, hai lần ly hôn, có hai người con ở tuổi trưởng thành. Bà ta sống trong chái nhà dành cho những người giúp việc cùng những người khác trong nhà. Cách đó khoảng bốn dặm là nhà mẹ bà ta, năm nay đã tám mươi mốt tuổi, sống trong một ngôi nhà nhỏ, hơi cũ nát, nhờ vào tiền trợ cấp xã hội và khoản lương hưu của ông chồng trước làm trong ngành đường sắt. Như đã nói, Wanda Broome được gia đình Sullivan thuê vào làm khoảng một năm nay, đây chính là điều khiến Frank chú ý, bà ta là thành viên mới nhất trong đội ngũ giúp việc của gia đình. Nội bản thân điều đó cũng không có nhiều ý nghĩa, nhưng theo những gì anh biết thì Sullivan đối xử với những người giúp việc của mình rất tốt, và người ta vẫn tin vào lòng trung thành của những người giúp việc lâu năm và được trả lương hậu hĩnh. Nhìn bên ngoài thì Wanda Broome có vẻ cũng là người rất trung thành. Câu hỏi ở đây là trung thành với ai?
Khúc ngoặt trong cuộc đời của Wanda Broome là việc bà ta từng phải ngồi tù một thời gian, cách đây hơn hai mươi năm, vì tội biển thủ khi còn làm thủ thư cho một bác sĩ ở Pittsburgh. Hồ sơ của những người giúp việc còn lại đều sạch bong, không chút tì vết. Vậy là bà ta hoàn toàn có thể phạm pháp, và thực tế đã từng phải ngồi tù. Hồi đó tên bà ta là Wanda Jackson. Bà ta đã ly dị Jackson khi ra tù, hay nói đúng hơn là ông ta đã đá bà ta. Từ đó đến nay không thấy có thêm sự vụ bắt bớ nào. Với việc bà ta đổi họ, và vụ án kia cũng đã xảy ra từ quá lâu, nên gia đình Sullivan cho dù có kiểm tra lý lịch chăng nữa, chưa chắc họ đã phát hiện được gì, và có khi họ cũng không quan tâm. Tất cả các nguồn mà Frank biết đều khẳng định Wanda Broome đã là một công dân lương thiện, chăm chỉ suốt hai mươi năm qua. Frank tự hỏi cái gì đã mang lại sự thay đổi đó.
“Bà có nhở thêm được bất kỳ chi tiết nào mà theo bà là có thể giúp được tôi không, Wanda?” Frank cố làm ra vẻ ngây thơ nhất, anh hỏi một cách bâng quơ, rồi mở cuốn sổ ghi chép của mình, làm ra vẻ đang ghi lại một vài thông tin gì đó. Nếu bà ta chính là kẻ tay trong mà anh đang tìm kiếm, điều anh muốn tránh là Wanda sẽ đi đánh động đến Rogers và khiến hắn càng lặn sâu hơn. Mặt khác, nếu anh có thể làm cho Wanda dao động, biết đâu bà ta sẽ phun ra hết.
Anh hình dung ra cảnh bà ta đang quét dọn ở khu sảnh ra vào. Sẽ không có gì đơn giản hơn việc bôi hóa chất lên mảnh vải, rồi điềm nhiên lau nó lên mặt hộp điều khiển thiết bị báo động. Mọi việc sẽ rất tự nhiên, kể cả có ai đang theo dõi bà ta chăng nữa cũng không thể ngờ là bà ta đang làm gì đó ám muội. Chỉ là một người giúp việc mẫn cán đang thực hiện công việc của mình. Sau đó chỉ cần lẻn xuống nhà khi tất cả mọi người đang ngủ, rọi đèn loáng một cái và thế là hoàn thành nhiệm vụ.
Trên lý thuyết, hoàn toàn có thể quy kết bà ta vào tội tòng phạm giết người, vì án mạng vẫn thường là kết cục hay gặp trong các vụ đột nhập và ăn trộm. Nhưng Frank hoàn toàn không quan tâm đến việc tống Wanda Broome vào tù suốt phần lớn cuộc đời còn lại của bà ta, điều anh muốn lúc này là tóm cổ kẻ còn lại. Anh tin chắc rằng người đàn bà ngồi đối diện anh lúc này không dựng lên toàn bộ kế hoạch. Bà ta đã đảm nhiệm một vai trò, một vai trò nhỏ nhưng cực kỳ quan trọng. Frank muốn tóm kẻ chủ mưu. Anh sẽ làm đề nghị Văn phòng Chưởng lý bang dàn xếp với Wanda để đạt được mục đích đó.
“Wanda?” Frank tỳ hẳn người xuống bàn và tha thiết nắm lấy tay bà ta. “Bà có nghĩ ra thêm được gì không? Bất kỳ điều gì có thể giúp tôi tóm được kẻ đã sát hại người bạn của bà?”
Cuối cùng Frank cũng nhận được một cái lắc đầu nhẹ, anh ngả người ra sau ghế. Tất nhiên trong lượt đấu trí đầu tiên này anh cũng không kỳ vọng nhiều lắm, nhưng anh đã bày tỏ rõ quan điểm của mình. Bức tường đã bắt đầu lung lay. Bà ta sẽ không đánh động cho hắn, Frank dám chắc như vậy. Anh sẽ tìm cách chế ngự Wanda Broome, từng tí, từng tí một.
Và như sau này Frank sẽ phát hiện ra, thực sự thì anh đã đi quá xa.