Chương 5 BỘ PHIM ĐEN TRẮNG
Văn Tử nhắm mắt lại mặc cho chuyên viên trang điểm họa lên khuôn mặt tinh nghịch của mình. Chuyên viên trang điểm ấy không phải ai khác mà chính là người bạn tốt từ thuở nhỏ của cô, Bạch Bì.
Bốn giờ sáng, ngoài chiếc đèn đã bị Thoái Tồn làm hỏng từ lâu thì tất cả đèn đường vẫn sáng.
Nhân viên giao sữa đạp chiếc xe đạp xiêu vẹo đi từ nhà này sang nhà khác. Rạp chiếu phim một thời đông đúc phồn hoa nay chỉ còn lại vài hộ gia đình sống quanh đây. Rốt cuộc thì cũng phải dỡ bỏ. Văn Tử nghĩ nhân viên giao sữa liệu có vì thế mà cô đơn hơn. Chiếc cửa sổ đối diện cô lúc này dán hai chữ hỷ, xuyên qua kẽ hở trên những chữ đó là rạp chiếu phim đã đóng cửa từ lâu, cũng là nơi tổ chức hôn lễ ngày hôm nay.
Văn Tử cảm thấy đôi bàn tay khéo léo của Bạch Bì nhanh nhẹn, gọn gàng và nhẹ nhàng điểm những đường nét lên khuôn mặt cô. Văn Tử hít một hơi thật sâu nói, những người đó chắc chắn vì đôi bàn tay này mà phải lòng Bạch Bì. Bạch Bì chỉ cười nói, cô vì tiền của họ mới cho họ yêu đôi bàn tay này, chúng quả là có giá quá.
“Đúng đúng, mà cậu có biết cặp đôi nào yêu nhau lâu hơn mình và Tiểu Hùng không, mình chẳng nhớ nổi bọn mình đã bên nhau bao lâu.”
“Có lẽ các cậu đã yêu nhau từ khi còn nằm trong bụng mẹ.”
Căn nhà cũ không cách âm vọng lại những âm thanh của phòng bên cạnh. Tiểu Văn có thể nghe thấy mọi động tĩnh của Tiểu Hùng, cô có thể tưởng tượng được anh đang chỉnh lại áo sơ mi và đeo cà vạt.
Một tuổi, hai tuổi, mười tuổi, hai mươi tuổi hay hai mươi bảy tuổi, dù ở tuổi nào cũng có thể nhìn thấy cảnh tượng của ngày hôm nay. Văn Tử mở to mắt nhìn mình trong gương, không biết rằng Bạch Bì đang vô cùng tâm trạng nhưng cố bày ra dáng vẻ thản nhiên.
Cái tên Bạch Bì của cô là do Tiểu Hùng đặt cho. Bạch Bì họ Bạch, sinh ra đã trắng muốt, sở thích duy nhất của cô là chơi mạt chược nên cậu đã gọi cô là Bạch Bì. Điều này cũng không có nghĩa là Bạch Bì và Tiểu Hùng có mối quan hệ gì đặc biệt, hơn nữa mối quan hệ như thế nào thì được coi là đặc biệt đây? Văn Tử và Tiểu Hùng có thể đi đến ngày hôm nay không hẳn là bởi họ đã xử lý cái gọi là “mối quan hệ” của họ một cách ổn thỏa, mà bởi họ đều biết bí mật của nhau, đồng thời đều sẵn lòng kín miệng.
Nhà của Văn Tử là căn 201 đơn nguyên 4, tòa phía Bắc, đối diện là căn 202 nhà Tiểu Hùng. Mùa thu hai mươi bảy năm trước, mẹ của Văn Tử vừa được đẩy ra khỏi phòng sinh thì mẹ Tiểu Hùng được đẩy vào. Hai nhà thường nói đùa nhỡ có bé nhầm con khi ấy cũng không sao, dù gì cũng mở một cánh cửa, đóng một cánh cửa là đã về đến nhà.
Có những lời nói chỉ tình cờ nói ra nhưng sự việc xảy ra lại hóa y như vậy. Bạch Bì luôn nói, Văn Tử và Tiểu Hùng đã định trước sẽ về một nhà, từ khi họ chưa bắt đầu mối quan hệ yêu đương đã giống như vợ chồng. Dù biết mối tình thanh mai trúc mã này được nhiều người ngưỡng mộ, nhưng Văn Tử chẳng biết họ có thật lòng hay không, cũng không biết về lâu về dài liệu có tốt đẹp như những gì mọi người nói.
Nhiều khi cô cũng không biết cô và Tiểu Hùng bắt đầu từ khi nào. Nhưng mọi sự đều có một thời điểm bắt đầu, vì vậy cô quyết định cái “bắt đầu” đó là buổi tối khi họ học lớp năm.
Chiều muộn hôm ấy, Văn Tử không về nhà mà lấy cớ để đến khu phố cổ cạnh cảng Ngư Than trả truyện tranh. Sở dĩ chọn nhà sách ở xa như vậy là để tránh bị mẹ cô phát hiện. Dù gì mẹ cô cũng là một cây viết của tờ Nhật báo Nặc Thành chuyên phê bình những cuốn truyện tranh Nhật Bản đầu độc thanh thiếu niên bởi kiểu văn hóa khiêu dâm, giá trị quan lệch lạc. Vì vậy một khi bị mẹ phát hiện đọc những câu chuyện thanh xuân vườn trường nam nữ yêu đương như vậy, Văn Tử chắc chắn sẽ bị đuổi ra khỏi nhà.
Trả lại ba cuốn, mượn ba cuốn khác. Khi từ trong tiệm sách đi ra cô nhìn thấy Tiểu Hùng đi về phía một bến tàu nhỏ đã bỏ hoang.
Cảng Ngư Than có nhiều bến tàu mới, cũng có nhiều bến tàu đã cũ, những tàu đánh cá đi rồi lại quay về, Văn Tử luôn cảm thấy đó là một thế giới khác của Nặc Thành, chẳng có chút liên quan gì với cuộc sống ở khu rạp chiếu phim .
Cô trèo qua những rào chắn đơn giản và vô ích, thấy Tiểu Hùng đi đến bên bến tàu, bỏ cặp sách xuống rồi đổ một đống đồ linh tinh ra, sau đó dùng chân đá từng món một xuống biển. Văn Tử vội chạy đến vơ lấy món đồ cuối cùng còn trên bờ, đó là cuốn sách ngữ văn của lớp trưởng.
“Tất cả đều là cậu làm sao?” Văn Tử không khỏi ngạc nhiên. Trong lớp đột nhiên bị mất nhiều đồ dùng như từ điển, sách giáo khoa, bút máy, máy tính và cả học phí. Cô ngạc nhiên đến nỗi không biết phải nói gì.
Tiểu Hùng giật lại quyển sách từ tay cô rồi ném thẳng xuống biển, “Mình ghét bọn họ.”
Đứng trước ánh nắng của chiều tà và những con sóng mạnh mẽ đập vào bờ ấy, Văn Tử vẫn bình thản trả lời:
“Mình sẽ không nói cho ai đâu?”
Tiểu Hùng liếc nhìn cuốn truyện tranh trên tay cô, cậu nói:
“Để những thứ này giấu ở nhà mình đi, mẹ cậu tinh tường như vậy sớm muộn gì cũng phát hiện ra.”
“Ừ.” Mặt Văn Tử bắt đầu đỏ lên, dù gì thì người khác đều đọc tứ đại danh tác, còn mình thì cả ngày chỉ ôm truyện tranh thanh xuân vườn trường cũng chẳng có gì đáng để khoe khoang.
Mặt trời khuất bóng dưới mặt biển, họ mới bắt xe về nhà. Văn Tử háo hức đọc liền một mạch hết cuốn truyện rồi mở cửa sổ, đưa cho Tiểu Hùng cất giùm. Trước đây cô đều phải giấu những cuốn truyện bên dưới bình hoa vỡ bám đầy bụi ngoài cửa sổ.
Văn Tử cảm thấy đúng là vào chiều hôm ấy, họ đã để lộ cho nhau con người khác của chính mình mà chưa từng cho người ai thấy. Hay nói cách khác, chỉ có “bắt tay” nhau họ mới có thể “liên minh” lâu dài.
Nhưng Tiểu Hùng lại cho rằng chuyện của bọn họ bắt đầu sớm hơn thế. Đó là khi còn học mẫu giáo, có một lần Văn Tử đau bụng nhưng lại ngại xin cô dẫn đi vệ sinh, vậy nên cô chỉ còn cách ôm bụng và túm lấy quần của mình. Tiểu Hùng giúp cô đến tận khi tan học, các bạn nói mùi gì thối quá, Tiểu Hùng đều nhận đó là cậu xì hơi.
Tiểu Hùng nói, “Cậu nghĩ xem, loại chuyện như vậy cậu có dũng khí nói với người con trai khác không?”
Văn Tử nghĩ một hồi nhưng thực sự không thể nói được cho ai.
Sau ngày hôm đó lũ trẻ liên tục chế giễu Tiểu Hùng về chuyện xì hơi, nhưng Tiểu Hùng xem ra cũng chẳng bận tâm lắm. Văn Tử hỏi cậu không giận sao? Cậu chỉ nói cậu đã bắt kiến thả vào giường của các bạn.
Buổi tối năm học lớp năm, khi Văn Tử chuẩn bị chìm vào giấc ngủ thì chợt nhớ đến vẻ mặt của Tiểu Hùng khi nói câu “Mình ghét bọn họ”, lòng cô bỗng có chút xót xa.
Ngoài Tiểu Hùng này, trước đó còn có một Tiểu Hùng khác ở căn 202, hơn họ mười tuổi. Người lớn trong khu rạp chiếu phim đều nói với lũ trẻ nhà mình “Xem Tiểu Hùng nhà người ta kìa”; “Đúng là Tiểu Hùng nhà người ta.” Từ nhỏ Tiểu Hùng ấy đã giành được huy chương toán học Olympic cấp quốc gia, tham gia cuộc thi chế tạo máy bay mô hình cấp tỉnh, còn làm người dẫn chương trình nhí trong đài truyền hình, nhờ có mẹ làm trong tờ Nhật báo Nặc Thành mà trên mặt báo thường xuất hiện những bài viết của Tiểu Hùng. Đến khi Văn Tử mười tuổi, mẹ cô vẫn thường mỉa mai nói, “Làm người thì đừng có khoe khoang lộ liễu quá.”
Và rồi sau một vụ tai nạn ngoài cổng trường do bị một chiếc xe tải mất phanh đâm phải, mà Tiểu Hùng đó năm mười tuổi không thể lớn thêm được nữa.
Do đó có Tiểu Hùng thứ hai này.
Văn Tử nói cô ghét mẹ cô lúc nào cũng phủ nhận ý kiến của người khác, cô cũng ghét ba mẹ cô lúc nào cũng cãi nhau vì mấy chuyện vặt vãnh. Tiểu Hùng nói cậu hy vọng ba mẹ cậu ly hôn.
Ba mẹ Tiểu Hùng chẳng bao giờ cãi nhau, căn phòng 202 lúc nào cũng yên lặng như một căn phòng trống. Sau khi sinh Tiểu Hùng xong họ hoàn toàn ngủ riêng phòng. Mẹ Tiểu Hùng tin chắc rằng Tiểu Hùng này vẫn là Tiểu Hùng năm đó, bắt cậu học giải toán Olympic, học nhạc cụ, học về mô hình. Dĩ nhiên kết quả là chẳng thể đạt được như họ mong muốn. Ngày mẹ Tiểu Hùng chấp nhận cậu không được như người anh, bà đã tự nhốt mình trong phòng khóc cả một đêm, còn Tiểu Hùng thì chẳng làm gì khác ngoài việc mở cửa sổ mượn vở bài tập của Văn Tử để chép bài.
Mẹ Văn Tử luôn nói, “Người chứ có phải đồ vật đâu, làm sao mà sinh ra được một thứ hoàn mỹ để thay thế chứ!”
“Mẹ, mẹ nói khó nghe quá!”
“Lời thật lòng luôn khó nghe.”
Văn Tử chỉ cảm thấy người lớn thật vô lý và độc ác.
Vì vậy mỗi khi nhìn thấy Tiểu Hùng hi hi ha ha vui đùa ở trường đều cảm thấy rất buồn, nhìn thấy Tiểu Hùng trêu chọc các bạn nữ khác cũng rất buồn, nhìn thấy Tiểu Hùng cố ý để trống bài kiểm tra mà không điền hết cũng buồn. Chỉ cần nhìn thấy Tiểu Hùng là cô đã thấy buồn lòng. Đến mãi sau này, mỗi khi Tiểu Hùng nói mệt mỏi, cô đều dang rộng vòng tay ôm cậu vào lòng.
Khi Văn Tử nói mọi người đều không hiểu Tiểu Hùng, Bạch Bì luôn nói, “Có khi nào cậu nghĩ người cậu thích chỉ là hình ảnh do cậu tưởng tượng ra không?”
Bộ phim đen trắng trên đảo Xương Rồng năm đó là ảo ảnh sao?
Đó là kỳ nghỉ hè năm lớp tám, Văn Tử và Tiểu Hùng quyết định đến đảo Xương Rồng để chôn giấu một chiếc hộp bí mật.
Đó là một hòn đảo nhỏ đầy xương rồng, một tháng chỉ có một cơ hội duy nhất có thể lên đảo và quay trở lại. Người dân Nặc Thành thường có câu chuyện thơ ấu về những chuyến phiêu lưu rẽ sóng đến đảo này và đem về những quả xương rồng tiên. Đây chắc chắn là một nơi an toàn để lưu giữ bí mật.
Đứng ở đuôi thuyền nhìn về phía đất liền xa dần, bọt nước trắng xóa như đuôi chim phượng hoàng quẫy đạp trên mặt biển tĩnh lặng. Nước biển khi đó xanh hơn bây giờ nhiều, phà đi đảo khi đó cũng không đông đúc như bây giờ.
Thời tiết hôm ấy đẹp như một bức tranh tĩnh lặng, hơn chục hành khách trên phà đều là những gia đình đưa con đi chơi. Tiểu Hùng cầm một hộp giày, nhìn về phía cầu cảng mơ hồ phía xa xăm nói:
“Nếu như sau này chúng ta có con, chúng ta sẽ không trở thành những ông bố bà mẹ đáng ghét.”
Văn Tử phụng phịu giật chiếc hộp từ tay Tiểu Hùng rồi quay người ngồi xuống phà nói:
“Ai thèm sinh con với cậu chứ!”
Chiếc hộp này thường được cất bên trong tủ cạnh giường ngủ của Tiểu Hùng. Thật ra cho dù chiếc hộp có được đặt hẳn trên bàn có lẽ mẹ cậu cũng không để ý đến.
Vì hai phòng đối diện, nên buổi tối hai người thường nằm trên bệ cửa sổ làm bài tập cùng nhau, cũng có khi mơ màng nhìn quảng trường bé phía trước rạp chiếu phim, và thường viết những bí mật của riêng mình để chung vào một chiếc hộp nhỏ.
“Hôm nay mình đến kỳ kinh lần đầu tiên nên dây ra quần, bị Tiểu Lã nhìn thấy, cậu ta còn cười nhạo mình. Buổi chiều mọi người đều nhìn mình với ánh mắt kỳ lạ.”
“Mình đến văn phòng của thầy cô đổi hết đáp án trên giấy thi của Tiểu Lã thành đáp án sai.”
“Mẹ mình hay nói xấu mẹ cậu, cũng hay nói dối người khác, thật là khó chịu.”
“Mình ghét những người trong rạp chiếu phim, mình muốn rời khỏi đây.”
Hai người viết những bí mật vụn vặt như vậy, còn có thêm cả những mẩu báo nhỏ. Do mẹ của cả hai đều làm việc liên quan đến ngành báo nên những tờ báo cũ trong nhà được chất thành đống, nhưng cả năm chẳng được mở ra đọc lấy một lần. Những chuyện liên quan đến anh trai Tiểu Hùng, cậu chưa bao giờ chủ động hỏi ba mẹ mà tìm những báo cáo có trên báo năm xưa, người có khuôn mặt rất giống cậu, có cái tên cũng giống cậu, nhưng cậu lại chẳng phải người đó, là người mà đạt bao thành tích, là người được đứng chung sân khấu với rất nhiều ngôi sao, đi đến đâu cũng giành được những giải thưởng lớn. Tóm lại, so với anh, cậu chỉ là một thứ gì đó trống rỗng.
Văn Tử hỏi cậu thu thập những mẩu báo này là vì cậu cảm thấy có sợi dây tình cảm nào đó với anh mình phải không? Tiểu Hùng lại hỏi lại Văn Tử, “Cậu cảm thấy cặp sinh đôi Đại Lã và Tiểu Lã có bao nhiêu tình cảm dành cho nhau?”
Họ cũng thu thập một vài mẩu báo khác.
Ví dụ liên quan đến Thù Du, học sinh gương mẫu nhất trong khu, mọi người đều nói ba của cô ấy chết đuối một cách kỳ lạ. Văn Tử và Tiểu Hùng còn xem thêm những tờ Nhật báo Nặc Thành khác trước khi họ sinh ra, cảnh sát nói ông ấy chết đuối do say rượu.
Cô gái đẹp nhất trong khu - Diana, do bị Thoái Tồn cưỡng bức cũng được đưa vào bản tin, còn liên tiếp xuất hiện trên mấy số báo về hành vi phạm pháp của trẻ vị thành niên.
Còn có cả bài báo do mẹ Văn Tử viết về Hạ Quả, cô gái có khuôn mặt lạnh lùng thi đỗ top đầu vào Học viện Âm nhạc Bắc Kinh.
Cuối cùng là tin tức nhanh từ tờ báo Đậu Phụ về Tiểu Cung, học sinh Trung học cơ sở đứng thứ nhất trong kỳ thi tuyển vào lớp chuyên của trường Tỉnh Thành.
Người khiến Tiểu Hùng để ý duy nhất chỉ có Tiểu Cung. Mỗi khi tòa Nhật báo tổ chức buổi xem phim tại rạp chiếu phim, mẹ Văn Tử đều sẽ đưa Văn Tử và Tiểu Hùng đi xem cùng. Những lần đó cậu luôn nhìn thấy Tiểu Cung và A Cách, con trai chú thợ chiếu phim tại rạp, cười đùa vui vẻ. Tiểu Hùng tự hỏi không biết họ vui vẻ hạnh phúc đến nhường nào.
Tiểu Hùng cắt mẩu báo ấy rồi đưa cho Văn Tử nói, “Tớ cũng muốn thi.” Văn Tử luôn cho rằng những câu nói bỏ nhà ra đi cậu chỉ nói vậy thôi, cho dù có không thích ba mẹ mình nhường nào thì họ cũng là người một nhà. Ít ra thì cô chưa bao giờ nghĩ đến chuyện sẽ bỏ nhà ra đi.
“Không dễ gì thi được đâu.”
“Cậu không muốn nên dĩ nhiên không thi được.”
Văn Tử bĩu môi, người cả ngày xem thường cái này, xem thường cái kia, chẳng để cả những lời giáo viên vào tai như Tiểu Hùng mà lại đòi thi vào lớp chuyên? Cô không tin.
Nhưng Tiểu Hùng lại dễ dàng thi vào lớp đào tạo ôn thi chuyên, cậu để phiếu kết quả lên bàn, ba Tiểu Hùng thấy vậy liền đem đến cho mẹ cậu xem.
“Em xem con trai giỏi quá, tối nay ra ngoài ăn mừng nhé.”
Ba cậu chưa từng gọi tên cậu là Tiểu Hùng, chỉ gọi “con trai”.
“Tối nay em phải đọc lại bản thảo, hai ba con đi đi. Mẹ cậu bỏ tờ báo xuống, đẩy đẩy cặp kính, lấy từ trong ví ra một trăm tệ nói cậu mua chút sách tham khảo.”
Ba Tiểu Hùng có chút khó xử, cậu lại rất tự nhiên cầm lấy tiền nói:
“Không có gì đáng ăn mừng hết, ngày mai con và Văn Tử sẽ đến đảo Xương Rồng chơi.”
“Ngày mai ra đảo sao?” Văn Tử đặt hai tay lên má, suy nghĩ xem có phải mình cũng nên học hành đàng hoàng một chút không.
“Mình đi cầu cảng xem lịch rồi, sáng mai sẽ có thuyền rời bến.”
“Sao cậu lại quyết định luôn như vậy.”
“Bởi vì đó là bí mật giữa mình và cậu.”
Tiểu Hùng đậy nắp hộp lại, ngữ khí chẳng có chút gì trang trọng, như thể cậu chỉ đang nói về thời tiết hoặc đồ ăn. Nhưng đối với Văn Tử, đây có lẽ là lời nói nghiêm túc nhất cậu từng nói với cô.
Hòn đảo được bao quanh bởi các vách đá lớn nhô ra ngoài biển như những chiếc răng khổng lồ. Nơi duy nhất có thể lên đảo là một mỏm đá nhỏ bằng phẳng, một tháng chỉ có một ngày khi mực nước biển dâng cao nhất thuyền mới có thể cập bến, sau đó men theo những bậc đá đã được đẽo gọt leo lên đảo.
Chỉ một hòn đảo như vậy mà vẫn có người sinh sống. Những ngôi làng của hơn chục hộ dân đã tồn tại như vậy hàng trăm nghìn năm.
“Không biết ai là người đầu tiên trên đảo đem quả xương rồng đến đất liền bán nhỉ? Nếu như người đó không rời đảo thì có lẽ mọi người trên đảo sẽ mãi mãi sống chết trên đảo này thôi.”
Văn Tử cảm thấy Tiểu Hùng rất thích nghe những chuyện phiêu lưu mạo hiểm.
“Dù gì họ cũng đã sống vài trăm năm trên đảo rồi, cũng có thể sống thêm vài trăm năm nữa. Người đem bán quả xương rồng ở đất liền thì vẫn sẽ chết.”
Khi còn nhỏ họ đã từng đến đây cùng với ba mẹ Văn Tử, tham quan những người nông dân trồng xương rồng, còn được trải nghiệm tự tay làm một hộp mứt quả. Khi trở về, mẹ Tiểu Hùng nhất định gửi tiền cho mẹ Văn Tử, sau khi bị bà kiên quyết từ chối nhận tiền, mẹ cậu chỉ nói một câu “Phiền gia đình cô quá” mà không có một lời hỏi thăm đến Tiểu Hùng, cậu đi chơi có vui không, có muốn đi tiếp không, ở đó có gì thú vị không, v.v...
Lại một lần nữa được đặt chân lên hòn đảo ngập tràn ánh nắng, lại được đứng trên những mỏm đá cao chót vót nghe tiếng thủy triều mạnh mẽ đập vào bờ và ngắm nhìn mặt biển bất tận. Mặt trời chiếu xuống mặt nước như một quả cầu thủy tinh lấp lánh đang vỡ ra thành nhiều mảnh. Gió thổi mạnh làm những sợi tóc rối tung lên múa may trên không trung, dường như chúng đang vui đùa cùng những tia nước nhỏ li ti được gió đem tới.
Tiểu Hùng đi trước, Văn Tử theo sau, gió thổi những sợi tóc óng ánh vàng, ánh mặt trời dường như cũng thành hình.
Họ đi hết cánh đồng xương rồng này đến cánh đồng xương rồng khác, dự định sẽ đi đến vị trí trung tâm của đảo. Có lẽ do ánh mặt trời khắc nghiệt, cũng có lẽ do gió thổi bốn bề tại nơi đây mà những cây xương rồng cứng cáp lạ thường. Có một cây đại thụ lớn bảo vệ đám xương rồng phía dưới nhìn rất cô đơn.
Hai người ngồi xuống dưới gốc cây, đào một cái hố không quá sâu rồi lấy chiếc hộp bí mật ra. Văn Tử có chút không nỡ, trong lúc cô còn đang do dự, Tiểu Hùng đã cầm lấy chiếc hộp đặt xuống dưới, sau đó nhanh chóng lấp đất lên.
“Sau này thỉnh thoảng bỏ ra xem chắc sẽ rất thú vị.”
“Chỉ khi chúng thối rữa thì đó mới là bí mật.”
Sau khi chôn xong, Tiểu Hùng chỉ nói một câu “Đi thôi” rồi kéo Văn Tử đứng dậy. Văn Tử có chút buồn bã nhưng nhìn dáng vẻ của Tiểu Hùng, cô cảm thấy mình có ở đây lôi thôi sướt mướt thì Tiểu Hùng cũng chẳng quan tâm.
Họ đi loanh quanh tìm vòi nước rửa tay, rồi ngồi dưới gốc cây ăn bánh mì và uống nước hoa quả. Thời gian còn lại của buổi chiều chỉ đi loanh quanh trên đảo.
Đảo không lớn nhưng cũng chẳng có phương tiện công cộng nào, họ cùng nhau đi bộ dưới cái nắng như thiêu như đốt, đi qua một trường tiểu học chỉ có hai em học sinh, nhìn thấy vài hộ gia đình đang trải nghiệm làm mứt trong những khu nhà dân. Văn Tử cảm thấy cùng đi bộ với Tiểu Hùng như thế này có một cảm giác rất yên tâm và hài lòng.
Nếu như suy nghĩ lại thật kỹ càng, họ dường như chưa bao giờ nói với nhau từ “thích”, nhưng lại cứ như vậy đi bên nhau đến tận mãi sau này.
Khoảng ba giờ chiều, ánh mặt trời không còn quá chói chang, những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán cũng bị gió thổi khô ngay lập tức. Họ uống hết nước khoáng mang theo rồi đến gần nhà máy thực phẩm Nặc Thành được xây trên đảo.
Bên ngoài khu nhà ở của nhân viên nhà máy treo đầy những bộ quần áo mới giặt, cả quần áo lót nam nữ tung bay trong gió mà chẳng có chút ngại ngùng, không gian bốn bề vô cùng tĩnh lặng. Những công nhân này ở trên đảo phụ trách thu gom quả xương rồng, họ thường phải ở đây đến mấy tháng.
“Họ không nhớ nhà sao?”
“Không phải ai cũng thích về nhà.”
Văn Tử bĩu môi, dù thế nào thì cô cũng sẽ rất nhớ nhà.
Khu nhà máy chẳng có tường rào xung quanh, Văn Tử nhìn ngó khắp nơi, còn Tiểu Hùng thì chán nản đút tay vào túi quần. Đi đến khu phía sau nhà máy, đột nhiên nhìn thấy một căn nhà kính đơn giản được phủ một tấm vải lớn màu đỏ trắng bên trên. Có một âm thanh gì đó mơ hồ truyền ra từ bên trong, làm rung chuyển cả mặt đất.
“Có phải là biểu diễn xiếc không?” Văn Tử hai mắt sáng lên.
“Cùng lắm chỉ là một buổi biểu diễn văn nghệ thôi.”
“Đi xem đi!”
Văn Tử lôi cánh tay đang đút túi quần của Tiểu Hùng, cho dù miễn cưỡng cậu cũng vẫn bị cô lôi đến bên nhà kính.
Văn Tử cẩn thận xé một đường nhỏ trên tấm vải che cửa nhìn vào trong, đèn đều tắt hết tối om, mọi người ngồi bất động nhìn về phía màn hình lớn. Hóa ra là một bộ phim.
“Tuyệt quá, mình còn tưởng chỉ có ở Nặc Thành mới được xem phim chứ.” Văn Tử hạ giọng thì thầm với Tiểu Hùng.
Người hiếm khi bị kích thích bởi sự tò mò như Tiểu Hùng cũng ngó vào xem.
Là phim đen trắng, cô dâu mặc váy cưới trắng, chú rể mặc áo vest đen, hai người đang đứng trên bục trước khách mời. Họ không khóc lóc cũng chẳng làm trò gì ngốc nghếch, họ nắm tay nhau mỉm cười bình thản như thể đã chắc chắn về tương lai, ngược lại người bạn đang cầm micro nói lại có vẻ hồi hộp căng thẳng.
Người bạn nói: “Mình đã từng nghĩ rằng tìm một người mình yêu là phải tìm kiếm một nửa giống như mình, có lẽ chính vì vậy mà đến giờ mình vẫn còn đơn độc. Mỗi khi nhìn vào hai cậu, mình luôn cảm thấy các cậu thật khác biệt, sao có thể đi cùng nhau quãng đường dài đến như vậy. Mình vô cùng hy vọng các cậu sẽ mãi yêu thương nhau, nếu không còn yêu nhau nữa cũng không ngần ngại chia xa. Có lẽ hôm nay không phải là một ngày thích hợp để nói về sự “chia xa”... hạnh phúc nhé.”
Những bộ phim đen trắng luôn mang đến cho người xem cảm giác có chút châm biếm. Cô dâu chú rể đều có phần bối rối sau lời phát biểu của người bạn, bộ phim kết thúc ở đó, trên màn hình đen chạy lên những hàng chữ màu trắng:
“Từ nay về sau, họ sẽ sống bên nhau thật hạnh phúc
Mọi người hãy cùng vỗ tay chúc phúc cho bi kịch của họ”.
Những người xem phim đồng loạt vỗ tay, bỗng Tiểu Hùng nắm lấy tay Văn Tử quay đầu chạy.
“Sao phải chạy?”
“Hết phim rồi, có người nhìn thấy chúng mình xem trộm sẽ không hay.”
“Những người yêu nhau đến được với nhau không phải là rất hạnh phúc sao? Tại sao lại là bi kịch?”
“Không biết.”
Trên đường về, những cơn gió mát buổi chiều mơn man, sóng biển nhẹ nhàng lắc lư khiến Văn Tử đã mệt nhoài ngủ thiếp đi. Khi hoàng hôn xuống cũng là lúc thuyền cập bến, Tiểu Hùng lay Văn Tử tỉnh dậy, cô rất mong được trở về nhà.
Về đến nhà cô liền hất giày sang một bên chạy ngay đến tủ lạnh lấy ra một bát canh chè khoai lang, chia cho Tiểu Hùng một nửa.
“Hạnh phúc quá! Mẹ ơi, ở trên đảo chiếu phim.”
“Nói linh tinh gì vậy?”
“Là loại phim đen trắng, về một hôn lễ, những người công nhân đều ngồi xem mà!”
“Đừng nói nhảm nữa, đoàn văn hóa chưa từng có công văn được chiếu phim ngoài trời ở trên đảo, mẹ còn không biết sao? Hơn nữa hôm nay có một chuyến phà đặc biệt đưa nhân viên từ công trường ngoài đảo về họp tái cơ cấu, bên mẹ còn phái phóng viên đến đưa tin. Mà nói với con chuyện này làm gì chứ. Hay là các con lén đi đến phòng chiếu phim chui nào đó mà không đến đảo Xương Rồng.” Mẹ Văn Tử lại bắt đầu ca thán hết chuyện này đến chuyện khác.
“Mẹ mới nói linh tinh ấy! Rõ ràng là...”
Ngay khi Văn Tử định cãi lại, Tiểu Hùng đã nhét một miếng chè vào miệng cô, liếc mắt nhìn cô một cái.
Văn Tử không vui đành nuốt những lời định nói cùng với miếng chè vào bụng.
“Làm gì thế, sao không để mình nói?”
“Bỗng nhiên mình nhớ ra, không biết bộ phim đó rốt cuộc là được chiếu từ đâu?”
“Hả? Ý của cậu là sao?”
“Mỗi khi chúng mình đến rạp Nặc Thành xem phim đều nhìn thấy ba A Cách ở phòng chiếu phim, có hai chiếc cửa sổ, ánh sáng từ phía cửa sổ sẽ chiếu lên màn chiếu, như vậy mới có thể chiếu phim, đúng không?”
“Đúng.”
“Trong nhà kho đó không có ai chiếu phim, cũng không có ánh sáng.”
Tiểu Hùng nói xong Văn Tử liền nhớ lại, suýt chút nữa thì làm rơi bát chè trong tay.
“Suỵt!” Tiểu Hùng đặt ngón tay lên môi cô, “Đừng hét lên, ba mẹ sẽ không tin đâu.”
“Không phải chúng ta gặp ma chứ?” Văn Tử cảm thấy da gà trên người đều nổi hết lên.
“Có lẽ là do chúng mình nhìn nhầm, gặp ma sao dễ thế được.” Tiểu Hùng lấy tay lau miệng rồi nói, “Mình về đây.”
Đêm hôm đó Văn Tử nhất quyết đòi ngủ với mẹ, lại còn nhất định nằm sát vào người mẹ.
“Ôi trời toát hết mồ hôi rồi.” Mẹ cô vội đẩy cô ra.
Văn Tử không dính lấy mẹ nữa mà nằm đối diện với chiếc quạt, nhìn ra bóng cây đung đưa ngoài cửa sổ. Cô quay ra quay vào không ngủ được liền nghĩ, “nếu như Tiểu Hùng sợ thì cậu ấy ngủ với ai được chứ?”
Ngày lại qua ngày, những ngày nắng như thiêu như đốt xen kẽ với những trận mưa rào. Lúc đầu Văn Tử còn đến thư viện của thành phố lật hết các tờ báo địa phương để tìm tin tức về buổi chiếu phim ngoài trời đó, thế nhưng chẳng có lấy một nguồn tin nào về điều đó cả. Sau nhiều ngày tìm kiếm mà không có kết quả, cô gần như đã tin rằng mình thực sự không nhìn thấy gì hết, có lẽ là ảo giác do biển cả gây ra. Tiểu Hùng nói đúng, tất cả những điều không hợp lý cuối cùng đều có một lời giải thích hợp lý.
Tháng Tám Tiểu Hùng đã tham gia lớp huấn luyện riêng của trường nên cậu chuyển đến ký túc ở. Tiểu Hùng không hay cười nhưng ngày chuyển đến trường cậu đã cười rất nhiều, cũng nói nhiều hơn bình thường.
Mỗi khi nhoài người ra khỏi cửa sổ định gõ vào cửa kính phòng đối diện, cô lại chợt nhớ ra người ở phía bên kia đang chăm chỉ ôn tập tại trường, rồi lạc lõng thu tay về.
Không quen, cả ba năm cấp ba cô đều cảm thấy không quen. Những học sinh trong lớp huấn luyện đều sẽ về nhà vào dịp cuối tuần nhưng Tiểu Hùng chưa từng về thăm nhà, cậu chỉ về vào dịp nghỉ Tết Nguyên đán. Cô bắt đầu cảm thấy sẽ không thể mãi mãi ở bên Tiểu Hùng như vậy nữa. Cô chưa từng nghĩ về chuyện ba mẹ, Tiểu Hùng hay bất cứ một điều gì ở khu rạp chiếu phim này sẽ rời xa cô.
Mẹ Văn Tử thường làm những món ngon để cô đem đến cho Tiểu Hùng, nên cô biết có vài lần ba cậu đến đưa tiền và đưa quần áo cho cậu, nhưng mẹ cậu chưa một lần nào đến trường thăm cậu.
Sau này, Tiểu Hùng và Văn Tử có nuôi một con chó Pavillon, yêu thương chăm chút hết mực nhưng cuối cùng nó bị một chiếc xe taxi đâm chết. Văn Tử khóc hết nửa tháng trời, mỗi khi nhìn chiếc chuồng trống không, đống quần áo còn chưa mặc được mấy lần cô lại khóc, khóc nhiều đến nỗi cô cho rằng mình bị trầm cảm. Tiểu Hùng chỉ còn cách đem một con chó khác về cho cô nuôi, Văn Tử vẫn yêu nó nhưng tình cảm đó cô biết là không giống nhau.
Không phải điều gì cũng có thể thay thế, không phải mọi sự khiếm khuyết đều có thể được bù đắp.
Ít nhất tại thời điểm đó, Văn Tử nhớ đến mẹ Tiểu Hùng, cô không biết Tiểu Hùng có giống vậy không.
Năm đó Tiểu Hùng, người không được gửi gắm hy vọng gì, đã thi đỗ vào lớp chuyên của Tỉnh Thành, trong khi Văn Tử miễn cưỡng lắm mới thi đỗ trường cấp Ba tầm trung tại Nặc Thành, may mắn vẫn giữ được mặt mũi cho mẹ cô.
Trước ngày nhập học, hai đứa ngồi trước bậc thềm của rạp chiếu phim mỗi đứa một bên tai nghe cùng nghe nhạc. Chiếc máy nghe nhạc đời mới này là phần thưởng mà ba Tiểu Hùng mua cho cậu, nghe hết bài hát đó Tiểu Hùng để lại cho Văn Tử. Những năm tháng thanh xuân ấy vẫn còn có chút e dè và ngại ngùng, đối mặt với sự xa cách cũng chỉ biết rơi nước mắt và những lời như “Mình sẽ gọi điện thoại cho cậu”. Sau này khi đã đi làm, Văn Tử thường ngồi trong quán cà phê sửa bản kế hoạch, nhìn thấy những em nhỏ khoác đồng phục học sinh đi hẹn hò, ôm hôn thắm thiết như người lớn cô lại nhớ về bản thân mình, ngày ấy đọc biết bao truyện tranh táo bạo, ấy thế mà tình yêu của cô lại đơn thuần biết bao.
Nếu như không được học cùng lớp với Lã Hàng, có lẽ Văn Tử sẽ rất cô đơn.
Văn Tử năm mười lăm tuổi cả tính cách và vẻ bề ngoài đều có phần mờ nhạt, không xấu nhưng cũng chẳng có gì đặc biệt, rất khó để khiến người khác chán ghét, nhưng cũng không dễ kết bạn.
Tiểu Hùng học tại Tỉnh Thành, Bạch Bì lại học về thẩm mỹ ở trường dạy nghề, Văn Tử lo lắng bước vào lớp học cấp ba của mình. Chợt cậu bạn bàn trên quay đầu xuống nói “thì ra là cùng một lớp”, cô mới phát hiện đó là Lã Hàng.
Lã Hàng và Lã Hành là cặp đôi song sinh duy nhất tại Nặc Thành, họ thực sự rất giống nhau. Văn Tử vẫn luôn cảm thấy chuyện này thật thần kỳ. Từ khi còn học tiểu học Lã Hàng đã rất hay trêu chọc cô, lên cấp hai bọn họ không còn học cùng lớp, gặp nhau ở khu dân cư cũng chỉ gọi tên nhau. Văn Tử luôn chỉ có khoảng 50% tỷ lệ có thể phân biệt được hai người họ. Vậy là Lã Hàng từ người bạn không quá quen biết đã trở thành cái phao cứu mạng của Văn Tử.
Cô không thể chịu nổi không có người nói chuyện cùng trong lớp học. Cô sợ cảnh hàng ngày một mình đi học rồi lại một mình ngồi xe buýt về nhà. Cho dù có người để cô cãi nhau thôi cũng tốt, còn hơn là một mình mờ nhạt giữa đám đông.
Lã Hàng có một thân hình đẹp và rắn chắc, cậu cũng rất năng nổ tham gia các hoạt động văn nghệ và thể thao tại trường. Khi chơi bóng rổ cậu thường tung chai nước đã uống hết một nửa về phía Văn Tử, khiến nhiều cô gái vì hành động đó mà nhìn cô chằm chằm. Giây phút đó Văn Tử cảm thấy vô cùng thỏa mãn.
Khi mối quan hệ của hai người càng ngày càng trở nên thân thiết, Lã Hàng mới hỏi chuyện cô và Tiểu Hùng có còn liên lạc gì nữa không?
“Dĩ nhiên là có rồi, cứ đến cuối tuần chúng mình lại gọi điện cho nhau.”
“Mình thực sự không hiểu sao cậu lại đối tốt với cậu ta như vậy, mọi người đều ghét cậu ta, lúc nào cậu ta cũng có vẻ rất kỳ quái.”
“Không phải đâu, mọi người không hiểu cậu ấy.” Giây phút đó cô bỗng nhớ đến hình ảnh cậu lúc vứt những món đồ trộm ở lớp, nhớ đến vẻ mặt u ám của cậu, còn cả những chuyện xảy ra trên đảo Xương Rồng. Những chuyện đã qua đó, cô không có cách nào giải thích cho Lã Hàng hiểu.
“Không quan trọng, cậu biết rằng mình thích cậu là được rồi.”
Văn Tử bày ra bộ dạng ngạc nhiên nhưng thật ra cũng không ngoài dự đoán. Cho dù là kiểu con gái gì đi chăng nữa cũng đều có kỹ năng nắm bắt đối phương có thích mình hay không, chỉ là có để cho họ biết hay không mà thôi.
Văn Tử cũng không ngoại lệ, cùng Lã Hàng trốn tiết tự học để đến tiệm kem mới mở ăn kem, cùng đến thư viện học bài mỗi đứa một bên tai nghe nghe nhạc. Cô cảm nhận được Lã Hàng thích mình, nhưng lại chẳng dám hỏi liệu mình có thích Lã Hàng không. Nếu như cô thích Lã Hàng thì liệu đó có phải là “phản bội”?
Thỉnh thoảng khi nói chuyện với Tiểu Hùng cô cũng nhắc đến Lã Hàng nhưng cậu chẳng bao giờ đáp lời những lần đó. Cậu cũng không kể cho cô nghe về những học sinh mới, lúc nào họ cũng nói về quá khứ, như thể càng ngày họ càng chứng minh rằng từ những người cho rằng bản thân hiểu nhất cử nhất động của nhau, giờ đây họ chẳng hề hiểu chút gì cả.
Có khi Văn Tử cảm thấy cô thích Lã Hàng hơn, nhưng nghĩ về những bí mật đã chôn giấu trên đảo Xương Rồng, cô lại cảm thấy Tiểu Hùng vẫn hơn. Cô không nỡ rời xa bí mật, không nỡ rời xa Tiểu Hùng.
Cứ cuối tuần Văn Tử lại chạy lên tầng tìm Bạch Bì, Bạch Bì luyện tập trang điểm trên mặt cô. Các loại mỹ phẩm rẻ tiền khác nhau đều được bôi lên mặt cô nhưng Văn Tử lúc nào cũng cười thích thú. Trang điểm xong Bạch Bì đưa chiếc váy liền thân của mình cho Văn Tử, còn hào phóng để Văn Tử đi đôi giày cao gót màu trắng mà cô thích nhất. Mặc dù chỉ có hai phân nhưng Văn Tử không dám đi. Bạch Bì nói nữ sinh trường trung học dạy nghề đều ăn mặc như vậy, “Sợ gì chứ, dù sao cũng là cuối tuần.”
Ngày trước mỗi khi nghỉ hè, Văn Tử đều bỏ đồ trang điểm của mẹ ra vẽ linh tinh lên mặt, lén mặc những bộ váy dài sặc sỡ và xỏ chân vào đôi giày cao gót rộng lủng lẳng đi khắp nhà. Bỗng nhiên giờ đã mặc vừa váy, giày cũng không còn rộng nữa, cô biết mình đã lớn, không còn là đứa trẻ lén lút mặc đồ của mẹ.
Vui vẻ cùng với Bạch Bì đến cảng Ngư Than chơi, tình cờ gặp Lã Hàng dưới tán cây xanh rì của hàng phượng vĩ nên cả ba người cùng nhau đi. Họ ăn mì cát trà rồi cùng ngắm mặt trời mọc. Sau khi trở về, Bạch Bì nói Lã Hàng tốt hơn Tiểu Hùng.
Văn Tử vẫn khăng khăng rằng Bạch Bì không hiểu Tiểu Hùng. Nhưng nếu như trả lời câu hỏi này vào mười năm sau, cô sẽ nói rằng Tiểu Hùng không tốt, còn cô cũng chẳng ra sao.
Văn Tử của mười năm sau nhớ về thuở trước, cảm thấy kỳ nghỉ hè năm lớp mười trôi qua chậm rãi như thể hút một sợi mì mà mãi chẳng thấy đầu, còn những ngày tháng sau đó giống như bài hát trong máy nghe nhạc, chẳng mấy chốc mà đã hết rồi.
Lên lớp mười một, Lã Hàng chuyển sang lớp khoa học, thời gian biểu của hai người không còn trùng nhau nữa. Khi mùa đông đến, cô nhìn thấy Lã Hàng tặng một đôi găng tay làm quà Giáng Sinh cho một bạn nữ cùng lớp. Lễ Giáng Sinh khi đó mới bắt đầu du nhập vào cuộc sống ở Nặc Thành.
Đến mùa thu tiếp theo, Tiểu Hùng bỗng ngồi xe buýt đường dài về nhà cùng đón sinh nhật mười tám tuổi với Văn Tử. Cậu tận dụng thời gian cuối tuần và kỳ nghỉ lễ đi làm thêm tại công ty du lịch, dành dụm được một khoản tiền mua một miếng ngọc bích nho nhỏ, xỏ một sợi dây màu đỏ qua rồi đưa cho Văn Tử. Văn Tử đeo vòng vào cổ, cười hạnh phúc rồi bật khóc.
Đôi khi vì một lý do nào đó phải tháo chiếc vòng ra, Văn Tử sẽ lập tức cảm thấy mất đi vận may, mất đồ, bị ốm, thi không tốt, hoặc có thể do ảnh hưởng tâm lý. Từ đó đến nay cô luôn đem theo chiếc vòng ngọc bích bên mình.
Cuộc sống không có Lã Hàng dường như cũng không quá khó khăn, các bạn trong lớp đều đã thân quen, hơn nữa giờ cô cũng đã có mục tiêu cho mình. Mỗi khi buồn ngủ cô lại sờ lên miếng ngọc bích trước ngực và nhìn vào dòng chữ “thi vào Thượng Hải”. Tiểu Hùng nói nếu mệt thì có thể rửa mặt bằng nước lạnh hoặc là dùng đèn pin soi vào mắt, nhưng Văn Tử không thể làm thế với bản thân mình được. Vì vậy cuối cùng Tiểu Hùng đã thi vào trường đại học tốt nhất tại Thượng Hải, còn cô chật vật mãi cũng đỗ vào được trường tầm trung tại đó. Dù gì thì cũng được cùng nhau đi Thượng Hải.
Trên tàu hỏa, ba mẹ Văn Tử cũng đi cùng đều đã ngủ say, chỉ còn cô và Tiểu Hùng ngồi trên lối đi chật hẹp của toa tàu nhìn ra màn đêm đen kịt bên ngoài cửa sổ.
“Cậu không để ba cậu đưa đi, mình cảm tưởng như bác sắp khóc.”
“Không phải vậy đâu.”
“Trước đây mình đều cảm thấy, rạp chiếu phim, ba mẹ hay tất cả những người bên cạnh mình từ nhỏ đều sẽ mãi mãi ở bên cạnh mình. Nhưng đột nhiên phải rời xa Nặc Thành, rời xa khu rạp chiếu phim, thật khó tin.”
“Ai rồi cũng sẽ phải chia lìa.”
“Chúng mình cũng vậy sao?”
Tiểu Hùng không nói gì, chỉ đưa tay ra nắm thật chặt lấy tay cô.
Những cặp đôi yêu đương khác sau khi thoát khỏi con mắt nhòm ngó chỉ trích về chuyện yêu sớm đều cùng nhau đi xem phim, đi ăn, đi du lịch ngắn ngày, nắm tay ôm hôn, thậm chí ở chung đều rất tự nhiên. Chỉ có điều, Văn Tử thì rảnh rỗi đến mức dường như chỉ có mỗi việc hẹn hò là chuyện nghiêm túc cô có thể làm, còn Tiểu Hùng thì bận tối mắt tối mũi. Năm đầu đại học cậu đã thực tập trong một tổ chức tài chính, lấy khoản tiền từ việc thực tập mua tấm cổ phiếu đầu tiên. Khi những học sinh khác trong khoa tài chính còn đang vật lộn với mớ lý thuyết thì Tiểu Hùng đã kiếm được cả đống tiền.
Thỉnh thoảng Văn Tử đến tiệm cà phê dưới tầng công ty Tiểu Hùng làm việc đợi cậu tan làm. Nhiều lần đợi không nổi cô liền ngủ gật trên ghế sô pha. Đợi đến khi Tiểu Hùng kết thúc tăng ca hoặc cuộc họp nào đó đến đánh thức cô dậy, hai người ăn gì đó rồi cậu đưa cô về ký túc.
Vì chuyện này mà Văn Tử đã giận cậu rất nhiều lần. Nhưng Tiểu Hùng chẳng bao giờ cãi nhau với cô, cậu chỉ nói: “Nếu như cậu không quen với thành phố như Thượng Hải thì mình lại cảm thấy rất phù hợp. Chúng ta không thể về Nặc Thành nữa.”
“Nặc Thành có gì không tốt chứ?”, Văn Tử tự lẩm bẩm một mình, cũng chẳng cần Tiểu Hùng phải đồng ý với mình.
Có lần thậm chí cô còn nghe được hai sinh viên thực tập nhắc đến Tiểu Hùng ở quán cà phê. Một người nói cậu đã cướp dự án của anh ta, hại anh ta bị mắng, người còn lại bổ sung thêm Tiểu Hùng lật mặt như lật sách, gặp lãnh đạo thì tươi cười niềm nở, gặp thực tập sinh khác thì mặt lạnh như tiền, chi li tính toán, hại người lợi mình,... Đại loại những lời như vậy lọt vào tai cô. Văn Tử cầm cốc cà phê đứng dậy, giả vờ vướng chân vào bàn rồi đổ cốc cà phê đó lên người bọn họ.
Khi chia tay dưới ký túc đêm đó, cô không thể không hỏi Tiểu Hùng, có phải cậu quá để ý công việc, quá bạt mạng làm việc rồi không.
Cậu chỉ nhún vai nói, “Mình muốn kiếm tiền để đi du học.”
Ồ thì ra là cậu muốn đi du học, nhưng điều quan trọng là đây là lần đầu tiên cô nghe thấy. Cô chợt nhận ra rằng cậu đã sớm lên kế hoạch chi tiết cho cuộc đời cậu rồi, cậu thậm chí còn chẳng cần cô hợp tác cùng.
Trong điện thoại cô buồn bã nói với Bạch Bì về chuyện Tiểu Hùng sẽ đi du học, Bạch Bì nói:
“Cậu ta lại bỏ rơi cậu lần nữa, cậu không thể rời xa cậu ta sao?”
“Cậu ấy không bỏ rơi mình, cậu ấy sẽ trở về, nói sau này sẽ ở lại Thượng Hải.” Văn Tử giải thích.
“Mình thực sự không hiểu rốt cuộc cậu thích cậu ta đến nhường nào, cũng không phải cậu không lấy được ai khác?”
“Cậu thích một người đi rồi sẽ hiểu.”
Nghe xong Bạch Bì chẳng thể nói được gì. Thật ra Văn Tử không cần lời khuyên từ ai khác, cô chỉ cần một người lắng nghe cô là đủ rồi.
Năm ba đại học, Tiểu Hùng giành được suất du học sinh trao đổi với một trường đại học danh tiếng tại Pháp, tình cờ Bạch Bì cũng sang Pháp tiếp tục học trang điểm. Văn Tử một mình đến sân bay tiễn hai người họ. Bạch Bì vỗ vai Tiểu Hùng nói, “Mình sẽ giúp cậu trông chừng cậu ấy.”
Văn Tử nhìn máy bay cất cánh rồi biến mất dạng trong những tầng mây, tủi thân không nói nên lời. Đến tận lúc đó cô vẫn chưa khóc. Về đến gần trường cô tìm một quán cà phê, uống đến cốc thứ năm Văn Tử mới bắt đầu khóc, cảm thấy bản thân thật vô dụng, đã không thể đi du học cùng cậu cũng chẳng có bản lĩnh uống say. Ngồi đây uống mấy loại cà phê đá thì có gì ghê gớm chứ.
Nhân viên quán đem đến cho cô một gói khăn giấy cùng một cốc sữa ấm nói cô uống cà phê như vậy sẽ rất hại dạ dày.
Văn Tử vội lau nước mắt rồi trả tiền cho anh ta, nhưng anh ta lắc đầu nói mời cô.
Cũng không có gì bất ngờ, cô và anh ta trở thành bạn tốt của nhau, cô thường gọi anh là Cà Phê. Bạn tốt đến mức nào ư? Tốt đến mức bạn cùng phòng ký túc của cô còn tưởng rằng cô đã thay bạn trai.
Không ngờ rằng cô lại bị Cà Phê làm cho rung động. Theo như lời Bạch Bì thì Cà Phê chính là mẫu bạn trai phù hợp với Văn Tử nhất. Cũng giống như cô, là người thuần hậu, không có mong ước thực hiện điều gì lớn lao, anh cũng chính là người có thể xem những bộ phim thanh xuân cùng bạn gái, cũng có thể rơm rớm nước mắt vì bộ phim đó. Điều mà những chàng trai tại Thượng Hải khó có thể làm được.
Bạch Bì thường nói Văn Tử là cô gái có suy nghĩ đơn giản, còn Cà Phê chính là kiểu con trai mà cô không cần dùng não để phán đoán xem anh đang nghĩ gì. Khi ở bên anh cô có cảm giác thoải mái như ngâm mình trong bồn nước nóng vậy.
Cà Phê đưa Văn Tử về nhà ăn cơm. Tối hôm ấy trên con đường Trường Lạc, anh rất nghiêm túc hỏi cô làm bạn gái anh. Có lẽ con đường cây ngô đồng buổi đêm quá đẹp, có lẽ lòng người dịu đi sau cơn mưa, có lẽ lúc nào cũng cãi nhau với Tiểu Hùng qua chiếc tai nghe, bị giày vò bởi khoảng cách và lệch múi giờ, Văn Tử đã nói đồng ý.
Vì vậy đêm hôm đó họ đã lén quay lại quán cà phê, cùng nhau làm hai cốc sữa ngọt Bailey và xem phim cả đêm. Sáng sớm hôm sau, một mình bước trong khuôn viên trường băng giá, cô đã nhắn cho Tiểu Hùng, “Chia tay đi”.
Cô cứ cho rằng như vậy mình sẽ được cứu rỗi, không cần phải xin lỗi ai, không cần cân nhắc cũng không cần lừa dối. Cô không bắt máy cũng không trả lời tin nhắn của Tiểu Hùng, mỗi ngày đều cùng Cà Phê vui vẻ tận hưởng cảm giác tình yêu đôi lứa, có giận hờn có dỗ dành, cùng nói về một gia đình nhỏ sau này, cùng nhìn nhau cười mà chẳng nói gì. Cứ như vậy nửa tháng trôi qua, khi cô vừa trang điểm xong chuẩn bị đến nhà Cà Phê ăn cơm thì chợt thấy Tiểu Hùng quần áo xộc xệch, râu ria bờm xờm đứng dưới ký túc xá.
Tiểu Hùng bước đến ôm cô thật chặt, nghẹn ngào nói:
“Anh không tin rằng mình sẽ chia tay, chúng mình không thể chia tay được.”
Trên người cậu đầy mùi rượu, Văn Tử ôm lại cậu, chạm vào những khớp xương lồi lõm trên lưng cậu, giống như đã chạm vào chiếc nút mở ra cánh cửa quá khứ, mọi chuyện trước đây ùa về. Nếu như không có ai cùng cô trải qua những năm tháng ấy, cùng cô lưu giữ những bí mật ấy thì làm sao có cô của hiện tại. Văn Tử không kìm được nữa, cô khóc.
Tiểu Hùng nói hành lý của cậu đều ở Phong Kính, “Em đi cùng anh chứ?”
Cô không có cách nào lắc đầu từ chối, cuối cùng cô cũng hiểu nếu muốn từ bỏ Tiểu Hùng thì nhất định phải “cắt bỏ” đi một phần cơ thể của mình. Cô đã thích người khác, cô nghi ngờ liệu họ có còn phù hợp. Mỗi khi cãi nhau cô đều hận đối phương đến chết, nhưng cô chưa từng đưa ra cho mình lựa chọn, chưa bao giờ đưa ra lựa chọn giữa Tiểu Hùng và người khác, bởi đơn giản không thể là người khác.
Cô sợ Cà Phê sẽ tìm mình nên đã tắt điện thoại, cùng Tiểu Hùng ở Phong Kính một tuần. Con sông nhỏ êm đềm chảy qua ngoài cửa sổ, họ trò chuyện, làm tình và hẹn thề.
Trong thời gian đó cô mở điện thoại ra một lần nói với Cà Phê cô muốn chia tay, sau đó lại vội tắt điện thoại.
Cà Phê không làm khó cô, anh nói anh tôn trọng quyết định của cô. Anh không còn làm ở quán cà phê gần trường nữa, cũng không bao giờ xuất hiện trong cuộc đời cô một lần nào nữa. Mỗi khi nhớ về Cà Phê, Văn Tử đều cảm thấy bản thân thật vô liêm sỉ.
Tiểu Hùng không hề thất hứa, sau khi tốt nghiệp cậu trở về Thượng Hải, có một công việc sáng giá, còn Văn Tử làm phóng viên cho tạp chí tài chính. Tiểu Hùng thường xuyên đi công tác, bận đến nỗi chẳng thể quan tâm đến gì khác, Văn Tử còn chẳng cần đến chỗ làm, rảnh rỗi đến phát hoảng, cô học thêm nấu ăn để giết thời gian.
Sau khi chuyển nhà đến hai lần, Tiểu Hùng nhất quyết vay một khoản tiền thêm vào khoản tiền cậu kiếm được để mua một căn nhà. Chú chó Pavillon thứ hai sống rất khỏe mạnh. Ngày sinh nhật thứ 27, Văn Tử phát hiện cô đã mang thai. Sau khi Tiểu Hùng về nhà đã đeo lên tay cô một chiếc nhẫn, mọi việc cứ thế diễn ra suôn sẻ đến mơ hồ.
Họ quyết định đặt địa điểm tổ chức đám cưới tại rạp chiếu phim Nặc Thành. Cả hai đều sinh ra và lớn lên ở khu rạp chiếu phim, nếu như không có thời gian ở đó thì có lẽ họ không thể trở thành vợ chồng.
Sau khi đã trang điểm xong cho Văn Tử, đột nhiên Bạch Bì hỏi cô: “Hai mươi bảy năm trời, cậu thực sự còn yêu Tiểu Hùng sao?” Văn Tử cười gật đầu, cô nói nếu như hỏi Tiểu Hùng, cậu ấy cũng sẽ trả lời như vậy.
Mặc dù khi còn học cấp ba cô đã từng một mình ngồi xe đến Tỉnh Thành tạo bất ngờ cho Tiểu Hùng, nhưng khi đến nơi nhìn thấy cậu cùng một bạn nữ khác trường cùng làm bài tập, cùng uống coca ở quán McDonald ngoài cổng. Cô rất tức giận nhưng cũng chỉ quay người bỏ đi về bến xe khách.
Thế giới rất nhỏ, lúc nào cũng có người nói với cô, Tiểu Hùng sau khi tốt nghiệp sẽ như cá gặp nước, cậu ta cũng đã từng tiếp cận Bạch Bì nhưng Bạch Bì không để ý đến nên đã hẹn hò với một cô gái khác. Dĩ nhiên những chuyện này không phải Bạch Bì nói với cô.
Quãng thời gian ở chung với nhau, Văn Tử cũng có lần tò mò xem điện thoại của cậu, phát hiện cậu có nói chuyện qua lại với vài nữ chủ quản, có vẻ cùng nhau kiếm chác được từ một dự án đen nào đó không ít tiền.
Nhưng cô chưa bao giờ nhắc đến những chuyện này với Tiểu Hùng, cô cũng chỉ buồn bã biết như vậy. Thời gian họ yêu nhau có lẽ đã từ rất lâu rồi, cũng có quá nhiều vấn đề, thậm chí cô cũng không hiểu tại sao họ chưa từng rời bỏ nhau. Cô cũng rất muốn biết đáp án bí mật đó là gì.
Tại lễ đường, Văn Tử và Tiểu Hùng đứng trên bục, họ giống như hai diễn viên, trong khung cảnh này chỉ cần mỉm cười là được.
Thanh mai trúc mã, cụm từ nghe mới đẹp làm sao, hai người cứ vậy không thể tách rời, cho dù có khác biệt như thế nào cũng sẽ luôn song hành với nhau. Văn Tử biết họ rất yêu nhau nhưng “yêu” không phải là tất cả.
Bạch Bì là nhân chứng lâu dài nhất cho mối tình của họ, trong đêm tiệc kết hôn cô có bài phát biểu chúc mừng cô dâu chú rể. Bạch Bì nhìn Văn Tử, rồi nhìn Tiểu Hùng, cô có chút căng thẳng hít một hơi thật sâu rồi nói:
“Mình đã từng nghĩ rằng tìm một người mình yêu là phải tìm kiếm một nửa giống như mình, có lẽ chính vì vậy mà đến giờ mình vẫn còn đơn độc. Mỗi khi nhìn vào hai cậu, mình luôn cảm thấy các cậu thật khác biệt, sao có thể đi cùng nhau quãng đường dài đến như vậy. Mình vô cùng hy vọng các cậu sẽ mãi yêu thương nhau, nếu không còn yêu nhau nữa cũng không ngần ngại chia xa. Có lẽ hôm nay không phải là một ngày thích hợp để nói về sự “chia xa”... hạnh phúc nhé.”
Như có một tia sét xuyên qua tâm trí Văn Tử, cô ngạc nhiên há hốc miệng. Ký ức về bộ phim đen trắng mà cô đã cùng xem với Tiểu Hùng trên đảo Xương Rồng chợt ùa về. Cô vẫn còn nhớ như in hai hàng chữ cuối cùng:
“Từ nay về sau, họ sẽ sống bên nhau thật hạnh phúc.
Mọi người hãy cùng vỗ tay chúc phúc cho bi kịch của họ”.