TẠM NGƯNG NEW YORK, 1 THÁNG MƯỜI MỘT, 1902
Lần cuối Bailey bước vào căn lều này, Poppet đi cùng cậu, và xung quanh mịt mùng sương mù dày đặc.
Rồi, Bailey thấy thật khó mà tin được mới chỉ vài ngày trước thôi, căn lều có vẻ như vô tận. Nhưng giờ, khi không có màn sương mù bao phủ, Bailey có thể thấy những bức vách màu trắng của căn lều và mọi sinh vật trong đó, nhưng chẳng có con vật nào cử động.
Chim, dơi và bướm treo mình trong không gian như thể bị giữ bằng dây, hoàn toàn bất động. Không có tiếng đập từ những đôi cánh giấy. Không một chút cử động.
Những sinh vật khác trên mặt đất gần chân Bailey, mèo đen cuộn mình gần cáo trắng đầu bạc. Có cả những con vật lớn hơn. Ngựa vằn với những sọc màu tương phản hoàn hảo. Sư tử duỗi mình nghỉ ngơi với cái bờm tuyết. Con hươu đực với những nhánh gạc cao vút.
Đứng bên cạnh con hươu đực là một người đàn ông trong bộ vét sẫm màu.
Anh ta gần như trong suốt, như một hồn ma, hoặc hình phản chiếu trên thủy tinh. Nhiều chỗ trên bộ vét của anh ta chẳng khác nào những vệt bóng tối. Bailey có thể thấy rõ con hươu đực khi nhìn xuyên qua ống tay áo khoác của anh ta.
Bailey đang tự hỏi liệu đó có phải là ảo giác từ tưởng tượng của mình hay không thì người đàn ông đó nhìn cậu, mắt anh ta sáng bừng một cách lạ kì, dù Bailey không tài nào nhìn rõ được đôi mắt ấy màu gì.
“Tôi đã dặn cô ấy là đừng đưa cậu đến bằng cách này,” anh ta nói. “Dù đó là cách trực tiếp nhất.”
“Anh là ai?” Bailey hỏi.
“Tôi tên là Marco,” người đàn ông nói. “Cậu hẳn là Bailey rồi.”
Bailey gật đầu.
“Giá cậu đừng trẻ quá,” Marco nói. Chút gì đó trong giọng nói của anh nghe thật buồn, nhưng Bailey vẫn đang bị phân tâm bởi vẻ ngoài như hồn ma ấy.
“Anh chết rồi phải không?” cậu hỏi, bước lại gần hơn. Ở một góc khác, trong khoảnh khắc Marco trông gần như thực thể hiện hữu, và rồi lại hóa trong suốt ở khoảnh khắc tiếp theo.
“Không hẳn,” Marco đáp.
“Tsukiko đã nói cô ấy là người còn sống duy nhất ở đây biết chuyện gì đã xảy ra.”
“Tôi ngờ rằng cô Tsukiko không phải lúc nào cũng hoàn toàn thành thực.”
“Trông anh giống hồn ma,” Bailey nói. Cậu chẳng thể nghĩ ra cách mô tả nào đúng hơn.
“Với tôi trông cậu cũng thế, vậy ai trong chúng ta mới là thực?”
Bailey không biết phải trả lời ra sao, vì thế cậu hỏi câu hỏi đầu tiên hiện ra trong đầu.
“Chiếc mũ quả dưa rơi trên sân có phải của anh không?”
Trước sự kinh ngạc của cậu, Marco mỉm cười. “Quả đúng là thế,” anh nói. “Tôi đánh mất nó trước khi mọi chuyện xảy ra, vì thế nó bị rớt lại.”
“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” Bailey hỏi.
Marco ngừng lại trước khi trả lời. “Đó là một câu chuyện dài.”
“Tsukiko cũng nói y hệt,” Bailey nói. Cậu tự hỏi không biết có thể gặp Widget để được nghe kể chuyện cho ra đầu ra cuối hay không.
“Vậy thì cô ấy đã thành thực ở điểm này,” Marco nói. “Tsukiko định nhốt tôi trong vạc lửa, nguyên do cho việc đó là một câu chuyện còn dài hơn thời gian chúng ta có thể dành cho nó; nhưng một chút thay đổi trong kế hoạch dẫn đến hoàn cảnh hiện tại. Tôi đã bị tách rời rồi lại được hồi lại trong một trạng thái kém tập trung hơn.”
Marco chìa tay ra và Bailey tiến lại gần để chạm vào nó. Những ngón tay cậu xuyên qua không dừng lại, nhưng có một lực cản nhẹ, một cảm giác rằng có thứ gì đó đang chiếm lĩnh không gian, mặc dù không hoàn toàn rắn chắc.
“Đây không phải ảo giác hay chiêu trò pháp thuật,” Marco nói.
Bailey nhíu mày suy nghĩ, nhưng sau một lát cậu gật đầu. Poppet đã nói chẳng có gì là không thể, và cậu phát hiện ra mình đang bắt đầu tin như thế.
“Tôi không tương tác với môi trường xung quanh trực tiếp như cậu,” Marco nói tiếp. “Cậu và mọi thứ ở đây trông đều không thực từ góc nhìn của tôi. Có lẽ dịp nào đó chúng ta sẽ nói kĩ hơn về điều này. Hãy đi theo tôi.” Anh ta xoay người và bắt đầu bước về phía sau căn lều. Bailey đi theo, bước vòng qua những con thú. Thật khó tìm chỗ đặt chân, nhưng Marco ở phía trước cậu lướt đi không chút vất vả.
Bailey mất thăng bằng khi vòng qua một con gấu Bắc cực nằm sấp. Vai cậu va vào một con quạ lơ lửng trong không trung. Con quạ rơi xuống đất, đôi cánh gãy gập lại. Trước khi Bailey có thể nói được gì, Marco tiến tới nhặt con quạ lên, xoay nó trong hai bàn tay. Anh ta điều chỉnh đôi cánh gãy và đưa tay vào bên trong, vặn cái gì đó nghe lách cách. Con quạ xoay đầu và bật ra tiếng “quạ quạ” sắc lạnh như kim loại.
“Sao anh chạm được vào chúng?” Bailey hỏi.
“Tôi vẫn đang tìm hiểu nguyên lý để tương tác với các vật thể,” Marco nói, duỗi thẳng đôi cánh quạ, để nó loạng choạng bước trên cánh tay mình. Nó vỗ vỗ đôi cánh giấy nhưng không bay được. “Có lẽ có liên quan tới việc tôi đã tạo ra chúng. Những nguyên tố của rạp xiếc mà tôi đã tham gia vào quá trình kiến tạo có vẻ hữu hình hơn.”
Con quạ nhảy xuống bên một đống vảy bằng giấy có cái đuôi uốn cong trông như từng là một con rồng.
“Thật kỳ diệu,” Bailey thốt lên.
“Tất cả là giấy và bánh răng, được phủ lên những bùa chú khá đơn giản. Học qua chút ít cậu cũng có thể làm được.”
Chưa bao giờ trong đầu Bailey xuất hiện ý nghĩ rằng cậu có thể tự mình làm ra những thứ như thế, nhưng khi được nghe một cách giản đơn và thẳng thắn đến vậy, có vẻ như điều đó dễ ngoài sức tưởng tượng.
“Chúng ta đang đi đâu thế?” Bailey hỏi khi họ tiến tới phía xa của căn lều.
“Có người muốn nói chuyện với cậu,” Marco nói. “Cô ấy đang đợi ở Cây Ước; có vẻ đó là nơi ổn định nhất.”
“Tôi không nhớ đã từng thấy Cây Ước,” Bailey nói, cẩn trọng với từng bước đi khi hai người tiến về phía bên kia căn lều.
“Không phải tự dưng mà thấy được,” Marco nói. “Trái lại, nó chỉ xuất hiện khi được cần tới. Một trong những căn lều tôi rất thích. Cậu có thể lấy một cây nến trong hộp ở lối vào và châm lửa từ một cây nến khác đang cháy dở trên cây. Ước nguyện của cậu được nhóm lên từ điều ước của một ai đó.” Họ đã tới được bức vách của căn lều, và Marco chỉ vào kẽ hở trên tấm vải, một hàng ruy-băng thắt nơ mơ hồ làm Bailey nhớ lại lối vào căn lều của Widget với đầy những chai lọ lạ lùng. “Nếu bước ra từ đây, cậu sẽ thấy lối vào căn lều nghệ sĩ nhào lộn phía bên kia đường. Tôi ở ngay phía sau cậu, dù có thể cậu sẽ không nhìn thấy tôi cho tới khi chúng ta lại vào bên trong. Hãy... hãy bảo trọng nhé.”
Bailey tháo những chiếc nơ ra và trượt ra ngoài căn lều một cách dễ dàng, nhận ra mình đang đứng trên con đường ngoằn ngoèo giữa các căn lều. Bầu trời trên cao xam xám nhưng sáng sủa, dù cho trời bắt đầu mưa lất phất.
Căn lều nghệ sĩ nhào lộn hiện ra cao hơn hẳn những căn lều xung quanh và tấm biển ghi dòng chữ THÁCH THỨC TRỌNG LỰC đung đưa ngoài lối vào chỉ cách vài bước chân.
Bailey đã ở trong căn lều này vài lần, cậu biết sàn diễn mở với những nghệ sĩ treo mình trên cao.
Nhưng khi bước qua cánh cửa cậu không bắt gặp không gian rộng mở mà mình vốn hình dung.
Cậu đang bước vào một bữa tiệc. Một lễ kỉ niệm đã bị đóng băng tại chỗ, tạm ngưng giống hệt những cánh chim giấy lơ lửng trong không trung.
Có cả chục nghệ sĩ biểu diễn trong khắp căn lều, tắm trong ánh sáng tỏa ra từ những bóng đèn tròn rực rỡ được mắc phía trên đám dây thừng, ghế và những cái lồng tròn. Một số đứng thành nhóm hay cặp, số khác lại ngồi trên gối, các khối hộp và những chiếc ghế, điểm thêm sắc màu cho đám đông có tông đen trắng chủ đạo. Và mỗi dáng hình đều tuyệt đối im lìm. Bất động đến mức dường như họ thậm chí còn không thở. Giống hệt các pho tượng.
Một người gần Bailey có cây sáo trên môi, nhạc cụ lặng ngắt trên ngón tay anh ta.
Người khác đang rót rượu, chất lỏng lơ lửng phía trên miệng ly.
“Lẽ ra chúng ta nên đi vòng,” Marco nói, anh xuất hiện như cái bóng bên cạnh Bailey. “Tôi đã để mắt đến họ hàng giờ đồng hồ và họ chẳng bớt phiền toái đi chút nào.”
“Họ bị sao thế?” Bailey hỏi.
“Không sao cả, theo những gì tôi biết được,” Marco trả lời. “Toàn bộ rạp xiếc đã được tạm ngưng để chúng ta thêm thời gian, vì thế...” Anh nâng một bàn tay lên và vẫy về phía đám tiệc.
“Tsukiko là một phần của rạp xiếc và cô ấy đâu có thế này,” Bailey nói, vẻ băn khoăn.
“Tôi tin rằng cô ấy có luật chơi riêng,” Marco nói. “Đi lối này,” anh nói thêm, tiến vào đám đông.
Định vị đường đi qua bữa tiệc hóa ra còn khó hơn cả đi vòng quanh những con thú giấy, Bailey bước từng bước cực kì cẩn trọng, sợ rằng chuyện gì đó có thể xảy ra nếu cậu vô tình va vào ai đó giống như cậu đã làm rơi con quạ. “Gần tới nơi rồi,” Marco nói khi họ len lỏi quanh một nhóm người tụ lại thành một đường tròn khuyết.
Nhưng Bailey dừng lại, nhìn chằm chằm vào dáng hình mà nhóm người đó đang quay mặt vào.
Widget mặc trang phục biểu diễn nhưng chiếc áo khoác chắp vá của cậu đã được cởi bỏ, áo vét khoác hờ ngoài sơ-mi màu đen. Hai bàn tay cậu đang giơ lên không trung, cử chỉ quá đỗi thân quen đến mức Bailey có thể nhận ngay ra cậu ấy đã bị ngưng lại ngay giữa tiết mục. Poppet đứng cạnh anh trai. Cô quay đầu về phía sân, như thể thứ gì đó lôi kéo sự chú ý của cô khỏi anh trai mình vào đúng khoảnh khắc cả bữa tiệc trở nên bất động.
Mái tóc cô bung ra phía sau, sóng tóc đỏ bồng bềnh trong không trung giống như cô đã bị ngưng lại dưới nước.
Bailey bước vòng qua để đối diện với Poppet, rụt rè vươn tay ra chạm vào tóc cô. Nếp tóc lay động dưới những ngón tay cậu, khẽ bồng bềnh trước khi trở lại trạng thái bất động.
“Cô ấy có nhìn thấy tôi không?” Bailey hỏi. Đôi mắt Poppet vẫn trong veo. Cậu hi vọng cô sẽ chớp mắt lấy một lần nhưng không hề.
“Tôi không biết,” Marco nói. “Có lẽ, nhưng...”
Trước khi anh kịp nói hết suy nghĩ, một trong những chiếc ghế đang lơ lửng phía trên họ rơi xuống, những thanh gỗ gãy rời. Suýt chút nữa nó trúng vào Widget khi nện xuống mặt đất, bắn ra thành những mảnh nhỏ. “Chết tiệt,” Marco nói khi Bailey nhảy về phía sau, suýt chút nữa va vào Poppet và khiến tóc cô một lần nữa gợn sóng chuyển động. “Qua đằng kia,” Marco nói, chỉ về phía hông lều cách đó một quãng. Rồi anh biến mất.
Bailey quay lại nhìn Poppet và Widget. Tóc Poppet đã ở vị trí cứng đờ như cũ. Vụn từ chiếc ghế rơi vương trên đôi ủng của Widget.
Xoay người, Bailey cẩn trọng di chuyển quanh những dáng hình như tượng để tới phía mép căn lều. Cậu lo âu liếc mắt nhìn lên những chiếc ghế khác và những lồng sắt tròn chỉ được treo bằng dải ruy-băng đã xổ ra như sắp đứt.
Ngón tay Bailey run rẩy khi cậu tháo những nút thắt trên bức vách.
Ngay khi bước qua, cậu cảm thấy như mình vừa đi vào một giấc mơ.
Phía trong căn lều nối tiếp có một cái cây cao vút. Hùng vĩ hệt như cây sồi già của cậu, vươn thẳng từ đất lên. Những cành đen trơ trụi được phủ kín bởi những cây nến trắng đang chảy sáp, hàng lớp sáp trong suốt đóng trên vỏ cây.
Chỉ một phần các ngọn đến đang cháy, nhưng khung cảnh không hề kém phần tráng lệ khi ánh sáng chiếu rọi những cành đen vặn xoắn, dập dờn hắt bóng lên những bức vách kẻ sọc.
Phía dưới tán cây, Marco đứng đó, vòng tay anh bao quanh một phụ nữ mà Bailey lập tức nhận ra là ảo thuật gia.
Cô ấy cũng trong suốt như Marco. Chiếc váy dài của cô trông hệt như sương dưới ánh nến.
“Chào Bailey,” cô nói khi cậu tiến tới. Giọng cô vang vọng quanh cậu, nhẹ nhàng, gần gụi như thể cô đang đứng ngay cạnh, thì thầm vào tai cậu. “Tôi thích khăn của cậu,” cô nói thêm khi cậu chưa đáp lại ngay. Những từ ngữ trong tai cậu ấm áp và dễ chịu lạ kì. “Tôi là Celia. Tôi không nghĩ là chúng ta đã được chính thức giới thiệu với nhau.”
“Hân hạnh được gặp chị,” Bailey nói.
Celia mỉm cười, và Bailey sửng sốt bởi cô dường như thật khác với lúc cậu xem cô biểu diễn, điều đó thậm chí đáng sửng sốt hơn cả việc cậu có thể nhìn xuyên qua cô thấy những cành cây thẫm màu ở phía sau.
“Sao chị biết tôi sẽ đến đây?” cậu hỏi.
“Poppet từng nói rằng cậu là một phần trong chuỗi sự kiện đã xảy ra, vì thế tôi đã mong cậu thực sự sẽ tới.”
Khi tên Poppet được nhắc tới, Bailey liếc qua vai nhìn về phía bức vách căn lều. Bữa tiệc bị ngưng lại kia dường như xa xôi hơn, không giống như chỉ ở phía bên kia tấm vải bạt.
“Chúng tôi cần cậu giúp một việc,” Celia nói tiếp khi cậu quay lại. “Chúng tôi cần cậu tiếp quản rạp xiếc.”
“Gì cơ?” Bailey hỏi. Cậu không biết mình trông đợi gì, nhưng không phải là việc này.
“Ngay bây giờ rạp xiếc cần một người chăm sóc mới,” Marco nói. “Nó đang trôi đi, giống như con tàu không mỏ neo. Cần có ai đó neo nó lại.”
“Và ai đó là tôi ư?” Bailey hỏi.
“Chúng tôi mong là vậy,” Celia nói. “Nếu cậu sẵn lòng cam kết. Chúng tôi sẽ trợ giúp cậu, Poppet, Widget cũng sẽ giúp đỡ, nhưng trách nhiệm thực sự sẽ là của cậu.”
“Nhưng tôi không... đặc biệt,” Bailey nói. “Không giống như họ. Tôi có phải là kẻ quan trọng gì đâu.”
“Tôi biết,” Celia nói. “Đây không phải là định mệnh của cậu. Giá mà tôi có thể nói với cậu rằng cậu là người được chọn, nếu như điều đó khiến mọi việc trở nên dễ dàng hơn, nhưng không phải vậy. Cậu đã ở đúng nơi vào đúng thời điểm, và cậu có bầu nhiệt huyết để làm những việc cần làm. Đôi khi như thế là đủ.”
Khi quan sát trong ánh sáng chập chờn, đột nhiên Bailey sửng sốt nhận ra Celia già hơn rất nhiều so với vẻ bề ngoài, và Marco dường như cũng vậy. Giống như nhận ra ai đó trong một bức ảnh vào lúc người ta không còn ở cái tuổi khi bức ảnh ấy được chụp, và vì thế họ dường như trở nên xa xôi hơn. Có cảm giác bản thân rạp xiếc cũng thật xa xôi, dù cậu đang đứng trong nó. Như thể nó đang rời xa khỏi cậu.
“Được thôi,” Bailey nói, nhưng Celia giơ bàn tay trong suốt của mình lên ngăn cậu lại trước khi cậu đồng ý.
“Hượm đã,” Celia nói. “Việc này quan trọng. Tôi muốn cậu có được điều mà không ai trong hai chúng tôi thực sự có. Tôi muốn cậu được quyền lựa chọn. Cậu có thể đồng ý với tất cả hoặc có thể ra đi. Cậu không có nghĩa vụ phải giúp, và tôi không muốn cậu cảm thấy như thế.”
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi ra đi?” Bailey hỏi.
Celia ngước nhìn Marco trước khi cô trả lời. Họ chỉ nhìn nhau không nói lời nào, đắm đuối đến mức Bailey phải đưa mắt đi chỗ khác, ngước lên những cành cây vặn xoắn.
“Rạp xiếc sẽ không còn nữa,” lát sau Celia nói. Cô không giải thích gì thêm, quay lại với Bailey, nói tiếp. “Tôi biết thế này là đòi hỏi rất nhiều từ cậu, nhưng tôi không còn biết hỏi ai nữa.”
Đột nhiên những ngọn nến trên cây bắt đầu run rẩy. Vài thân nến tối dần, những vòng khói thế chỗ ngọn lửa sáng trong chốc lát trước khi biến mất dạng.
Celia lảo đảo. Trong khoảnh khắc Bailey nghĩ cô sẽ ngất xỉu mất, nhưng Marco giữ cho Celia đứng vững.
“Celia, em yêu,” Marco nói, lùa bàn tay qua tóc cô. “Em là người mạnh mẽ nhất mà anh đã từng biết. Em có thể gắng thêm chút nữa, anh biết là em có thể mà.”
“Thật xin lỗi,” Celia nói.
Bailey không biết cô đang nói với ai.
“Em không có lỗi gì cả,” Marco nói.
Celia nắm chặt tay anh.
“Chuyện gì sẽ xảy ra với hai người, nếu như rạp xiếc... ngừng hoạt động?” Bailey hỏi.
“Thành thực mà nói, tôi hoàn toàn không biết nữa,” Celia đáp.
“Không có gì tốt cả,” Marco lầm bầm.
“Hai người cần tôi làm gì nào?” Bailey hỏi.
“Tôi cần cậu kết thúc một việc tôi đã bắt đầu,” Celia nói. “Tôi... tôi đã hành động rất bột phát và tùy tiện chơi những quân bài của mình. Và giờ còn cả vấn đề về vạc lửa nữa.”
“Vạc lửa làm sao ư?” Bailey hỏi.
“Hãy coi rạp xiếc như một cỗ máy,” Marco nói. “Vạc lửa là một trong những thứ truyền năng lượng cho nó.”
“Có hai điều cần xảy ra,” Celia nói. “Thứ nhất, vạc lửa cần phải được thắp sáng. Việc đó sẽ... truyền năng lượng cho một nửa rạp xiếc.”
“Thế còn nửa kia?” Bailey hỏi.
“Nửa đó phức tạp hơn,” Celia nói. “Tôi mang nó bên mình. Và tôi sẽ phải trao lại cho cậu.”
“Ồ...”
“Sau đó cậu sẽ mang nửa còn lại ấy bên mình,” Celia nói. “Mãi mãi. Cậu sẽ bị cột chặt với chính rạp xiếc. Cậu có thể rời đi, nhưng không được lâu. Tôi không biết liệu cậu có thể trao nó cho người nào khác không. Nó sẽ là của cậu. Mãi mãi.”
Chỉ đến lúc đó Bailey mới nhận ra tầm vóc lời cam kết mà cậu đang được đề nghị.
Không phải là vài năm gắn bó với Harvard. Cậu nghĩ thậm chí còn hệ trọng hơn cả gánh vác trách nhiệm đối với nông trại gia đình.
Cậu hết nhìn Marco rồi lại nhìn sang Celia, và từ ánh nhìn trong mắt cô, cậu hiểu cô sẽ để cậu đi nếu cậu muốn ra đi, bất kể điều đó có nghĩa thế nào với họ hay với rạp xiếc.
Cậu nghĩ tới vô vàn câu hỏi nhưng chẳng có câu nào thực sự quan trọng.
Cậu đã biết câu trả lời của mình.
Cậu đã lựa chọn khi còn là thằng nhóc mười tuổi, dưới một tán cây khác, gắn bó với những trái sồi, những lời thách thức và một chiếc găng tay màu trắng.
Cậu sẽ luôn lựa chọn rạp xiếc.
“Tôi đồng ý,” cậu nói. “Tôi sẽ ở lại. Tôi sẽ làm bất cứ việc gì chị cần tôi thực hiện.”
“Cảm ơn cậu, Bailey,” Celia khẽ nói. Những từ ngữ đọng lại trong tai xoa dịu chút căng thẳng sót lại trong cậu.
“Thêm nữa,” Marco nói. “Tôi nghĩ chúng ta nên chính thức hóa việc này.”
“Anh nghĩ thực sự cần như vậy ư?” Celia nói.
“Tại thời điểm này anh sẽ không yên tâm với một cam kết miệng,” Marco nói.
Celia cau mày trong chốc lát nhưng rồi gật đầu đồng ý, và Marco cẩn thận buông bàn tay cô ra. Cô đứng vững vàng, không còn vẻ run rẩy nữa.
“Anh muốn tôi kí cái gì ư?” Bailey hỏi.
“Không hẳn,” Marco nói. Anh lấy ra một chiếc nhẫn bạc từ bàn tay phải, nó được khắc cái gì đó mà Bailey không thể nhìn rõ trong ánh sáng này. Marco với lên một nhành cây phía trên đầu và hơ chiếc nhẫn qua một trong những ngọn nến đang cháy cho đến khi nó sáng lên, trắng và nóng.
Bailey tự hỏi ngọn nến ấy có thể là điều ước của ai.
“Tôi đã ước một điều trên cây này nhiều năm về trước,” Marco nói, như thể anh biết Bailey đang nghĩ gì.
“Anh đã ước gì?” Bailey hỏi, hi vọng đó không phải là câu hỏi quá thẳng thừng, nhưng Marco không trả lời.
Thay vào đó, anh nắm chiếc nhẫn đang tỏa sáng trong lòng bàn tay, rồi chìa tay ra với Bailey.
Bailey ngần ngại đưa tay ra, nghĩ rằng những ngón tay mình sẽ xuyên qua bàn tay Marco dễ dàng như trước đó. Nhưng không, chúng ngừng lại, và tay Marco trong tay cậu gần như rắn chắc. Marco nhoài người về phía trước và thì thầm vào tai Bailey.
“Tôi đã ước có được cô ấy,” anh nói.
Rồi bàn tay Bailey bắt đầu thấy đau. Cơn đau rõ ràng và rát bỏng khi chiếc nhẫn nóng rực lặn vào da cậu.
“Anh đang làm gì thế?” cậu cố gắng hỏi khi có thể hít thở được. Cơn đau sắc gọn và nhức nhối, rần rật qua toàn bộ cơ thể, và cậu không tài nào ngăn nổi đầu gối mình sụp xuống.
“Gắn kết,” Marco nói. “Đó là một trong những năng lực của tôi.”
Anh buông tay Bailey ra. Cơn đau lập tức chấm dứt nhưng hai chân Bailey vẫn còn bủn rủn.
“Cậu ổn chứ?” Celia hỏi.
Bailey gật đầu, cúi nhìn lòng bàn tay. Chiếc nhẫn đã biến mất, nhưng có một vòng tròn đỏ sáng cháy trên da cậu. Không cần hỏi, Bailey biết chắc chắn đó sẽ là vết sẹo cậu sẽ luôn mang theo. Cậu nắm tay lại và nhìn về phía Marco và Celia.
“Hãy cho tôi biết bây giờ tôi cần làm gì,” Bailey nói.