Chương 3 PHÍA CUỐI CON ĐƯỜNG
Ánh nắng bên phía cửa sổ rọi vào trong xe, giống như những tia sáng nhỏ của đèn chùm chiếu vào những cuống vé màu xanh nhạt. Từ phía Nam Bắc Kinh về Nặc Thành, A Sách một tay đỡ sau gáy, một tay giơ tấm vé lên cao lật đi lật lại.
Số chuyến tàu, mũi tên, bốn số cuối thẻ căn cước. Nhắm mắt lại cậu vẫn có thể nhìn thấy rõ từng chi tiết của tấm vé tàu này. Đây là tấm vé tàu đầu tiên của cậu, nhân viên bán vé chỉ cần đục một lỗ trên tấm vé là cậu đã có thể đi một mạch từ Bắc vào Nam.
Tuyến đường sắt cao tốc từ Bắc kinh về Nặc Thành dù có đi nhanh đến mấy cũng phải mất khoảng mười tiếng mới kết thúc. A Sách nằm nghỉ ngơi tại khoang thương gia, tưởng tượng mình đang vượt qua bao núi đồi và đồng bằng. Cậu đang đi xuyên qua các ký hiệu kinh độ, vĩ độ dày đặc trên bản đồ. A Sách khoái chí không nhịn được cười.
Khoang kín hạng thương gia rất yên tĩnh, chỉ lác đác vài người ngồi. Tàu không hề có tiếng tu tu xình xịch như trong sách miêu tả, bên ngoài cũng không hề có những tiếng chào nhau huyên náo của những người xa lạ, cũng không có mùi khói thuốc, mùi mì gói. Nhưng chỉ cần được đi tàu là cậu đã mãn nguyện rồi.
Suốt bao nhiêu năm nay, cậu chỉ mong rằng có cơ hội đi tàu hỏa một lần. Cậu đã từng có cơ hội ấy khi còn nhỏ nhưng lại không thành.
Đó là vào cuối tuần năm cậu học lớp ba, ba mẹ đột nhiên quyết định đưa cậu đi Tỉnh Thành chơi một ngày. Đêm trước ngày xuất phát cậu ôm tấm bản đồ cũ kỹ xem mọi con đường nối liền giữa Nặc Thành và Tỉnh Thành. Đến nửa đêm cậu chạy đến giường ba mẹ lúc này đã ngủ say, ríu rít đòi đi tàu hỏa.
Mẹ A Sách là một người phụ nữ dịu dàng, đến những lời trách móc cũng hết sức nhẹ nhàng. Bà chẳng bao giờ nói những câu như “Còn không đi ngủ thì mai đừng đi chơi nữa.” Mẹ chỉ ôm cậu vào giường và nói: “Con đi chân trần như vậy, nhỡ cảm lạnh bị sốt thì mai không đi chơi được rồi.”
Sáng sớm cả gia đình đã bắt xe đường dài đến Tỉnh Thành và mua vé tàu hỏa cho chiều về. Chiều hôm ấy cả gia đình ra bến tàu hỏa vẫn còn sớm, nên đã tranh thủ ăn tối ở bến xe. Mẹ cậu đã trách ba cậu, nhà có quán canh cá viên mà lại chạy đến tận Tỉnh Thành chỉ để ăn món đó. Ba cậu nói rằng ông đang thử xem sao, xem có điều gì đáng để học tập không. Chỉ là cả nhà ăn uống no say quên mất cả thời gian soát vé, A Sách vẫn nhớ như in hình ảnh cậu đứng nhìn đoàn tàu vụt qua trước mắt, cậu vừa khóc vừa gào lên tại sao không được lên tàu, “đây không phải tàu hỏa sao?”
Sau khi về đến nhà A Sách liền sốt cao, từ đó trở đi cậu không còn được đi chơi nữa. Phạm vi hoạt động của cậu chưa từng vượt quá 3 km quanh khu rạp chiếu phim. Đó là nhà cậu, căn 102 đơn nguyên 4 tòa phía Nam, nhà Thoái Tồn căn 301 đơn nguyên 2, nhà thầy lang căn 302 đơn nguyên 2 tòa phía Bắc, con ngõ nhỏ cuối hàng phượng vĩ, tiệm cá viên của gia đình, còn có cả những ánh đèn neon nơi rạp chiếu phim. Đây chính là tất cả những địa điểm mà cậu đã vẽ trên bản đồ trong tiết học mỹ thuật.
Cậu không chỉ vẽ những con đường, những cột đèn, những cái cây, mà cậu còn viết cả những cái tên mà cậu vốn chẳng quen biết lên mỗi khung cửa sổ của hai tòa nhà Bắc Nam. Diana - ai cũng yêu thích, hai anh em sinh đôi - lúc nào cũng dính lấy nhau, A Cách - thằng bé lạ lùng con chú chiếu phim tại rạp, Tiểu Cung và Hạ Quả ở chung một căn phòng nhỏ, v.v... Còn có cả những chậu hoa cũ kỹ đặt trên ban công của gia đình nào đó, bình pha lê cắm hoa phai màu, chiếc đèn đã bị Thoái Tồn phá hỏng ở tòa phía Nam. Tất cả đều được cậu vẽ vào bức tranh. Sau khi vẽ xong, cậu liền xé trang bài tập ấy trong sách ra, còn bị giáo viên dạy mỹ thuật phạt đứng trước lớp.
A Sách có một chiếc hộp giấy cũ kỹ dưới chân giường, bên trong có các loại kích cỡ giấy to nhỏ khác nhau, trên mỗi trang cậu đều vẽ một tấm bản đồ, có bức dùng bút chì, có bức dùng bút bi, có bức lại dùng loại bút máy Anh Hùng nổi tiếng khi đó, cậu còn dùng cả chiếc bút lông mà ông thầy lang cho.
Những đường nét ngoằn ngoèo và ký hiệu ấy là rạp chiếu phim, là trường học, là khu Ngư Than tận cuối phía Đông, có cả núi Tê Triều cuối phía Tây và vô vàn những đảo nhỏ phía xa xăm như quê hương xa xôi của Hạ Quả, hay đảo Xương Rồng may mắn lắm một tháng mới có thể cập bến một lần.
Dĩ nhiên, cũng có một bản vẽ bản đồ Nặc Thành hoàn chỉnh, các dãy núi, các thềm lục địa, rừng cây,... Tất cả được tô bằng các loại màu chì khác nhau, cậu dùng bút mực đen đánh dấu các dòng hải lưu và hướng gió. Ngoài ra còn có vô vàn những bản đồ cậu xem trên tivi hoặc trong sách truyện. Trong đó có một bức cậu rất ưng ý đó là “Kính Hoa Lục truyền kỳ”. Cậu cẩn thận vẽ ba chàng trai mạo hiểm vượt qua rất nhiều hòn đảo kỳ lạ, trên mỗi hòn đảo lại xuất hiện những loài quái vật khác nhau.
Chiếc thùng giấy của cậu chứa đựng cả thế giới nhưng cậu lại chưa từng được đặt chân đến những địa điểm đó.
Đối với những người bạn nhỏ khác, có lẽ Nặc Thành là nước suối mùa xuân trên đỉnh Tê Triều, là những cuộc phiêu lưu đến đảo Xương Rồng để đem về những quả Xương Rồng tiên, là khu phố cổ bên bãi Ngư Than có thể ăn cá viên chiên, là những chuyến du lịch đến những tỉnh thành xa xôi vào kỳ nghỉ hè. Nhưng với A Sách, Nặc Thành là khu rạp chiếu phim mà cậu chưa từng rời xa, là những ngày làm cá viên không xuể, là những bát thuốc bắc uống mãi không hết.
Khi A Sách so sánh chiều cao của núi Tê Triều, cậu nghĩ nếu như đem số thuốc bắc của mẹ chất thành đống, có lẽ cũng cao bằng một nửa.
Cầm tấm vé trên tay, A Sách rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê, cậu mơ hồ nhớ đến có người nói, con người trước khi chết sẽ giống như xem một bộ phim, trong đầu hồi tưởng lại tất cả những khoảnh khắc của một đời người, đến những hành động nhỏ như buộc dây giày hay uống nước cũng sẽ không bỏ qua.
A Sách không tin, cậu đoán khoảnh khắc trước khi chết cũng giống như khoảnh khắc trước lúc đi ngủ vậy. Ví dụ khoảnh khắc này trước khi chìm vào giấc ngủ, cậu sẽ nhớ về quãng thời gian đã xảy ra trước đó của cuộc đời mình, đúng vậy, đó là tất cả cuộc đời của cậu. Nhưng đột nhiên cậu chẳng thể thấy gì hết, mà chỉ có ba khuôn mặt hiện lên là thầy lang, Hạ Quả và Thù Du.
“Đó là một cơn ác mộng.” A Sách nói với Hạ Quả về ông thầy lang.
Vào ngày thứ bảy sau khi cậu được sinh ra, mặt cậu đột nhiên nhăn nhúm lại, cơ bắp co rút, cả người tím tái, hai hàm răng cắn chặt vào nhau, hai bàn tay bé xíu nắm lại. Ba A Sách phát hoảng, loạng choạng chạy đến tòa phía Bắc tìm ông thầy lang chuyên cắt thuốc bắc. Thầy lang nói cậu bị nhiễm gió bảy ngày.
“Nó sẽ chết sao?” Mẹ cậu cất giọng run rẩy yếu ớt, dường như dũng khí để hỏi câu hỏi đó cũng là phải mượn từ người khác.
Thầy lang không nói gì, lẳng lặng về nhà sắc thuốc. Sau ba tuần được bón thuốc bắc, các cơn co giật của cậu mới chấm dứt hẳn. Ba tuần sau thầy lang bắt mạch cho cậu, nói có thể đổi đơn thuốc rồi.
Sau khi lớn lên, cậu mới biết những thứ có trong thuốc bắc toàn là đuôi bọ cạp, rết, chu sa. Khi đã làm đàn em của Thoái Tồn, mỗi khi cùng hắn đi ăn hiếp ai, hắn đều vỗ lên đôi vai gầy gò của cậu khiêu khích, “Thằng em tao từ nhỏ đã lớn lên bằng rết và các chất kịch độc, chúng mày có muốn thử chút không?”
Ba tháng đầu khi mới sinh, A Sách uống nhiều thuốc bắc hơn là sữa mẹ. Mẹ cậu buồn bã hỏi thầy lang, “Liệu có chữa trị được tận gốc không?”
Thầy lang lắc đầu, “Đứa trẻ này, mệnh nó như lá trên cây, gió thổi lá bay, chỉ là không biết khi nào gió sẽ thổi.”
Vậy là kể từ ngày thứ bảy sau sinh cậu bắt đầu uống thuốc bắc, từ đó đến nay chưa từng ngừng uống một ngày nào.
Mẹ A Sách lúc nào cũng lo cậu bị cảm lạnh, cảm nắng, sợ cậu mệt, lúc nào cũng ôm nỗi sợ rằng một ngày nào đó cậu sẽ bị làn gió đó thổi đi như lời thầy lang nói. Vậy nên lúc nào mẹ cũng giữ khư khư cậu bên mình, cả tuổi thơ của cậu mắc phải đủ các loại bệnh truyền nhiễm, còn cảm lạnh sốt vặt thì khỏi phải nhắc đến, nhẹ cũng phải ốm sốt cả tháng trời, đi học thường trong trạng thái mê man. Nếu như cộng dồn những ngày cậu không ốm trong năm lại, có khi chưa được một tháng trọn vẹn.
Mẹ A Sách thường khóc một mình ở sau tiệm cá viên khi làm cá vào sáng sớm. Ba cậu thấy vậy liền mắng: “Bà khóc gì chứ, nước mắt rơi hết vào thịt cá rồi, người ta nhìn thấy lại bảo không vệ sinh.” Mẹ cậu nói: “Dù sao cũng là cá biển, ngâm mình trong nước mặn, nước mắt cũng mặn, cũng giống nước biển thôi.”
Là người dân Nặc Thành nhưng cũng phải đến tận năm chín tuổi cậu mới được nếm vị nước biển thực sự. A Sách cảm thấy cậu như ếch ngồi đáy giếng, như công chúa bị nhốt trong tòa tháp của những câu chuyện cổ tích vậy.
Sinh nhật chín tuổi, A Sách ngồi sau chiếc xe đạp của ông thầy lang đi một quãng đường khá dài. Trên đường đi cậu nhìn thấy cảng Ngư Than, mặt biển lấp lánh với bãi cát vàng trải dài vô tận làm cậu thích mê. Cậu hét lên, “Biển kìa! Biển kìa!” nhưng ông thầy lang chẳng hề giảm tốc độ, đến một khúc rẽ, vậy là biển biến mất.
Những chuyện xảy ra sau đó có lẽ cả đời này cậu cũng không thể nào quên được.
Thầy lang dừng xe bên núi Tê Triều, dẫn cậu qua không biết bao lối mòn rừng tre trúc. Vào sâu trong núi ông dừng lại, lấy ra từ túi bên hông một con dao rựa mỏng dài đưa cho cậu, nói chặt đi.
A Sách bối rối không hiểu chuyện gì đưa mắt nhìn ông, ông nói: “Chặt tre, chặt thật mạnh vào.”
Cuối cùng A Sách vốn sức trói gà còn không chặt đã tự mình vung cánh tay cầm con dao còn mảnh hơn cả thân tre non chặt liên hồi. Thầy lang ngồi xuống tảng đá bên cạnh, nhìn A Sách một lúc rồi lại ngẩng đầu nhìn lên bầu trời. Cuối cùng khi trăng lên, ông nói được rồi, về nhà thôi.
Đó là một con đường rừng tối tăm, ánh trăng xuyên qua cành lá rậm rạp chiếu lên nền đất ẩm ướt với những đốm sáng chồng lên nhau. A Sách chưa bao giờ cảm thấy ánh trăng sáng như vậy, cũng chưa bao giờ phát hiện ra rằng màn đêm không tối như cậu nghĩ.
“Con cứ đi thẳng, men theo con đường này đi thẳng về phía trước. Khi đi con không được khóc, chỉ cần con không khóc thì từ giờ trở đi con sẽ không còn ốm nữa. A Sách cũng không thể ốm suốt đời này đúng không.”
Phía cuối con đường là gì? Cậu bé chín tuổi thẫn thờ nhìn con đường rậm rạp phía trước bao kín bởi cây rừng, phía trên là bầu trời đêm cao chót vót một màu xanh thẫm. A Sách mệt mỏi siết chặt hai tay, hít một hơi sâu, bước vào con đường mòn ấy.
A Sách mới bước những bước đầu tiên, đôi giày đã lấm lem hết cả, bỗng trong lòng dâng lên một nỗi buồn trước nay cậu chưa từng có. Mỗi bước đi lại làm nỗi buồn ấy thêm da diết. Cuối cùng, trên con đường cô đơn ấy, tiếng khóc nức nở của A Sách đã truyền đến tai thầy lang.
Con đường ấy dường như chẳng có điểm cuối, A Sách vừa đi vừa khóc, khóc đến khi cơ thể không còn chút sức lực nữa mà gục xuống, cậu ngồi trên nền đất ẩm ướt với những đốm sáng lọt qua những tầng lá tre dày đặc. Thầy lang nhẹ nhàng đi đến, cõng cậu quay đầu lại. A Sách quá mệt nên đã ngủ gục trên lưng thầy lang.
Khi thầy lang đưa A Sách về đã thấy ba mẹ cậu đang nóng lòng chờ cậu ở nhà, ông lắc đầu, mẹ cậu bật khóc.
Đêm hôm ấy, không biết ba mẹ cậu đã đưa ra quyết định gì nhưng kể từ đó trong cuộc sống của A Sách không còn xuất hiện hai chữ “yêu cầu” nữa. Ba mẹ cậu không yêu cầu cậu làm bài tập, giáo viên cũng không để ý cậu nộp bài tập hay không; đến những học sinh ưu tú như Diana và Thù Du đi học muộn thầy giáo cũng sẽ phạt theo đúng quy định, nhưng cậu đi học muộn thì vẫn được vào lớp; thỉnh thoảng xảy ra mâu thuẫn với bạn bè, cho dù cậu sai thầy giáo cũng chỉ phạt đối phương. Dần dần những đứa trẻ thường gọi cậu là “thằng bệnh tật” hay “đồ cứng đầu” cũng không dám động đến cậu nữa.
Thoái Tồn đã nhanh chóng phát hiện điểm đặc biệt này của cậu. Trong thế giới mà cậu giành giật mãi mới được đứng đầu thì A Sách mới thực sự là vua, ai cũng nhường cậu, ai cũng sợ cậu, thầy cô cũng không động đến cậu.
Đó là một ngày sau khi tan học trời đột nhiên đổ mưa. Mọi người đều vội vã đội mưa chạy về nhà, chỉ có A Sách ngoan ngoãn ngồi chờ mẹ mang ô đến.
Thoái Tồn sau khi trốn học cả buổi chiều chạy về ướt như chuột lột, thuận tay vơ lấy chiếc khăn trải bàn caro màu xanh của Diana lau khắp người, rồi vứt ngay tại lối ra vào.
Thoái Tồn lúc nào cũng bắt nạt Diana như vậy, cho dù ở rạp chiếu phim hay bất cứ đâu tại Nặc Thành. Mọi người đều nói, nếu một ngày nào đó Diana gặp rắc rối, không cần hỏi cũng biết là do Thoái Tồn gây ra.
A Sách không có ý định làm anh hùng, cậu đã quen với việc mọi người xem mình như không khí. Nhưng khi đó Thoái Tồn đột nhiên hướng về phía cậu, vứt cho cậu một chai cô-ca nói, “Uống đi, làm đàn em của tôi cậu thấy sao? Tôi có bao nhiêu tiền cậu đều có thể tiêu, sau này khu rạp chiếu phim không ai dám bắt nạt cậu. Tôi chỉ có một yêu cầu duy nhất đó là giúp tôi gánh vác một vài chuyện, dù sao thầy cô cũng không làm gì cậu.”
Cậu nghĩ nếu từ chối chắc sẽ bị chai cô-ca thủy tinh này đập vỡ đầu cũng nên. Nhưng quan trọng là hắn vừa đưa ra “yêu cầu” đối với cậu.
Cứ như vậy cậu trở thành đàn em của Thoái Tồn. Dần dần, đây là thân phận duy nhất của cậu trong mắt người khác. Vai trò chính của cậu chỉ là khi Thoái Tồn làm việc xấu cậu liền đứng ra làm “bia đỡ đạn”. Sau này, A Sách cảm thấy thật ra Thoái tồn cũng không thực sự cần sự giúp đỡ từ cậu, cậu chỉ là một “người anh em”.
Không biết có phải do cậu là đàn em của Thoái Tồn hay không, mà những đứa trẻ trong rạp dù bình thường có tiếp xúc với cậu hay không đều tránh né cậu. Nhiều khi cậu cảm thấy mình như một hòn đảo nhỏ bé cô đơn trên bản đồ, hòn đảo ấy cách lục địa rộng lớn 1cm hay 3cm đều như nhau cả, hòn đảo cô đơn thì sẽ vẫn là hòn đảo cô đơn. Vì vậy dù có không tiếp xúc hay tránh né cũng vậy thôi, cũng chẳng ảnh hưởng gì đến cậu. Học hành không tốt, lại lầm lì ít nói, có lẽ cậu sớm đã bị xếp vào danh sách những đứa trẻ hư cấp quốc gia, chẳng kém cạnh so với Thoái Tồn.
Nhưng mỗi khi nhìn thấy những người dù lạ dù quen đến quán ăn nhỏ bên đường của gia đình, ngồi vào chiếc bàn nhỏ sạch sẽ, ăn một bát cá viên mà cậu cũng có công làm ra, A Sách lại cảm thấy là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi con người.
Sau khi tan học, nếu như không cần cùng Thoái Tồn đi đâu đó, A Sách sẽ đến thẳng tiệm cá viên, giúp ba mẹ làm sạch cá hoặc hầm nước canh trứng cá, mệt thì cậu lại ngồi vào một góc tiệm làm bài tập về nhà. A Sách biết, căn tiệm nhỏ vài mét vuông này không chỉ là gia tài cả đời của ba mẹ cậu, mà còn cả của cậu nữa.
Hạ Quả thường đến tiệm ăn cá viên, cô thường đến sau 11 giờ đêm. A Sách nghĩ có lẽ cô là đứa trẻ đầu tiên ở Nặc Thành có cuộc sống về đêm.
Một người kiệm lời như Hạ Quả cũng có lần nói chuyện với cậu, “Tiệm nhà cậu là nơi bán cá viên tươi ngon nhất mà tớ ăn kể từ khi tới Nặc Thành.”
Khi đó cậu học lớp 7, sau khi nghe Hạ Quả nói xong, cậu ngại ngùng tay chân lúng túng thu hết chỗ bài tập đang làm dở lại, vô tình làm rơi một tờ giấy kẹp trong vở ra.
Hạ Quả liền cúi xuống nhặt lên, phát hiện ra đó là bức vẽ bản đồ dày đặc các địa điểm, cô thích thú mắt sáng lên nhìn cậu.
“Là cậu vẽ sao?”
“Ừ.”
“Giỏi quá, đáng lẽ ra cậu phải là học sinh tiêu biểu của lớp địa lý mới đúng.”
Nghe lời khen của Hạ Quả, A Sách liền cảm thấy hồn bay phách lạc.
“Đây là đâu vậy?”
“Núi Tê Triều.”
“Không phải những người vẽ bản đồ trước đây đều dùng bước chân để đo độ dài, diện tích, hoặc những công cụ gì đó để đo đạc sao? Núi Tê Triều chắc hẳn rất quen thuộc với cậu?”
Hạ Quả chẳng chút ngại ngùng tò mò hỏi, A Sách lúng túng, “Cũng có đi qua... thật ra chưa đến đó bao giờ.”
Hạ Quả đưa cặp mắt mảnh dài nhìn cậu, cô đặt bản đồ lên bàn rồi chăm chú nhìn, “Những chỗ có màu xanh càng đậm thì núi càng cao đúng không? Nhưng cậu chưa hề đến đó, làm sao cậu biết? Còn nữa ở đâu có sông, ở đâu có đường mòn, ở đâu có rừng già, làm sao cậu biết được những điều này?”
“Thì... có sách, có dữ liệu, có những phương pháp tính toán chính xác, nhiều lắm, tóm lại là có thể biết được mà.” Cậu cố gắng giải thích.
“Nhưng cậu chưa hề đặt chân đến đó, cậu có biết những nét cậu vẽ nhìn như thế nào không?” Hạ Quả nhất quyết hỏi đáp án cho bằng được. Cô thậm chí còn chẳng thèm ngẩng đầu lên, dùng những ngón tay thon dài của mình chậm rãi di chuyển trên bản đồ. Đột nhiên tay cô dừng lại trên một khoảng không màu trắng, đó là một khu vực nhỏ phía sau núi Tê Triều. Cô dùng bút chì khoanh vài nét vẽ mờ nhạt trên bản đồ, Hạ Quả hỏi:
“Đây là đâu?”
“Không biết.”
“Không biết?”
Vậy là cậu đã kể cho Hạ Quả về sự việc đã xảy ra năm cậu chín tuổi, “Mình chỉ dựa vào trí nhớ để phán đoán phương hướng, nhưng ở vị trí đó mình không tìm ra dữ liệu gì. Có thể đó chỉ là một địa điểm bình thường thôi, mọi người đều biết thầy lang là một người khá là... khá là...”
“Cổ quái”, Hạ Quả tìm giúp cậu một tính từ miêu tả chính xác.
“Đúng vậy.”
“Đi tìm xem nơi đó là gì đi, có vẻ rất thú vị.”
“Cậu muốn đi?”
“Cậu nghĩ gì mà mình tự đi chứ, đương nhiên là mình đi cùng với cậu.” Hạ Quả đưa mắt nhìn cậu rồi gấp tấm bản đồ theo nếp cũ, thuận tay đút vào túi quần, “Chiều thứ bảy tuần này nhé!”
Chiều thứ bảy là thời gian nhà trường sắp xếp cho học sinh tự học, học sinh tự nguyện tham gia. Tất cả ngồi trong phòng học lớn nhất, có các thầy cô thay phiên túc trực. Tuần nào A Sách cũng đến, như vậy cậu mới có thể đối phó được với những bài tập khó. Mặc dù chẳng ai yêu cầu cậu nộp bài tập, và những nỗ lực của cậu cũng chẳng có ý nghĩa gì, nhưng cậu cho rằng nếu như đến cả bài tập cũng không nộp thì nên nghỉ học luôn cho rồi.
Trên đường đến trường, A Sách vẫn quyết định sẽ không đi cùng Hạ Quả, nhưng từ xa cậu đã thấy cô hai tay khoanh trước ngực, vẻ mặt lạnh lùng dựa lưng vào biển báo dừng đứng đợi, liền tự nhiên bước đến, cùng cô lên tuyến xe buýt hướng về phía núi Tê Triều.
Đây là lần đầu tiên cậu đi xa nhà mà không xin phép. Đến trung tâm thị trấn nhỏ tại Nặc Thành cậu còn chưa đi hết, huống hồ là những dãy núi cao phía Tây, đối với cậu nơi xa xôi này như chỉ tồn tại trong thần thoại vậy.
Nhưng tâm trạng cậu lại bình lặng một cách đáng ngạc nhiên, bình lặng như mặt biển buổi trưa nhìn từ phía xa xăm. Cậu nói với Hạ Quả đang ngồi bên cạnh, “Mình chưa thực sự được đi biển bao giờ, thật đáng xấu hổ nhỉ?”
“Vậy thì đi thôi.” Hạ Quả ngay lập tức đứng dậy, vừa lôi cậu ra khỏi chỗ ngồi vừa hô lớn: “Bác tài dừng xe, dừng xe, chúng cháu xuống đây?”
Khi đó hệ thống xe buýt tại Nặc Thành còn hỗn loạn, chỉ cần vẫy tay là dừng, cũng chẳng ai thấy không ổn với điều đó.
Bác tài thắng vội, Hạ Quả kéo A Sách nhảy xuống xe, không biết rằng với cậu như vậy là đột ngột quá, A Sách ho dữ dội đỏ bừng cả mặt. Hạ Quả lắc đầu rồi lấy từ trong ba lô ra chai nước khoáng đưa cho cậu.
Con đường mới lát tỏa ra mùi nhựa đường tươi mới dưới ánh nắng mặt trời. Đi qua khu dân cư, khu chợ cổ, qua khu chợ cá tanh nồng, qua mấy đoạn đường sắt hỗn loạn không có rào chắn. A Sách cố gắng theo sát bước chân đi như bay của Hạ Quả, cuối cùng cũng đến cảng Ngư Than.
Những con thuyền tấp nập đến và đi tại cảng Ngư Than, di tích cổ miếu Nặc nương nương, những điểm đánh dấu trên bản đồ dần dần hiện ra trước mắt, A Sách cảm thấy vừa quen thuộc vừa lạ lùng. Cậu ngồi xuống bờ biển, gió thổi khiến những đợt sóng táp vào bờ, nhẹ vờn lên đôi giày trắng, cậu đưa tay chạm nhẹ vào nước, vốc lấy một chút nước biển lên miệng, dùng lưỡi nếm thử, mặn.
Hai người lại tiếp tục rong ruổi trên chiếc xe buýt đến núi Tê Triều, A Sách chủ động kể cho Hạ Quả lai lịch của núi Tê Triều.
“Hai nghìn năm trước xảy ra một trận đại hồng thủy, nước biển tràn bờ, ngập lụt khắp nơi. Người dân ven bán đảo lui dần về phía trong đất liền, nhưng càng lùi nước biển càng lấn tới, tốc độ di cư của người dân không thể lại được với tốc độ xâm lấn của biển cả, họ chỉ còn cách ngày đêm cầu nguyện cho nước biển rút xuống. Lúc này Nặc nương nương báo mộng cho Tộc trưởng, nói rằng cần một anh hùng dâng hiến cho biển cả thì cơn thịnh nộ của đại dương mới dịu lại, đất đai cũng sẽ màu mỡ hơn. Tộc trưởng mau chóng triệu tập dân làng lại để đưa ra quyết định ai sẽ là người phải dâng hiến cho biển cả giận dữ. Cuối cùng tất cả mọi người quyết định người đó chính là chàng trai thợ mộc trong làng, bởi chàng là đứa con được sinh ra do mẹ chàng thông dâm với người khác. Chàng trai trẻ bẻ một cành liễu non trước cửa, nắm chắc trong tay rồi được đưa ra biển. Cũng có người nói chàng trai ấy tự nguyện hy sinh. Tóm lại, sau khi nhận được vật hiến tế, trong vùng bị ngập nhô lên một hòn đá khổng hồ, nước biển cũng dần hạ xuống. Hòn đá ấy nhô cao bao nhiêu thì nước biển hạ xuống bấy nhiêu. Bốn mươi chín ngày sau, biển cả đã hoàn toàn yên ả, hòn đá đã biến thành ngọn núi cao chót vót. Có chỗ nước biển chưa kịp rút xuống đã tụ lại thành một hồ nước mặn trên núi. Vì vậy, mới có tên là núi Tê Triều.”
“Truyền thuyết đúng là tàn nhẫn.” Hạ Quả nhún vai nói.
Ánh nắng xuyên qua cửa kính xe bám đầy bụi, tạo thành một vệt sáng tối màu trên khuôn mặt cô, khiến cho Hạ Quả xinh đẹp một cách lạ thường, vẻ đẹp ấy rất đặc biệt, không giống như vẻ đẹp của Diana. Cậu thấy thật may là Thoái Tồn không nhận ra vẻ đẹp ấy.
Hạ Quả đem theo bản đồ của A Sách, sau khi xuống xe hai người cùng tìm địa điểm trống trơn với nét bút mờ ảo không rõ ràng trên bản đồ. Đứng trong rừng trúc mồ hôi nhễ nhại, ngước lên nhìn trời là thấy choáng váng đầu óc.
“Là rừng trúc này sao?”
“Có lẽ vậy.”
“Đi theo hướng nào bây giờ?”
“Hình như là đi về hướng có ánh trăng.”
“Vậy là phía Tây?”
Hạ Quả đi trước, A Sách theo sau, len lỏi trong rừng trúc rậm rạp, xuyên qua những cơn gió rừng thỉnh thoảng thổi qua, đi rất xa về phía Tây nhưng vẫn chẳng thấy gì giống như con đường nhỏ khi đó. Đôi chân của Hạ Quả bị cây cối rậm rạp làm trầy xước không ít, còn bị cả muỗi rừng cắn không đếm xuể.
Thấy mặt trời sắp xuống núi, Hạ Quả mới có ý định từ bỏ. Cô ngồi trên mỏm đá uống sạch chỗ nước trong chai.
“Đến nước cũng không đem theo, đúng là chàng trai chưa từng được đi đâu.” Hạ Quả nhét chai nước rỗng vào ba lô, “Dù là lên rừng hay xuống biển, chỉ cần có nước là có hy vọng sống sót, cậu có biết nước quan trọng thế nào không?”
“Gió trong rừng trúc là ngọn gió dễ chịu nhất đúng không?”
“Rốt cuộc cậu bị bệnh gì mà sao tất cả người lớn đều xem như cậu có thể chết bất cứ lúc nào vậy? Con người cậu sao yếu ớt như thế chứ, khi rời đảo tớ cũng có không ít lần bị sóng cuốn trôi, cho rằng mình sẽ chết nhưng cuối cùng cũng không chết được.”
A Sách vừa xấu hổ vừa kinh ngạc nghe Hạ Quả nói, tự hỏi bình thường làm thế nào Hạ Quả có thể kìm nén nhiều chuyện như vậy.
Hạ Quả hỏi gì, cậu trả lời đó, về chuyện cơ thể yếu ớt của cậu, về chuyện thu nhỏ núi và biển trên bản đồ. Mãi đến khi mặt trăng bắt đầu lên, họ mới thấy thấp thoáng không xa một con đường mòn nhỏ.
“Là nó kia sao!” Hạ Quả nhảy từ trên phiến đá xuống, “Sao lúc nãy chúng mình không nhìn thấy nhỉ?”
A Sách sững người nhìn con đường nhỏ xẻ đôi rừng trúc, ký ức nặng nề năm chín tuổi mạnh mẽ ùa về. Cậu bất giác bước về phía con đường, Hạ Quả đuổi theo sau nói gì đó nhưng dường như cậu chẳng để lọt tai câu nào. Một bước, hai bước, giẫm chân lên những đốm sáng len lỏi qua kẽ lá, một bước rồi lại hai bước. Trong sự tĩnh lặng tuyệt đối cậu cố gắng cảm nhận lại tâm trạng buồn bã bất thường đêm hôm ấy. Cảm giác buồn bã cô đơn cùng cực nhói lên trong lồng ngực có lẽ hôm nay cậu sẽ tìm được lý do.
Nhưng lần này cậu không hề cảm thấy khó chịu, cũng không khóc lóc, chỉ có sự mệt mỏi ban chiều, sự bình tĩnh khi bị bao phủ trong màn đêm, và con đường được ánh trăng soi sáng giống y như vậy. Khoảnh khắc biết rằng mình sẽ không khóc, bỗng nhiên quay đầu lại đã không còn thấy Hạ Quả nữa.
“Hạ Quả?” A Sách có chút hoảng hốt, cậu liên tục gọi tên Hạ Quả, mơ hồ cũng nghe thấy tiếng cổ gọi tên mình. Sau khi bình tĩnh lắng nghe, cậu phát hiện tiếng gọi vọng lại từ phía trước.
Chẳng lẽ Hạ Quả đã chạy đến phía cuối con đường? A Sách mơ hồ bước nhanh về phía trước, làn gió đêm muộn thổi lá trúc xào xạc, bóng cây đung đưa, đốm sáng bị cắt bởi những chiếc lá trúc nhỏ cứ lùi dần về phía sau. Đến khi cậu không còn thấy chúng lùi lại nữa, một hang động to lớn hiện ra trước mắt.
Hóa ra, đây là phía cuối con đường.
Không chút do dự cậu lao vào hang động ẩm ướt, dù gì cũng không còn con đường nào khác, Hạ Quả chắc chắn hiếu kỳ nên đã chạy vào đây.
Tiếng nước chảy róc rách theo vách đá tạo nên những tiết tấu vô cùng tuyệt vời. “Hạ Quả cậu ở đâu?”, A Sách vừa hét lên vừa cẩn thận mò mẫm bước đi trên mặt động ẩm ướt. Cứ bước cứ bước, một tia sáng mỏng manh từ đỉnh động lọt xuống, chiếu sáng một cây lựu khổng lồ trước mặt. Cậu kinh ngạc đến nỗi há hốc miệng không nói được lời nào, suýt chút nữa không thể thở nổi.
Một thành phố mang tên gọi có ý nghĩa là cây lựu nhưng lại chẳng có cây lựu nào, câu chuyện cười này từ người già đến trẻ nhỏ tại Nặc Thành đều biết. Vậy mà trước mắt cậu khi đó là một cây lựu khổng lồ, rễ bám sâu xuống lòng động, cành to chắc chắn, trái lựu sai trĩu cành. Mỗi chiếc lá to sẫm màu lại đọng một giọt nước trong và sáng như viên trân châu lung linh huyền ảo dưới ánh trăng. A Sách cảm thấy đó là loài cây đẹp nhất mà cậu từng thấy.
A Sách muốn chạm vào những quả lựu đẹp đẽ của cây lựu cổ thụ này, nhưng vừa đưa tay ra, cả cơ thể cậu như chẳng còn sức lực mà ngã xuống.
Khoảnh khắc cả trời đất tối sầm lại dường như chỉ trong chốc lát, khi dần mở mắt cậu chỉ cảm thấy bàn tay của Hạ Quả vỗ vào hai bên má gọi tên cậu.
Cậu chống tay ngồi dậy, ngơ ngác nhìn xung quanh, phát hiện mình đang nằm trên con đường nhỏ khi nãy. Cậu mơ hồ hỏi Hạ Quả: “Sao cậu đưa được mình từ trong động ra vậy?”
“Động nào cơ?”
“Mình đi tìm cậu, cuối con đường này là một hang động rất lớn, mình đi vào, có một cây lựu cổ khổng lồ, rồi mắt mình tối sầm lại...”
Mỗi khi định giải thích rõ ràng chuyện này, A Sách đều cảm thấy không thể nào nói thành lời.
Hạ Quả chán nản ngồi sang một bên chống tay nhìn cậu: “Chắc chắn trong lúc hôn mê cậu đã nằm mơ rồi. Lúc nào mình cũng đi sau cậu, khi đi đến đây bỗng cậu ngã xuống, làm mình sợ chết khiếp. Cậu chết rồi mình chắc chắn không thể tránh được tội danh mưu sát.”
Là mơ sao, A Sách lắc đầu đứng dậy, nhất quyết đi về phía trước xem xem rốt cuộc có hang động kia không.
Kết quả cả con đường này chưa đến ba trăm mét, phía cuối đường là một thôn trang nhỏ, hai người đi qua những ngôi nhà gỗ thấp và tiếng chó sủa phía xa xa là đến đại lộ có rất nhiều xe qua lại. Vừa hay có một chiếc xe buýt về rạp chiếu phim đi đến, hai người liền lên xe trở về.
Giây phút xe rời đi, A Sách đã ngoái lại nhìn về phía núi Tê Triều. Ở đó thực sự không có hang động với cây lựu cổ bên trong sao? Thực sự đều là ảo ảnh sao?
Tiệm cá viên nhà A Sách thường đóng cửa khá muộn vào lúc 11 giờ đêm. Cuộc sống của các vùng ven biển thường tám chín giờ sáng mới bắt đầu, và tiếp diễn cho đến khi đèn nhà người dân tắt hết, sự nhộn nhịp không còn nữa thì các cửa hàng mới bắt đầu thu dọn. Vì vậy, sau khi A Sách và Hạ Quả ai về nhà nấy, tắm rửa sạch sẽ ba mẹ mới về, nên không hề bị phát hiện.
Nhưng không hề ngạc nhiên khi ngày hôm sau A Sách liền sốt cao, viêm phổi, bệnh nặng gần một tháng trời mới thuyên giảm. Thời gian đó Thoái Tồn đến thăm cậu hai lần, cho cậu máy chơi điện tử để giết thời gian. Thoái Tồn không chịu được mùi thuốc bắc ngột ngạt trong nhà cậu nên mỗi lần hắn ở lại chưa đầy hai phút đã chạy mất.
Khi cậu quay lại lớp học, dường như chẳng có ai nhớ rằng cậu đã nghỉ bao lâu, chỉ là một con số vắng mặt trên góc bảng đen. Thầy cô cũng chẳng bao giờ gọi đến tên cậu, cũng chẳng có ai nhắc đến cậu như một sự tồn tại với người khác.
Khi cậu trở lại quán giúp đỡ ba mẹ, Hạ Quả vẫn đến ăn muộn như thường lệ. Cô nói sau này không dám dẫn cậu đi như vậy nữa, cậu làm cô phát hoảng.
A Sách rất muốn nói, có thể cứ tiếp tục như vậy mà, nhưng kết quả cậu chỉ cười rồi đưa cho Hạ Quả một lon bia Thanh Tảo.
Ngoài A Sách, chẳng một ai biết cứ khoảng mười một rưỡi đêm là Hạ Quả lại lê đôi chân dài thẳng tắp của mình vào quán cá viên chuẩn bị đóng cửa, ăn một bát cá nóng hổi, uống một lon bia Thanh Tảo như người lớn. Đôi khi cô đòi A Sách cho cô xem một bức vẽ bản đồ mới, chỉ là cô không còn có hứng thú nhắc đến bất kỳ chuyến phiêu lưu nào với cậu nữa.
A Sách luôn kể những câu chuyện của các vùng đất xa xôi trên thế giới cho cô nghe. Cậu cũng hay cầm kính viễn vọng nhìn về phía sân rạp chiếu phim, nhìn về phía Hạ Quả đang ngồi hát bên cạnh dòng chữ lớn “Rạp chiếu phim Nặc Thành”. Cậu còn âm thầm xé tấm ảnh tập thể của lớp trên bảng tin, cắt ảnh cô ra nhét vào ví.
Mười năm sau, tiệm cá viên vẫn y như vậy. A Sách bán hàng cho những em học sinh cấp hai cấp ba không khỏi nhớ về thời thanh xuân của mình, những điều đó chính là thanh xuân của cậu.
Tàu hỏa dừng giữa chặng, có người xuống, có người lên, có người đến nơi, có người rời đi. A Sách lấy từ trong ví ra bức ảnh cũ kỹ đã phai màu, khuôn mặt lạnh lùng trên bức ảnh và khuôn mặt rạng rỡ ánh hào quang xuất hiện trên sân khấu tối qua hiện lên trong đầu cậu. Mặc dù địa điểm hát đã thay đổi, người nghe cũng khác, nhưng Hạ Quả không hề đổi khác, có lẽ chẳng có ai thay đổi.
Đã nhiều năm trôi qua, cậu vẫn theo dõi tất cả mọi người ở khu rạp chiếu phim ngày đó. Họ đi những nơi khác nhau, làm những công việc khác nhau, trở thành những dáng vẻ khác nhau, thế nhưng A Sách cảm thấy họ chưa từng thay đổi, cậu luôn cảm thấy họ vẫn là những con người xưa cũ mà cậu vẽ trong khung cửa sổ năm nào.
Thù Du cũng vậy.
Nếu như không có chuyện ngày hôm ấy, cậu chưa từng nghĩ sẽ kết giao với kiểu học sinh ưu tú lạnh lùng như cô.
Thành thật mà nói, cậu tin Thoái Tồn có thể cầm dao rựa chém người ở cảng Ngư Than, cũng chẳng thể tin được hắn ta đã làm chuyện như vậy đối với Diana. A Sách biết Thoái Tồn đổ nước ngọt lên đầu A Cách, biết hắn đốt vở bài tập của Diana và A Cách khi họ ở trong rạp chiếu phim, tất cả đều là những chiêu trò quá đáng của hắn. Nhưng cậu không thể ngờ rằng, Thoái Tồn lại làm ra loại chuyện mà cậu không thể nào giúp hắn gánh tội.
Kỳ nghỉ lễ tháng 11 là sinh nhật Diana, tại rạp chiếu phim khi đó Diana cũng giống như Hạ Quả bây giờ, là ngôi sao mà ai cũng sẽ nhớ ngày sinh nhật. A Sách biết mỗi lần vào dịp này cô đều mở tiệc sinh nhật, sống đến 30 năm cuộc đời nhưng cậu chưa một lần biết thế nào là tiệc sinh nhật.
Thoái Tồn biết được lịch trực ban của Diana từ chỗ Thù Du, nói hắn có một kế hoạch, muốn A Sách đứng ở phía chân cầu thang giả vờ hóng gió tiện thể canh gác cho hắn. A Sách cho rằng Thoái Tồn cùng lắm chỉ dùng lời lẽ trêu chọc cô, dùng sâu bướm hất lên người cô, hoặc xé bài tập về nhà của cô như những lần trước. Nhưng cậu nằm mơ cũng không thể ngờ rằng Thoái Tồn sau khi kéo tay Diana, lại có thể biến thành kẻ cầm thú mà trước nay cậu không hề hay biết. Còn cả hình ảnh Thù Du trốn nơi góc cầu thang giơ máy ảnh chụp trộm cũng khiến cậu bối rối không kém.
Tất cả những gì hiện ra trước mắt giống như câu chuyện về một hòn đảo biệt lập vô cùng ly kỳ mà cậu từng đọc. Trên một hòn đảo phía xa, con người sẽ biến thành quái vật và làm ra những điều vô cùng khủng khiếp.
Sau này A Sách cảm thấy sợ chính bản thân mình vì đã không xông lên ngăn cản những chuyện này. Nếu như cậu ngăn cản Thoái Tồn, hoặc chặn ống kính máy ảnh của Thù Du thì có lẽ mọi chuyện đã không xảy ra. Sẽ không có những tin đồn hãm hiếp tràn lan khắp nơi không thể lặng đi, cũng sẽ không có những tấm ảnh hiện trường mà ai ai cũng đều xem được, cũng sẽ không có cảnh cả gia đình Diana rời đi âm thầm và lặng lẽ. Giây phút ấy chân cậu như bị dính lại trên nền đất, có phải cậu cũng giống như vậy, biến thành những thứ quái dị trên hòn đảo biệt lập.
Cậu không biết tại sao lại đuổi theo Thù Du đang bỏ chạy, cô nhảy lên chiếc xe buýt đang chạy tới, cậu cũng vội vã lên theo. Thù Du xuống xe, cậu cũng xuống xe, cậu thấy Thù Du bước vào tiệm rửa ảnh của chú mình, đợi Thù Du rời đi cậu liền xông vào, lật cuộn phim mà Thù Du để lại, mặt đỏ tía tai nói với người chú còn đang kinh ngạc của mình: “Chú dạy con nhé, con phải rửa những bức ảnh này ra.”
Đó là lần thứ hai cậu một mình “đi xa nhà”.
Đêm hôm ấy, cậu rửa hết những cuộn phim âm bản gây sốc trong phòng tối. Bởi cậu biết trong những bức ảnh có gì nên nhốt một mình mình trong phòng tối rửa ảnh.
Những bức ảnh ấy giống như những trái bom hạng nặng để trong hộp giấy dưới gầm giường A Sách. Rạp chiếu phim sau ngày hôm ấy hoàn toàn thay đổi.
Phòng của Diana không bao giờ còn sáng đèn nữa, Thoái Tồn biến mất, chỉ có Thù Du vẫn đến lớp và tan học như mọi ngày. Trên đường nếu A Sách bắt gặp cô, cậu đều tránh mặt đi đường vòng, nhưng Thù Du chẳng chút mảy may phát hiện ra sự lúng túng của A Sách.
Lại là một đêm nữa Hạ Quả đến ăn bát cá viên cuối cùng. Hôm ấy trời mưa cả ngày, con phố nhỏ không thoát được nước nên lầy lội bẩn thỉu, do vậy lượng khách cũng ít đi một nửa, những ánh đèn neon của các tiệm nhấp nháy có chút khác thường. A Sách không kìm được hỏi Hạ Quả:
“Diana và Thù Du là bạn tốt phải không?”
“Sao vậy, cậu cũng có hứng thú với mỹ nhân à?”
“Không phải... chỉ là... cảm thấy bọn họ rất không giống nhau...”
“Cậu và tên khốn Thoái Tồn không phải là cũng không giống nhau sao?”
“Dù sao cũng đều là học sinh yếu kém.”
“Vậy thì bọn họ cũng coi như đều là học sinh giỏi. Cậu không hiểu đâu, tình bạn giữa những đứa con gái rất phức tạp.”
“Vậy... nếu như cậu nhìn thấy có người làm chuyện không hay gây tổn hại đến người khác, cậu có can thiệp không?”
“Sao hôm nay cậu có nhiều câu hỏi thế?”
“À... vậy cậu ăn đi.”
“Đương nhiên có rồi, lẽ nào cậu để những chuyện chẳng liên quan gì đến cậu bốc mùi thối hoắc trong người cậu à?”
A Sách không biết do những lời nói của Hạ Quả có lý hay chỉ đơn thuần là những lời đó do cô nói, mà cậu đã viết một bức thư kẹp vào trong những bức ảnh Thù Du chụp và âm bản phim, rồi đem những thứ ấy từ sân trước nhà Diana ném vào phòng cô.
Khi Diana gọi điện đến, A Sách cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng nhịp thở của cậu rối loạn hết cả.
“Mình muốn nhờ cậu một chuyện. Đừng để Thù Du nhìn thấy những bức ảnh này. Sau này mình không có cách nào làm bạn với cậu ấy được nữa, nếu có thể, cậu thay mình chăm sóc cậu ấy được không? Cậu ấy rất đáng thương, đừng để Thoái Tồn hay ai khác gây phiền hà cho cậu ấy. Cảm ơn cậu.”
Giọng của Diana nghe chẳng có vẻ gì là đang u buồn, thậm chí như thể cô đang nói chuyện của ai khác vậy. Sau này khi những tin đồn như Diana bị ảnh hưởng tinh thần nghiêm trọng, gia đình buộc phải chuyển đi nơi khác,... lan rộng và nhanh chóng khiến phía truyền thông phải đến trường để phỏng vấn về vụ việc “học sinh cấp ba cưỡng hiếp bạn học cùng lớp”, A Sách còn cho rằng cuộc điện thoại đó là những ảo tưởng của chính mình.
Những sự việc phát sinh sau đó đối với A Sách cũng giống như cơn ác mộng vậy. Chỉ sau một đêm những tấm ảnh ấy nằm trong hòm thư của mỗi gia đình trong khu, được để trước cửa từng lớp học. Còn cô gái với giọng nói bình tĩnh trong điện thoại, như thể ngay ngày mai sẽ lại nở nụ cười rạng rỡ thì không còn xuất hiện một lần nào nữa.
Càng không thể ngờ được, cậu còn làm bạn với Thù Du hai năm. Diana nói đúng, Thù Du là một cô gái đáng thương, nhưng cũng có khi cậu rất muốn biết, giữa cậu và Thù Du ai mới là người đáng thương hơn.
Rốt cuộc A Sách đã để một bí mật chẳng liên quan đến mình dính líu đến hết cuộc đời.
Không giống những người khác, sau khi tốt nghiệp cấp ba họ có thể rời khu rạp chiếu phim, rời Nặc Thành, rời khỏi bán đảo chẳng mấy nổi bật nhưng đầy rẫy những điều bất ngờ, họ có thể bỏ lại tất cả những điều liên quan đến cuộc đời họ, bao gồm cả những chuyện tốt xấu. Nhưng A Sách thì không, cậu không có cách nào rời khỏi đây, cậu sẽ mãi mãi ở lại với những chuyện đã xảy ra tại nơi này.
Mười tiếng trên xe, A Sách mơ hồ nhớ về từng mảnh ghép vụn vỡ trong cuộc đời mình. Đã lâu quá rồi, cậu không còn có thể phân biệt được đâu là sự thật và đâu là mộng tưởng nữa.
Nặc Thành là một ga nhỏ trên tuyến đường sắt cao tốc này, tàu hỏa chỉ dừng lại ba phút, cậu cũng chẳng có hành lý gì nhiều, đeo chiếc ba lô lên rồi xuống tàu. Từ Bắc Kinh thời tiết hanh khô đến chảy cả máu mũi, cậu lại trở về với mảnh đất chưa lúc nào hết ẩm ướt này.
Người xuống không nhiều, A Sách đến cổng ga tàu, gọi một chiếc taxi, bỏ ba lô xuống bình tĩnh nói: “Đến bệnh viện Nhân dân.”
Ba tháng trước, A Sách được chẩn đoán mắc chứng xơ cứng teo cơ một bên. Bác sĩ kiên nhẫn giải thích cho cậu căn bệnh mà người ta vẫn gọi là đóng băng dần cơ thể, “Ba đến sáu năm tới, có thể sẽ không tự mình thở được, nên nhất định phải ở lại bệnh viện điều trị.” Mẹ A Sách chỉ ngây ngốc nắm lấy bàn tay vì yếu ớt mà thỉnh thoảng bị co giật của cậu, đôi mắt dịu dàng buồn bã mơ hồ nhìn về phía bác sĩ, nhưng dường như bà chẳng thể hiểu câu nào.
Bệnh tình sẽ tiến triển rất nhanh, trước khi nhập viện điều trị A Sách nhìn thấy thông tin bán vé concert của Hạ Quả trên mạng. Bức ảnh cô gái ấy vẫn luôn nằm trong ví cậu bao năm nay, bất luận thế nào cậu cũng muốn tận mắt xem cô biểu diễn một lần.
Còn cả Thù Du, cậu muốn đem bí mật vốn không thuộc về cậu trả lại cho cô.
Trên đường đến bệnh viện, chiếc taxi lướt qua chân núi Tê Triều, đi qua cả bờ biển dài bất tận, bỏ lại phía sau tiếng còi của nhà ga tàu hỏa cao tốc. Ký ức ngày tốt nghiệp cấp ba năm đó lại ùa về, cô giáo dạy văn viết lên bảng một bài thơ:
“Em đi đâu vậy? Đã muộn vậy rồi
Tàu hỏa mỹ lệ, tàu hỏa cô đơn
Tiếng gọi của em thê lương buồn khổ
Khiến lòng người thương nhớ bao điều
Sao tôi không vẫy tay, vẫy khăn tay nhỉ?
Tôi sẽ đem đến sự ấm áp cho những người đi xa
Đi đi
Mong em thượng lộ bình an
Những cây cầu kiên cố, những đường hầm quang minh.” [*]
Mọi người đều cười đùa bàn tán sao đường hầm có thể “quang minh” được chứ. Khi ấy, A Sách nghĩ về cây lựu cổ tuyệt đẹp trong hang động.
Trận gió thầy lang nói năm nào, cuối cùng cũng vượt qua trùng trùng lớp lớp núi non và biển cả, thổi vào cuộc đời cậu rồi.