Chương 8 NHÁNH CÂY BỊ ĐÁNH MẤT
Đó có lẽ là truyền thuyết duy nhất trong cuộc đời cô, nhưng lại là điều mà chẳng thể dùng ngôn từ để diễn đạt.
Đông Quân ngồi trên chiếc xô pha da, lặng lẽ xoay chiếc ly trong tay, đầu ngón tay cái nhẹ nhàng lau đi lớp son mỏng dính trên miệng ly. Thật ra cô cũng chẳng có lời gì cần nói với Thoái Tồn.
Giống như vài năm sau khi cô đang ngồi ăn sáng bên cửa sổ, người cha già vẫn có thói quen bóc cho cô một quả trứng luộc rồi nói:
“Hình như bọn trẻ trong khu có dự định tổ chức một buổi liên hoan trước khi nơi này bị tháo dỡ. Người giáo viên như con có tham gia không?”
Giây phút ấy cô chẳng biết phải nói gì, chỉ biết tách lòng trắng trứng ra chấm vào đĩa nước sốt giấm. Điều đáng ghét nhất chính là sau khi lớn lên, những đứa trẻ năm nào đã tường tận mọi chuyện xưa cũ, nhưng khi chạm mặt nhau chẳng ai chịu nói ra mà chỉ ngầm hiểu là vậy. Cũng giống như lòng đỏ trứng nghẹn trong họng, tiếp tục nuốt xuống thì khó thở mà nôn ra thì ghê tởm.
Những đợt gió tháng Mười Một khiến sóng biển dập dềnh hết lớp này đến lớp khác, những hàng cây nhiệt đới đổ dạt về một phía, bầu trời âm u xám xịt và mờ ảo. Khung cảnh này làm cô nhớ đến nơi mình đã từng sống thời thơ ấu. Đó là một quốc đảo trải dọc đường xích đạo, những đồn điền, căn nhà trắng nằm ven bờ biển. Những ngày trời mưa liên miên, khung cảnh bên ngoài cửa sổ cũng y chang vậy. Cô nhớ đến nhánh cây đã ném xuống biển sâu, cũng nhớ đến lời nói duy nhất với Thoái Tồn: “Càng là những điều có vẻ dễ dàng ngay trước mắt thì càng không thể sơ suất đưa tay ra nắm lấy. Bởi vì càng dễ thì càng nguy hiểm.”
Tuổi thơ của bạn có từng được tô vẽ bởi những lời nói dối? Có hay không có? Đông Quân cắn từng miếng sô cô la, sô cô la chính là nỗi nhớ nhà của cô, là từng lời cô muốn nói với mọi người.
Cô chưa từng nói dối, tuổi thơ của cô giống như hạt ca cao chui qua lưới, lăn lóc tự do trong đồn điền khổng lồ, chạy nô đùa dưới gốc cây cao lớn, bốn mùa ánh nắng xuyên qua những tán cây tỏa rộng xanh mướt, lốm đốm rơi trên mái tóc đen của cô. Khi những người công nhân thu hoạch ca cao, cô ngồi một bên chăm chú quan sát.
Đồn điền rộng lớn nơi cô chưa bao giờ đi hết này thuộc về một cặp vợ chồng người Anh, ba cô là quản gia đồn điền còn mẹ cô làm đầu bếp. Đông Quân sinh vào tháng Mười, khoảng thời gian mà đồn điền bận rộn nhất. Cái tên Đông Quân cũng là do chủ đồn điền đặt cho cô. Ông chủ là một người rất am hiểu tiếng Trung nói, “Ở phương Đông, quân tử là một từ rất hay và ý nghĩa, vì vậy ông đặt tên cô là Đông Quân.”
Vợ chồng chủ đồn điền không có con nên coi Đông Quân như con gái. Cô có thể tự do đi lại hết căn phòng này đến căn phòng khác, cũng có phòng ngủ của riêng mình. Bà chủ thường đưa cô cùng đi dã ngoại, đi đánh tennis, cho cô tiền tiêu vặt và những bộ váy mới. Có lần cô nhìn thấy trên bàn trong phòng ngủ của họ cắm một nhánh cây lạ, liền thuận tay lấy đi mà không hề nghĩ ngợi.
Đông Quân chưa từng thấy qua bất cứ chiếc lá vàng nào trên hòn đảo đầy nắng với cây cối xanh mướt này, nhưng trên nhánh cây ấy lại có vài chiếc lá chỉ cần dùng tay chạm nhẹ đã rụng xuống đất. Cô cầm nhánh cây chạy ra sau nhà đào vỏ sò, cứ đào cứ đào rồi nhánh cây gãy đôi, Đông Quân tiện tay ném xuống biển sâu.
Không ngờ rằng đến bữa ăn tối bà chủ bỗng đi tìm nhánh cây. Đông Quân muốn thừa nhận nhưng sự nghiêm túc của bà khiến cô sợ hãi. Bà chủ hỏi tất cả những người làm đã ra vào phòng ngủ, để ba Đông Quân lục tung phòng ngủ nhưng cũng chẳng thấy. Bà cho rằng người chồng đã lén vứt nhánh cây nên cả hai đã xảy ra một cuộc cãi vã dữ dội.
Ba Đông Quân hỏi cô có thấy nhánh cây đó không, cô lắc đầu. Nhưng khi mẹ cô giặt quần áo vào đêm hôm ấy phát hiện trong túi cô có một chiếc lá khô. Ba mặc kệ cô khóc đến run rẩy tím tái, xách tay cô đến trước mặt ông bà chủ. Hai người họ chỉ thở dài nhưng cũng không có ý định trách mắng con trẻ, bà chủ thậm chí còn ngồi xuống cạnh cô dịu dàng xin lỗi cô, tự trách đã làm cô sợ hãi. Nhưng ba cô không thể tha thứ cho cô chuyện này, đêm hôm ấy ông nhốt cô vào phòng kho, dù cô có gào khóc đến mấy cũng không chịu mở cửa.
Trong phòng kho không có cửa sổ, đến ánh trăng và sao cũng bị ngăn cách bên ngoài lớp tường ẩm mốc, chỉ có ánh đèn treo trên cao là chỗ dựa duy nhất của cô. Gào khóc khiến Đông Quân kiệt sức nhưng cô lại chẳng muốn ngủ, hoặc là không dám ngủ, cô chỉ có thể thu mình ngồi dưới ánh đèn đợi đêm dài qua đi, đợi đến khi lấy lại được tự do.
Nhưng chỉ ngồi thôi cũng khiến cô sợ hãi, vì vậy cô đi loanh quanh trong căn phòng đầy những đồ đạc lỉnh kỉnh, tự nói chuyện với chính mình để xua tan đi sự tĩnh lặng đáng sợ trong căn phòng.
“Đây là cái gì thế?”
“Tôi không biết.”
“Kia là máy thu thanh đã hỏng…”
Cô lục tìm trong đống đồ cũ kỹ một chiếc đàn ghi ta và tìm thấy trong thùng đàn một cuốn sách dày cộp.
Sao lại có sách ở đây được chứ? Ông chủ nhất định sẽ không bao giờ để sách trở thành rác như vậy, cho dù cuốn sách quá cũ hãy rách hỏng ông cũng sẽ dành thời gian để sửa lại từng chút một. Huống chi đây là một cuốn sách có bìa làm bằng da bò rất tinh xảo.
Đông Quân lấy hơi thổi thật mạnh lớp bụi trên mặt bìa, từng lớp từng lớp bay đi như những mảnh vụn thời gian. Cô thuận tay lật mở từng trang sách nhưng chẳng có bất cứ một chữ nào trên trang giấy úa vàng, chỉ thấy xuất hiện một hình vẽ được in bằng mực màu đen. Hình vẽ ấy là một cô bé đang ném một cành cây khô xuống biển cả, Đông Quân cảm thấy có chút quen thuộc, nghi ngờ lật sang trang tiếp theo. Vẫn là cô gái ấy đang ngồi dưới bóng đèn xem một cuốn sách dày cộp. Hình ảnh ấy vừa đập vào mắt, Đông Quân mơ hồ nhận ra gì đó rồi giật bắn mình, “Là bản thân mình sao?” Cô tò mò tiếp tục giở những trang tiếp theo, một cây thánh giá cắm trên mặt đất, bên cạnh là một cái cây cao lớn.
Nhìn thấy một cây thánh giá một mình vào đêm tối trong kho như vậy quả khiến người ta sợ hãi, Đông Quân vội gấp cuốn sách lại nhưng rồi lại chẳng thể kìm được sự tò mò của bản thân, loay hoay một hồi cô vẫn mở cuốn sách ra. Thế nhưng những hình vẽ ban nãy đã biến mất, chỉ còn lại những trang sách trống.
Cô lật mở hết tất cả những trang sách, thậm chí đóng lại rồi mở ra, xoay ngược lại cuốn sách nhưng vẫn chẳng có gì xuất hiện, cả cuốn sách trống trơn.
Đông Quân cẩn thận xem đi xem lại tất cả các trang sách từ đầu đến cuối, thậm chí nỗi sợ hãi ban đầu của cô đã nhường chỗ cho sự tò mò.
“Liệu có phải khi nãy là ảo giác?”
Sau này lớn lên cô thường nghe mọi người nói: “Trên đời này ngoài bản thân mình ra tuyệt đối không thể tin tưởng một ai khác.” Nhưng cô nghĩ: “Con người đôi khi đến bản thân mình cũng khó có thể tin tưởng hoàn toàn.”
Cô tự tìm một lý do hợp lý cho bản thân mình như đói quá hoa mắt, buồn ngủ quá hoa mắt. Đông Quân tự hỏi không biết ngày mai ba cô có nguôi giận hay không. Nghĩ như vậy rồi cô lại vô thức mở cuốn sách ra, không ngờ có một bức hình mới, trong hình là một cô bé đang ăn bánh, bên cạnh là một người lớn đưa cho cô bé xem một bức ảnh. Đông Quân đóng “phập” cuốn sách lại, hít một hơi thật sâu rồi lại mở cuốn sách ra, hình bên trong lại biến mất.
Trầm mặc một hồi lâu, Đông Quân bỗng ném cuốn sách sang một bên như thể bị bỏng tay, quay lưng lại không dám nhìn nó nữa. Suốt thời gian còn lại của cả đêm, cô run rẩy khóc thút thít rồi chìm dần vào giấc ngủ.
Sáng sớm hôm sau, ba cô mở cửa phòng kho, ánh mặt trời rọi thẳng lên khuôn mặt cô một cách đột ngột như lưỡi dao sắc bén, cô dụi mắt ngồi dậy nhất thời chẳng hiểu chuyện gì xảy ra.
Ba đưa tay đỡ cô dậy thở dài nói: “Sau này nếu không phải đồ của mình, con nhất định không được động vào, kể cả những đồ vật nhỏ không đáng tiền. Bây giờ chúng ta đi xin lỗi bà chủ có được không?” Đông Quân mơ hồ gật đầu, rồi bàn tay to và thô của ba dẫn cô đến căn phòng trắng.
Bà chủ gọi cô đến bàn ăn, đưa cho cô một miếng bánh kem sô cô la cô thích ăn nhất và một cốc ovaltine. Bà cười dịu dàng nhìn cô, nụ cười của phu nhân làm Đông Quân cảm thấy vô cùng có lỗi. Cô khóc rồi nói: “Con xin lỗi, con sai rồi, con không biết nhánh cây đó lại quan trọng như vậy, con không biết…”
“Không trách con.” Bà chủ thở dài rồi đưa tay vén mái tóc lòa xòa của cô ra sau tai.
“Con biết không, khi chúng ta ở Anh cũng đã từng có một đứa con gái, nhưng bé ra đời chưa được một tháng đã qua đời. Chúng ta đã chôn bé bên hồ sau nhà, bên cạnh trồng một cây sồi, loại cây này chỉ có ở Anh. Sau này chúng ta chuyển đến đây, đã ba mươi năm rồi, một người bạn đã bẻ một nhánh cây trước mộ đem đến cho chúng ta, còn có một tấm ảnh. Vì vậy ta mới luôn giữ nhánh cây ấy, nhưng không sao, người còn sống mới là quan trọng nhất. Con xem, đây là cây sồi đó, ở đây không có loại cây nào có lá vàng vào mùa thu và mùa đông như vậy.”
Bà vừa nói vừa lấy một bức ảnh đưa cho Đông Quân xem. Trong ảnh là một cây thánh giá bên hồ, bên cạnh là một cây lá vàng nhìn rất duyên dáng. Ngay lúc ấy, hình ảnh trong cuốn sách cũ đêm qua chợt hiện lên trong tâm trí cô. Đông Quân ngây ngốc nhìn bức ảnh, cô nổi da gà khi nghĩ về cuốn sách. Cô không hiểu tình cảm của người lớn khi trồng cây trước một ngôi mộ nhưng cô nghĩ, cuốn sách trong nhà kho dường như biết rất nhiều câu trả lời.
Khi nào thì sẽ hiểu được những tâm tư tình cảm của người lớn, kiểu tình cảm mà sẽ trồng một cái cây trước mộ người đã mất. Nhiều năm sau khi cô mười hai tuổi, kết thúc khoảng thời gian thơ ấu của mình, mẹ bệnh rồi qua đời, hai ba con tự tay trồng một cây ca cao trước mộ mẹ. Đông Quân hái một chiếc lá rồi nhờ ông chủ làm giúp cô một chiếc bookmark và kẹp vào cuốn sách trong nhà kho.
Ôm cuốn sách đứng trên boong tàu, nhìn về phía đất liền xa xăm rồi lại nhìn bốn bề là biển rộng đến ngộp thở. Bỗng nhiên cô rất nhớ mẹ, cô không hiểu một người chết đi hay biến mất có ý nghĩa gì, cô cũng không hiểu lời ba nói “không muốn chết nơi đất khách quê người” có ý nghĩa ra sao, sau khi về nhà sẽ như thế nào? Nỗi buồn khó tả ấy khiến cô khóc òa trên boong tàu ẩm ướt, đồng thời mở cuốn sách trong tay ra.
Dưới ánh chiều tà còn sót lại, cô nhìn thấy một kiến trúc kỳ lạ vuông vức, trên đỉnh tòa nhà vuông vức ấy là dòng chữ “Rạp chiếu phim Nặc Thành”, lật sang trang tiếp theo là rất nhiều những ngọn lửa nhỏ, lại lật một trang nữa cô nhìn thấy một loại cây ăn quả cô chưa từng thấy, tò mò lật trang kế tiếp nhưng lại là một trang trống không.
Đa phần cô không hiểu được hàm ý của những bức tranh ấy nhưng từ khi có cuốn sách này, cô chưa từng phạm lỗi và chưa từng bị phạt. Mỗi khi định làm một việc gì, chỉ cần mở sách ra là có thể tìm thấy đáp án an toàn nhất.
Cô đã từng nhìn thấy cảnh cô bị nước lũ cuốn trôi, bị chó hoang trong khu cắm trại cắn, ngã từ trên cây xuống, hay tỏ tình với cậu bạn mà cô thích. Cảm tạ trời đất từ khi có cuốn sách này cô đã tránh khỏi rất nhiều điều không may.
Đông Quân mười hai tuổi, một nửa là nỗi sầu muộn vì phải rời xa đồn điền và người mẹ đã mất, một nửa đã nắm trong tay câu trả lời cho con đường phía trước nên không còn sợ hãi. Cứ như vậy cô lênh đênh trên biển một tháng trời cuối cùng cũng về đến quê hương Nặc Thành. Từ đó trở đi Đông Quân chưa từng rời xa nơi này.
Không rời đi không phải vì không có tiền hay không có tự do, Đông Quân chẳng thiếu bất cứ thứ gì. Trước khi rời đi ông bà chủ có chuẩn bị cho cô một khoản tiền rất hậu hĩnh, ba cô sau khi trở về quê cũng mở một tiệm sửa đồng hồ kinh doanh rất phát đạt. Vì vậy cho dù là rời xa Nặc Thành đến học tại một thành phố lớn hay ra nước ngoài du học, chỉ cần cô mong muốn là có thể.
Nhưng từ trước tới nay cô chưa từng mở lời nói cô mong muốn điều gì.
Đông Quân không thích Nặc Thành, so với đồn điền bất tận thì nơi đây thật đông đúc và lộn xộn. Những đường điện cũ kỹ xén dọc xén ngang bầu trời, những căn nhà xám xịt mệt mỏi chen chúc mọc lên. Cho dù là những ngày nắng thì cả thành phố lúc nào cũng khoác lên mình những đám mây vàng sẫm và ẩm thấp. Không khí ẩm ướt đặc quện trong thành phố hỗn độn, giống như chiếc áo chưa được vắt khô đã mặc lên người vậy. Mỗi khi nhớ về quá khứ cô đều đến cảng Ngư Than ngồi một mình ngắm tàu thuyền qua lại, hóng làn gió biển có lẽ cũng đã từng thổi qua đồn điền, ngắm nhìn đại dương bao la không có điểm dừng. Đông Quân thậm chí đã từng một mình leo lên đỉnh núi Tê Triều, vì nghĩ rằng có thể thấp thoáng nhìn thấy nơi mình sinh ra.
Cô đã dành nhiều năm để nghe hiểu người dân ở quê hương nói gì, có những khi tan học cô đến tiệm của ba làm bài tập về nhà, nghe ba nói chuyện với những người dân nơi đây mà cảm thấy bản thân thật lạc lõng và tuyệt vọng. Vì vậy, lý do cô muốn rời khỏi Nặc Thành có thể viết kín cả bốn bức tường. Thế nhưng năm đầu tiên học cấp hai tại Nặc Thành cuốn sách đã cho cô biết, nếu cô rời khỏi đây sẽ gặp phải động đất và sóng thần. Cũng có thể cô sẽ không chết trong những thảm họa thiên nhiên ấy, nhưng chuyện sống chết quả rất khó nói.
Dĩ nhiên, khi đó cô mới mười ba tuổi, ý muốn rời khỏi Nặc Thành thỉnh thoảng lại nảy ra trong đầu cô, nhưng đi đâu cũng sẽ gặp phải động đất, sóng thần. Cô nghĩ, “Vậy thì không đến những nơi gần biển nữa, cả đời này không đến những vùng đất gần biển là được rồi, hơn nữa cũng đâu nhất định mình sẽ chết chứ!” Tóm lại, ý nghĩ chực chờ cơ hội rời khỏi Nặc Thành của cô đã hoàn toàn “chết yểu” khi cô học lớp mười.
Năm đó, ba và cô rời khỏi đường Nam Dương bên cạnh cảng Ngư Than chuyển đến sống tại một khu dân cư nhỏ bốn tầng được xây từ những năm 70. Ngày đầu tiên chuyển đến cô đã nhìn thấy giữa hai khu nhà dân cư có một tòa nhà đang thi công. Cô hỏi ba họ xây gì vậy, ba cô nói hình như xây rạp chiếu phim đầu tiên tại Nặc Thành.
“Ba đã đến một rạp chiếu phim nào chưa?”
“Ba chưa.”
“Sau khi xây xong chúng ta có thể đến xem phim không ba?”
“Chắc là được.”
Kể từ hôm ấy ngày nào cô cũng đứng bên cửa sổ nhìn ra phía công trường. Nhìn thấy những cột trụ thép được đổ đầy bê tông rồi đóng nắp lại, rồi mặt tiền hoàn thiện, công nhân ra ra vào vào, có khi cô còn nhìn thấy họ uống bia trên đỉnh tòa nhà vào những buổi chiều tối sau khi nghỉ tay. Cứ như vậy nhìn hết cả một mùa hè, vào một ngày sau khi tan học, lần đầu tiên cô giẫm chân lên những cánh lá phượng li ti, ngẩng đầu lên nhìn thấy thấp thoáng xa xa dòng chữ “Rạp chiếu phim Nặc Thành” nhấp nháy trên bầu trời hoàng hôn giống như một bối cảnh sân khấu có phần giả tạo.
Cô chưa bao giờ nghi ngờ những câu trả lời trong cuốn sách đó, nhưng chỉ có lần này làm cô cảm thấy sợ hãi. Giây phút ấy, cô nheo mắt nhìn dòng chữ nhấp nháy phía xa xa, nhớ đến cảnh trời đất rung chuyển, sóng dữ cuộn trào và hình ảnh một cô gái mỏng manh yếu ớt đang loay hoay chống đỡ.
“Ai có thể thỉnh cầu sự may mắn từ vận mệnh cơ chứ?”, cô nghĩ rồi quyết định cả đời sẽ không rời khỏi nơi này.
Cô biết chuyện này rất kỳ lạ nhưng cũng không thể chia sẻ với bất cứ ai. Cô đã từng thăm dò cô bạn cùng bàn, “Cậu có tin vận mệnh không?” Cô gái ấy nghĩ một lúc rồi nói: “Không phải người ta thường nói vận mệnh nằm trong tay chúng ta hay sao, nên tớ nghĩ hãy cứ tin chính bản thân mình.” Cô lại hỏi, “Vậy cậu tin vào phép thuật không?” Cô bạn nói cô không tin vì điều này không khoa học.
Sau này Đông Quân thường nhớ đến câu nói “điều này không khoa học” của cô bạn cùng bàn. Đó là những năm 80 khi khoa học đang bắt đầu phát triển mạnh mẽ, cũng là khoảng thời gian mà trẻ em trong hai tòa dân cư Bắc và Nam lần lượt ra đời. Đó là những năm tháng thanh xuân của cô, nhưng cô lại chẳng hề hoài niệm. Cô ước có thể tin vào khoa học, tin vào bản thân mình như cô bạn cùng bàn đã nói.
Đông Quân đã suýt có một người bạn quan trọng. Đó là một cô bạn nhỏ nhắn chuyển từ trường khác đến ngồi trước bàn cô, có lần cô vỗ vai Đông Quân nói:
“Ai đặt tên cho cậu vậy? Đó là tên gọi của Thần Mặt Trời, nghe tuyệt quá!”
“Thần… Mặt Trời?”
“Cậu không biết sao? Khuất Nguyên đã ca ngợi Thần Mặt Trời trong bài Cửu ca - Đông Quân - như thế này: Thông tương xuất hề đông phương, chiếu ngô hạm hề phù tang. Phủ dư mã hề an khu dạ hiệu hiệu hề ký minh. Nghe mới tráng lệ làm sao!”
Cô bạn ấy đọc rất xuất thần, khiến cho Đông Quân cảm tưởng như thực sự hàng vạn tia sáng đang bao phủ lấy cô vậy.
Thì ra còn có những lời thơ đẹp như vậy, liệu có phải ông chủ đã đọc những dòng thơ ấy? Nhớ đến ông chủ lại làm Đông Quân cảm thấy u sầu. Sau khi tan học, cô bạn nhỏ dùng xe đạp chở cô đến thư viện thành phố Nặc Thành mượn cuốn Sở từ . Thì ra ba của cô bạn ấy được thuyên chuyển công tác từ thư viện tỉnh bên về Nặc Thành, và được phân cho ở tại căn phòng số 101 đơn nguyên 2, tòa phía Bắc.
Trên đường về nhà, cô bạn nhỏ đạp xe rất nhanh, đi xuyên qua những bóng phượng dày đặc, ngược chiều gió kể cho cô nghe chuyện của mình. Cô bạn nói:
“Cậu biết không, tớ chạy lên đỉnh tòa nhà trường học đốt pháo. Tớ tò mò phản ứng của mọi người khi bị dọa sợ sẽ ra sao. Tớ cũng cắt con giun ra thành mười phần, xem xem chúng có thể thực sự biến thành mười con giun hay không. Tớ viết thư cho bọn con trai rồi bị thầy chủ nhiệm phát hiện, cậu đoán xem tớ đã làm gì, tớ liền cho bức thư ấy vào miệng nuốt luôn!”
Lời kể “chiến công” của cô bạn lẫn vào trong gió ù ù đập vào tai cô như những cơn sóng biển dập dềnh. Cô bối rối mở miệng nửa ngạc nhiên nửa không biết phải đáp lại chuyện gì.
Khi chia tay, hai người hẹn nhau buổi chiều cùng xem Yellow Earth với nhân viên thư viện. Đông Quân lập tức gật đầu đồng ý, lần đầu tiên cô cảm thấy có sự kết nối với thành phố này. Sau khi ăn tối xong, Đông Quân hào hứng đứng bên cửa sổ nhìn về phía rạp chiếu phim rồi tự cười một mình. Cô cũng tò mò nhìn qua khoảng không trước rạp đến tòa phía Bắc, không biết cô bạn có nhìn thấy cửa sổ nhà mình không.
Cô đóng rèm cửa, theo thói quen mở cuốn sổ ra. Câu hỏi là liệu sau này cô có hối hận về chuyện này không? Đáp án trong sách nói cho cô biết, bọn họ sẽ trải qua một cuộc chia ly rất đau khổ, cả đời sẽ không còn gặp lại nữa. Lại là chia ly và đau khổ, giống như cuộc chia ly của cô cùng với ông bà chủ, mẹ và đồn điền. Không được!
Ngày thứ hai cô vội vã đến trường nói với cô bạn nhỏ rằng cô không thể đi xem phim được rồi, sau đó quay người chạy đi. Khi bạn đến nhà tìm cô, ba cô rất nhiệt tình đón tiếp nhưng Đông Quân thì vẫn dửng dưng. Vì vẫn muốn làm bạn nên khi ở trường cô bạn nhỏ cũng đã cố gắng kết bạn rất nhiều lần nữa, nhưng Đông Quân lúc nào cũng bày ra bộ mặt thờ ơ. Dần dần cô bạn nhỏ cũng không còn làm phiền Đông Quân nữa.
Thế nhưng cô không đem trả cuốn sách đã mượn, kể cả khi cô bạn nhỏ rời đi cùng gia đình do thuyên chuyển công tác, Đông Quân cũng không trả lại Sở từ .
Thế nhưng sau khi giữ lại cuốn Sở từ , cuốn sách gối đầu giường của cô đã hoàn toàn trống rỗng. Ban đầu cô không hiểu đã xảy ra chuyện gì nhưng sau khi hoảng sợ tìm kiếm mọi loại khả năng, cô chỉ nghĩ đến việc giữ lại cuốn Sở từ là bất thường. Vì vậy cô thử đem trả lại cuốn sách cho thư viện nhưng cũng không có tác dụng gì. Lúc này cô hoàn toàn hoảng loạn. Một thời gian dài sau đó cô sống như có đám mây nặng nề treo lơ lửng trên đầu, không thấy phương hướng, không thấy lối đi. Cô cảm thấy như mình là sinh vật mềm oặt không có xương sống, đến nỗi trước khi ra ngoài mặc bộ quần áo nào cô cũng không tự quyết định được.
Kể cả sau khi chấp nhận sự thật rằng cuốn sách sẽ không bao giờ hiển thị câu trả lời nữa, thỉnh thoảng cô vẫn mở nó ra xem. Lúc đầu cô còn có một chút hy vọng mơ hồ nhưng sau đó lại lo sợ rằng đó là điềm báo chẳng lành. Cuối cùng cô cất nó vào sâu trong tủ quần áo, nghi ngờ rằng tất cả những điều đã xảy ra chỉ là ảo ảnh.
Chỉ có điều cô sống trong ảo ảnh quá lâu nên biết rõ rằng cuộc sống thực đầy rẫy những cám dỗ và điều khủng khiếp, chỉ cần không cẩn thận là sẽ chết chắc. Có lẽ việc cô chọn ăn hoành thánh hay đậu hũ cho bữa sáng cũng khiến cho vận mệnh của cô đi theo hướng khác nhau. Bởi vì quá rõ nên làm sao có thể giả vờ lao về phía trước một cách mù quáng được đây? Cô suy đi tính lại, cuối cùng nghĩ ra một cách duy nhất đó là lấy tĩnh làm động, không chọn lựa, không thay đổi là an toàn nhất.
Nếu như nói cuốn sách cũ đã hết tác dụng ấy có còn tác động đến cô hay không, thì đó chính là sau khi cô vào học tại trường Cao đẳng Sư phạm Nặc Thành.
Đông Quân thận trọng có mối tình đầu, đối phương là nam sinh bên khoa thể dục thể thao. Một người tĩnh lặng như Đông Quân và một chàng sinh viên sôi nổi khoa thể dục thể thao giống như hai sinh vật khác loài vậy. Nhiều khi cô tự hỏi tại sao cậu ấy lại thích một người nhàm chán như mình, vì vậy cô bắt đầu học cách làm sao để bớt nhạt nhẽo hơn.
Cô đã từng cho rằng cô bạn nhỏ từng xuất hiện là một người hết sức thú vị và khác lạ, dám làm chuyện ngốc nghếch, cũng dám chịu nhiều thiệt thòi. Nhưng sau khi vào học sư phạm cô phát hiện dường như ai cũng là cô bạn thú vị, ai cũng có vô số câu chuyện vặt vãnh để kể, hơn nữa trao đổi bí mật cho nhau chính là cách nhanh nhất để kéo gần một mối quan hệ. Sau khi ký túc xá tắt đèn các cô gái vẫn không ngừng trò chuyện, còn Đông Quân thì luôn im lặng. Ngoài việc sinh ra ở một đất nước xa xôi, cô chẳng thấy bản thân mình gặp điều gì rắc rối, cũng chẳng gặp mấy chuyện rắc rối. Cô chưa bao giờ nói với ai về cuốn sách biết trước câu trả lời của mình.
Cô biết tất cả các bạn trong lớp, hàng ngày đi lấy nước giặt giũ, phơi quần áo cô đều có thể gọi tên những bạn đi ngang qua. Chỉ có điều mỗi khi tối đến, các bạn nữ túm năm tụm ba lại ăn đêm, nói cười, trò chuyện, khóc lóc, đi khiêu vũ, đi đạp xe đêm, cuối tuần lại cùng bạn trai mang theo đàn ghi ta và một chiếc radio đến bãi biển hẹn hò. Tất cả những điều đó chẳng liên quan gì đến cô, Đông Quân và những người bạn khác chỉ dừng lại ở việc biết tên nhau. Cô không biết làm cách nào để có được sự thân thiết đó.
Sau này Đông Quân phát hiện ra rằng, người có càng nhiều câu chuyện có thể là người đã thu thập được những câu chuyện từ nhiều người khác, mỗi khi kể với một ai đó họ lại thay đổi tình tiết câu chuyện đi một chút, càng ngày càng ly kỳ, càng ngày càng lý thú.
Khi cô và chàng sinh viên khoa thể dục thể thao yêu nhau, cô quyết tâm trở thành người có nhiều câu chuyện. Cô nhớ lại những thảm họa đã từng xuất hiện trong cuốn sách trả lời, cô làm cho tuổi thơ của mình phong phú không ai sánh bằng, cuộc sống đồn điền tuyệt vời hơn cả tưởng tượng, còn cả những lần suýt chết đuối trên bờ biển dưới vách đá, cùng bạn bè đi cắm trại bị chó hoang cắn, những lần trèo cây bị ngã, mắc bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng năm mười tuổi, thậm chí bị truy sát trên đường về nước cùng ba. Mỗi lần nhìn thấy bạn trai kinh ngạc và thích thú khi nghe chuyện, cô đều tự nói với bản thân mình, “Dù sao đó cũng là những điều mình có thể đã trải qua, cũng là một phần của con người mình.”
Dựa vào những câu chuyện ấy, dần dần cô đã quen biết rất nhiều bạn bè. Cô cũng đã từng bỏ nhà đi, cũng từng làm phẫu thuật, cũng từng gặp phải kẻ biến thái trong nhà vệ sinh công cộng ở núi Tê Triều. Không một ai nghi ngờ Đông Quân, bao gồm cả bản thân cô. Mỗi câu chuyện được kể đi kể lại nhiều lần cho những người khác nhau, mỗi lần lại thêm một chút tình tiết cho phong phú, mỗi lần lại chỉnh sửa một chút cho phù hợp, cuối cùng trở thành một phiên bản cố định.
Chàng sinh viên thể thao cho rằng Đông Quân giống như một cuốn sách dài vô tận, là cô gái đặc biệt nhất mà anh từng gặp. Những năm 80, khi ai ai cũng theo đuổi chủ nghĩa lãng mạn thì câu nói đó là một lời khen hết sức đáng giá của con trai dành cho con gái.
Mặc dù đã quen miệng với những lời kể nhưng cô vẫn còn ngại ngùng khi làm điều mình muốn. Chưa nói đến hôn môi, thậm chí tham gia những hoạt động gặp mặt với tư cách bạn gái cô cũng không dám. Nhưng cô lại không muốn bày ra dáng vẻ yếu đuối của mình, những chàng trai năm đó thường thích những cô gái cởi mở tự nhiên một chút. Vì vậy cô chỉ còn cách kiếm cớ trốn tránh hết lần này đến lần khác.
Nhưng cũng chẳng thể kiếm cớ mãi được, ở bên nhau được tám tháng thì cô đồng ý tham gia bữa tiệc của cuộc thi bóng rổ, chính thức được giới thiệu là bạn gái của chàng sinh viên thể thao.
Khi bắt đầu mọi người còn dè dặt ăn cơm, nói chuyện, đến khi uống được ba hiệp thì bắt đầu nói to hơn, có người chạy ra căng tin mua một bao thuốc lá. Những cô gái ở đó cũng rất thoải mái đón lấy điếu thuốc, biết hút hay không biết hút cũng nhờ rượu mà hít hà vài hơi, cùng nhau nói về tương lai xa xôi đẹp đẽ.
Bạn trai nhét vào tay cô một điếu thuốc, cô có chút ngẩn ngơ. Đông Quân nhìn đám người say xỉn xung quanh, cả những cô gái có đôi mắt lờ đờ cầm điếu thuốc hút rất tự nhiên, cô chẳng thể nào hiểu được. Lúc này cô nhìn thấy ánh lửa từ chiếc bật lửa thắp sáng nửa khuôn mặt của bạn trai, cậu châm điếu rít một hơi dài rồi phả ra từng làn khói. Ánh lửa làm cho khuôn mặt vốn đã đỏ vì uống rượu của cậu lại càng đỏ hơn nữa. Trong đốm lửa bập bùng đó bỗng đầu cô lóe lên một hình ảnh, đó là những đốm lửa cô nhìn thấy trong cuốn sách trên boong tàu ngày trở về Nặc Thành.
Cô giật mình vội dập điếu thuốc xuống bàn ăn bẩn thỉu, vội vàng đứng dậy rồi lí nhí nói, “Xin lỗi tôi phải về rồi.”
Đêm hôm ấy cô về thẳng nhà, ba cô cũng không hỏi gì nhiều bởi vì chính bản thân ông giống như nước ở trong chậu, cũng chưa từng gặp một sự cố bất ngờ nào trong đời.
Cô lục tìm trong tủ cuốn sách đã nhiều năm chưa mở ra, đúng như dự đoán nó vẫn trống rỗng. Cô bực bội ném cuốn sách sang một bên, mở tung cửa sổ, chống cằm nhìn về phía dòng chữ “Rạp chiếu phim Nặc Thành”. Cô nghe thấy tiếng hát thấp thoáng ở đâu đó, có lẽ là Hạ Quả - cô bé được nhận nuôi ở tòa phía Bắc. Cô bé thích leo trèo lên những chỗ cao để hát và thường về nhà rất muộn. Cô cảm thấy con bé rất xinh đẹp, nhưng ba cô không thấy vậy. Ba cô cũng giống như bao người khác cho rằng Diana là cô gái đáng yêu nhất trong khu. Đông Quân nghĩ, Diana chính là đứa con mà mọi phụ huynh đều mong muốn, hiểu chuyện, lễ phép, yêu thương mọi người và không bao giờ phạm lỗi.
Thỉnh thoảng lại có đám trẻ con nô đùa chạy từ trên tầng xuống. Cô gái sắp tốt nghiệp như Đông Quân đột nhiên cảm thấy có chút lo sợ, không biết cuộc đời phía trước sẽ như thế nào. Cô bị đám trẻ con đẩy sang một bên, chúng dám mạo hiểm, dám phạm lỗi trong thế giới này. Đông Quân thở dài thườn thượt, cảm thấy những câu chuyện mình thêu dệt ra thật nhàm chán và trống rỗng. Khép cửa sổ lại, cả một đêm ấy cô không thể ngủ được.
Khi mặt trời lên, cô đến trường chia tay chàng sinh viên thể thao, cảm thấy bản thân như thể đi từ vực thẳm này đến vực thẳm khác. Mặc dù cô cũng chưa bao giờ rời khỏi vực thẳm, nhưng mỗi vực thẳm lại là một trải nghiệm khác nhau. Đêm mất ngủ đó chính là ranh giới, giống như đại dương mà cô đã nôn không biết bao nhiêu lần trong một tháng nhớ đời ấy.
Ở vực thẳm mới, Đông Quân lấy lại được sự an toàn đã mất từ lâu. Cô chăm chỉ học tập, ôn luyện mỗi ngày và được phân công vào thực tập tại trường trung học cơ sở số một của Nặc Thành, sau đó được giữ lại giảng dạy. Lớp học cô dạy là lớp học sinh lên cấp ba đầu tiên ở Nặc Thành. Ngày đầu tiên của năm học mới cô nhìn thấy thằng bé nổi tiếng ngang ngược trong khu, cô hiểu đây là lớp tệ nhất trong khối.
Sau đó người ba có tiền của Thoái Tồn bắt đầu tặng quà cho giáo viên, đương nhiên có Đông Quân trong đó. Sau khi bị Đông Quân từ chối vài lần, ba Thoái Tồn bắt đầu gửi đồ ăn thức uống đến nhà cô, nói rằng không đáng tiền, chỉ là thể hiện chút tình cảm. Vì vậy khi ông ta hẹn Đông Quân đi ăn, cô chỉ còn cách mặt dày đồng ý.
Ăn ba bữa cơm, uống trà hai lần nhưng ông chưa một lần nhắc đến Thoái Tồn. Ông chỉ nói về bản thân ông, nhưng ông cũng chẳng nói về lịch sử vẻ vang của gia đình mà lại chỉ kể khổ.
“Cô giáo Đông Quân biết không? Năm đó tôi cũng là một sinh viên khoa văn, cũng làm thơ, cũng viết truyện. Nhưng làm học giả thì làm sao có tiền, mà không có tiền thì làm gì cũng khó muôn phần, ước mơ không thể đổi lấy cơm ăn.”
Đồng thời ông cũng nhắc tên một vài nhà thơ, sau đó lại kể lể về cuộc sống khốn khó không mua nổi một bao thuốc lá, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, không được cảm thông, cô đơn, v.v… Cuối cùng ông ta định nắm lấy tay Đông Quân, cô mới hốt hoảng hiểu ý, từ đó về sau không bao giờ còn gặp lại ông ta nữa. Trên đường về nhà, Đông Quân nghĩ nhiều năm sau cô cũng sẽ biến thành một bà cô già nua yếu ớt sao? Có lẽ là không nên nhưng cô cảm thấy có chút đồng cảm với ông ta, đồng cảm xong cô lại cảm thấy thật trống rỗng.
6 giờ 30 phút mỗi sáng cô đạp xe đến trường, buổi chiều sau khi tan học lại đạp xe về nhà, khi đi qua chợ cô sẽ mua một chút rau, hai ba con thay nhau nấu ăn. Thỉnh thoảng cô đến thư viện Nặc Thành mượn sách, lần nào cô cũng nhìn thấy cuốn Sở từ , danh sách mượn ở cuốn sách vẫn mãi dừng ở con số bảy chưa từng tăng lên. Dần dần cô cũng chẳng còn đến bờ biển nữa, lấy đọc thơ làm niềm vui, thơ ca làm cô nhớ đến thuở ấu thơ đầy mùi vị sô cô la, thơ ca cũng đem lại sự trống rỗng.
Trống rỗng khi soạn bài cho học sinh, trống rỗng khi xem phim, trống rỗng khi ăn cơm, trống rỗng khi nói với học sinh phải nỗ lực học tập để ra khỏi Nặc Thành ngắm nhìn thế giới, trống rỗng khi nói với chúng phải thành thật và ngay thẳng, trống rỗng khi nói vận mệnh của chúng nằm trong tay chúng.
Cô biết, người bắt học sinh nam hút thuốc tại nhà vệ sinh và thông báo lên Phó hiệu trưởng để phê bình là một ông lão hút thuốc quanh năm, thầy giáo toán bắt cặp học sinh yêu đương trong trường lại là người có mối quan hệ mập mờ với sinh viên thực tập, trong một buổi tiếp rượu công dân gương mẫu luôn giúp đỡ bọn trẻ lại lôi từng đứa ra mắng sa sả. Cô biết một ngày nào đó, khi những đứa trẻ cô dạy lớn lên, chúng sẽ nhận ra rằng tất cả đạo lý chỉ là trò bịp bợm.
Cứ tưởng rằng nửa sau cuộc đời cô sẽ lẳng lặng trôi qua như vậy, nhưng không ngờ rằng mới đi dạy được hai tháng, tin tức Thoái Tồn cưỡng hiếp Diana đã gây chấn động mọi bản tin tại Nặc Thành. Không biết kẻ vô lương tâm nào đã chụp những bức ảnh ấy rồi gửi đến hộp thư của mỗi gia đình trong khu.
Nhà trường tổ chức các cuộc họp giáo viên hết lần này đến lần khác, Đông Quân chỉ ngồi lặng lẽ cúi đầu như thể cô phải chịu tất cả trách nhiệm cho sự việc này. Tuy nhiên, nếu như một người có chủ đích muốn làm việc xấu thì ai có thể ngăn cản được cơ chứ? Cũng giống như một người muốn làm người tốt thì quyết tâm của họ cũng sẽ như vậy.
Ba Đông Quân lo lắng cho sự nghiệp dạy học vừa mới bắt đầu của cô, Đông Quân lại chẳng hề bận tâm. Điều cô tò mò là tại sao Thoái Tồn lại gây ra một chuyện mà cả hai cùng phải chịu trận như vậy.
“Bởi vì quá dễ dàng.” Ba cô vừa sửa xong một chiếc đồng hồ tinh xảo, ngẩng đầu lên nói.
“Chuyện như vậy người khác không thể làm được nhưng đối với cậu ta thì lại quá dễ dàng. Không làm như vậy mới khó.”
Đông Quân nhìn ba như bừng tỉnh trong cơn mê.
Vì vậy cô mới đồng ý lời thỉnh cầu của ba Thoái Tồn đi khuyên nhủ thằng bé. Ba cậu ta nói cậu tự nhốt mình ở trong phòng không ăn không uống, ai nói gì là ném đồ đạc. Nhưng đây không phải lý do cô đến gặp cậu ta, cô chỉ muốn nói với cậu ta lời của ba, cũng muốn hỏi cậu ta một vấn đề.
Thành phố này dường như không có mùa đông, nhưng bờ biển vào tháng Mười Một lại giống như mùa đông ở vĩ độ cao, là mùa đông mà Đông Quân chưa từng biết đến. Cô đặt chiếc cốc trong tay xuống, quay người lại thấy ba Thoái Tồn đang đẩy thằng bé vào thư phòng. Mặc dù ba cậu nói cậu không ăn không uống nhưng nhìn chẳng có vẻ gì là gầy đi, vẫn ra dáng một kẻ lưu manh, thế nhưng đằng sau vẻ mặt ấy có một điều gì đó rất bực bội, giống như quả bóng bơm khí hydro nhưng lại chẳng thể bay được.
Thoái Tồn không nhìn Đông Quân, Đông Quân nghĩ một hồi lâu rồi nói: “Cô chỉ muốn hỏi em một câu, nếu biết trước sự việc sẽ thành ra như thế này, em có còn làm như vậy không?”
“Em cũng không biết sẽ như thế nào, làm thì cứ làm thôi.”
“Nếu như em biết trước?”
“Không muốn biết trước.”
“Không muốn biết trước?”
“Ừm… biết trước sẽ sợ hãi, vậy chi bằng không biết còn hơn, em chỉ biết em thích cậu ấy.”
“Cô hiểu rồi, không sao.”
Thoái Tồn dĩ nhiên chẳng hiểu cô đang nói gì, cậu nhìn cô như thể đang hỏi, “Không phải cô đến đây để làm cái việc gọi là giáo dục em sao?”
“Nói thật với em, cô cũng chẳng hiểu đạo lý gì, những gì cô nói trên lớp chẳng có mấy câu là cô tin và làm được.”
Thoái Tồn càng trở nên nghi ngờ hơn, khuôn mặt cậu ta hiện đầy những dấu hỏi chấm.
“Thật ra cô và em đều phạm cùng một lỗi lầm, chúng ta làm hay không làm một chuyện gì đó không phải vì kết cục của nó tốt hay xấu, mà bởi vì chuyện đó quá dễ dàng. Em thích Diana, em chọn phương thức làm chuyện đó theo cách dễ dàng nhất, vì vậy xảy ra chuyện. Vậy nên đừng làm những việc quá dễ dàng nữa. Cô đi đây.”
Đông Quân nói nhưng chẳng hề nhìn thằng bé lấy một lần, thậm chí cũng chẳng vỗ vai an ủi cậu ta một cách tượng trưng. Cô lao ra khỏi phòng, cũng chẳng nói gì với ba Thoái Tồn, cứ thế lên xe đạp dọc bãi biển xuôi chiều gió. Cô biết cả đời này chỉ có Thoái Tồn là học sinh thực sự của cô, nhưng có lẽ chính cậu cũng chẳng biết điều đó. Đông Quân cười, vẫn cảm thấy trống rỗng.
Khi về đến nhà, Đông Quân phát hiện trong giỏ xe có một chiếc hộp, mở là ra một chiếc đồng hồ. Cô đưa cho ba xem, ba cô nói mau trả lại, nó đáng giá đến 80.000 nhân dân tệ. Đông Quân liền gọi điện ngay đến nhà Thoái Tồn nhưng không ai bắt máy.
Ba ngày sau cô lại đạp xe đến biệt thự ven biển nhà Thoái Tồn, căn nhà trống trơn không bóng người. Từ đó về sau cô chưa từng gặp lại Thoái Tồn, cũng chẳng hề nhìn thấy bóng dáng Diana. Tuy nhiên, chuyện này cũng ảnh hưởng đến sự nghiệp của cô một chút. Sau khi dạy hết khóa học sinh ấy, cô bị điều đến trường Trung học thực nghiệm Nặc Thành. Chỉ có một điều không thay đổi đó là trong lớp cô vẫn không ngừng có học sinh sống trong khu rạp chiếu phim, hết lớp này đến lớp khác.
Đông Quân không bao giờ có cơ hội trả lại chiếc đồng hồ. Rất nhiều năm sau, lớp của cô không còn xuất hiện đứa trẻ nào trong khu rạp chiếu phim nữa. Sau khi được sắp xếp xem mặt hết lần này đến lần khác, cô trở thành gái già kỳ quặc trong mắt mọi người, vẫn sống với ba, cùng nhau già đi. Sau khi thế kỷ mới đến, tiệm sửa đồng hồ của ba cũng đóng cửa. Đồng hồ trở thành xa xỉ phẩm, thời gian cũng vậy.
“Làm sao con biết học sinh không muốn gặp con? Trước đây ba từng nghe rất nhiều bậc phụ huynh nói con là giáo viên mà họ thích nhất, nói con xinh đẹp và dịu dàng.”
“Là con không dám gặp bọn trẻ, con xấu hổ khi gặp chúng. Bọn trẻ của hiện tại đã hiểu sự yếu đuối khi làm người lớn, con sao có thể vẫn giả làm một cô giáo gương mẫu được nữa.”
“Con bé này thật là…”
Đối với ba cô vẫn luôn là một cô bé, “Trước đó vài ngày ba có nghe nói, sau khi Thoái Tồn xảy ra chuyện được vài năm thì ba thằng bé bị bắt vì tội buôn lậu số lượng lớn. Không biết thằng bé Thoái Tồn sau này ra sao?”
Đông Quân ngẩn người, lặng lẽ cúi đầu, “Người đã lâu không gặp, mỗi khi nghe nói đến đều là đã qua đời…” Sau khi ăn sáng xong, Đông Quân về phòng lấy giáo án dùng vào buổi sáng. Cô mở ngăn kéo ra, vô tình lật úp chiếc hộp đồng hồ không thể trả lại, bên dưới in một bài thơ của Neruda [*] :
Nỗi buồn của chúng ta sẽ tan ra: linh hồn sẽ
xuyên qua những làn gió, nơi ở của chúng ta cũng sẽ
được dọn dẹp sạch sẽ với những chiếc bánh mỳ thơm ngon trên bàn…
Đóng ngăn kéo lại, Đông Quân cầm lầy chiếc ba lô to và chìa khóa đi ra ngoài. Mặt trời lên, giống như mọi buổi sáng trong hơn bốn mươi năm cuộc đời cô.