Chương 5 Thuốc trị bách bệnh tò mò
Nơi tốt nhất để kiếm ra tiên tí hon ở vùng Ngọn Núi chính là khu mỏ nơi chúng tôi từng đãi vàng.
Tôi bước xuyên ngôi làng đổ nát, đi qua những căn nhà hoang phế, cối xay gió xập xệ và quảng trường trống trơn. Tất cả những thứ đó xưa kia từng đầy người qua lại, ồn ào và náo nhiệt, nhưng giờ thì không còn nữa. Âm thanh duy nhất sót lại là tiếng thì thầm của những cơn gió đang thổi tung bụi bặm và lá khô. Chúng tôi hoàn toàn cô đơn ở Ngọn Núi, và điều đó chẳng nhằm nhò gì với tôi. Ngoại là tất cả những gì tôi cần.
Khu mỏ giờ khó còn có thể được gọi là mỏ nữa. Hầu hết đường hầm đều đã sụp đổ, nên bạn thậm chí còn không thể bước vào trong đó. Những chiếc xe cút kít cũ kỹ và đám cuốc chim hoen rỉ vương vãi khắp nơi trên mặt đất. Ai đó đã vứt lại một chiếc mũ. Nó bám dày một lớp bụi và bị mưa gió làm cho mục nát.
Tôi không thấy có con tiên tí hon nào, có lẽ bởi vì chẳng còn vàng nữa. Tiên tí hon mê mẩn vàng. Chúng có thể đánh hơi thấy vàng từ cách xa hàng dặm và phát điên lên mỗi khi ở gần nó. Khu mỏ này từng lúc nhúc tiên tí hon - tôi phải xua chúng đi như lũ sâu bọ. Nhưng giờ đây khi tôi muốn kiếm được một con, thì lại chẳng thấy bóng chim tăm cá.
Tôi tìm kiếm dọc theo rãnh nước, nơi bọn trẻ thường múc lên từng chảo bùn để đãi tìm vàng cốm. Hầu hết những máng nước đã hư nát và bị lật ngang ngửa. Tôi nhấc vài tấm lên khỏi mặt đất, ngó nghiêng, và cuối cùng một thứ gì đó đầy màu sắc và lấp lánh xuất hiện bên dưới một trong số đó. Một con tiên tí hon!
Cô ả đang rúc vào trong một chiếc tổ kết bằng cỏ, cành khô và những vẩy vàng vụn. Tôi lôi ra đôi găng tay da và chọc vào nó. Nó kêu ré lên và bay vọt lên trời, ngoài tầm với. Tôi nhặt mấy mẩu vàng của nó. Nó rít lên, lao thẳng xuống và ngoạm vào đôi găng tay của tôi, cắn ngập những chiếc răng nanh vào trong lớp da. Tôi thả rơi chỗ vàng, và cô ả lập tức tóm lấy nó rồi bay vụt đi lần nữa, lần này thì sớm khuất dạng. Nó để lại đằng sau một giọt nọc tiên tí hon khá lớn. Nếu nó cắn vào bàn tay trần của tôi, ngón tay tôi giờ đã to ngang ngửa một cây xúc-xích rồi. Tôi lấy chiếc ống nhỏ khỏi túi tạp dề và hớt giọt chất độc qua vành ống.
Thế! Cũng khó khăn gì lắm đâu nhỉ. Một nguyên liệu đã tìm thấy. Chỉ còn hai món nữa thôi.
***
Tôi bước dọc theo lối mòn về phía tổ ong của mình, tìm kiếm một con tiên cây. Tiên cây cũng giống như tiên tí hon, nhưng cái mình hình những nhánh cây và đôi cánh lá của bọn chúng thay đổi theo mùa - xanh biếc vào mùa xuân và hạ, ngả đỏ và cam vào mùa thu, nâu giòn vào mùa đông. Chúng ngụy trang tài tình đến nỗi người ta hiếm khi biết đến sự tồn tại của bọn chúng. Vài người thề thốt rằng cây biết nói, nhưng thật ra họ chỉ đang nghe thấy tiếng lũ tiên cây cố nhắc nhở họ một điều họ đã lãng quên. Ngoại kể rằng khi chúng ta quên mất điều gì đó, tiên cây sẽ rà soát trí nhớ của chúng ta và chăm lo đến chúng cho đến khi chúng ta nhớ ra. Hẳn là tôi đang không hề quên mất thứ gì quan trọng, bởi vì tôi chẳng hề hiểu gì từ tiếng của lũ tiên cây. Chúng chỉ là tiếng lá reo xào xạc với tôi.
Mẹo phát hiện ra tiên cây là quan sát cử động của lá cây khi một cơn gió thổi tới. Khi làn gió lay động, tất cả những chiếc lá lao xao, tất nhiên, nhưng tiên cây sẽ rời khỏi cành cây chúng đang đậu và bay sang cành khác hoặc cây khác. Bằng cách này tôi tìm được vài con trên một cây dẻ gai khổng lồ với những cành cây sà xuống thấp. Tôi rung lắc mấy cái cành cho đến khi lũ tiên cây bay xuống. Tôi vung vợt, nhưng chúng né khỏi tôi, và tất cả những gì tôi vợt được chỉ là lá cây bình thường. Tôi thử lại hết lần này đến lần khác, vung vợt nhanh nhất có thể, nhưng lũ tiên cứ lượn vòng qua đầu tôi, mỗi lúc một cao trên tán cây. Tôi quyết không để điều đó khiến mình nhụt chí.
Tôi cắn cái vợt giữa hai hàm răng và đu lên cây, làm rách toạc cái váy trong quá trình leo trèo. Cái váy đáng nguyền rủa! Tôi giật nó ra, và nó rách lên đến tận đầu gối. Lá cây reo xào xạc. Tôi có thể thề rằng lũ tiên cây đang cười nhạo mình.
Tôi với lên cành cây trên đầu và lay nó như điên, khua vợt loạn xạ khi lũ tiên nháo nhác bay lên.
“Ha! Tóm được rồi nhé!” Đúng lúc đó tôi mất thăng bằng và đánh rớt cái vợt. Nó rơi lộp bộp qua những cành cây và hạ cánh xuống mặt đất, khi tóc tôi bị vướng vào một chùm quả dẻ gai.
“Ái daaaa!” Tôi rú lên. Tôi cố giật ra, vặn vẹo theo mọi hướng, nhưng chỉ khiến mình thêm kẹt cứng. Và tất nhiên, sự vùng vẫy của tôi chỉ khiến cho lũ tiên cây hoảng hốt và bay càng xa vào trong tán cây, cười khúc khích bằng thứ ngôn ngữ bí mật của bọn chúng, trong khi tôi bị mắc kẹt trong tuyệt vọng.
Việc này không hề trôi chảy như tôi hằng dự tính.
Một con sóc nhảy qua, đi nhặt quả hạt dẻ.
“Pssst! Ê Sóc! Giúp với?” Tôi gọi, chỉ tay vào mái tóc. “Có cực nhiều hạt dẻ ngon lành bên dưới mớ rối rắm này, nếu đằng ấy giúp tớ thoát ra.”
Con sóc quan sát tôi trong một giây, rồi huyên thuyên một bài giảng về việc tôi đã tự đưa mình vào thế bí này, nên chính tôi phải tìm cách thoát ra.
Sóc là giống sinh vật rất ích kỷ, nếu bạn hỏi tôi. Chẳng chịu giúp đỡ gì sất.
Tôi thò tay vào tóc, gỡ dần từng nùi rối tinh khỏi đám gai nhọn, trong khi chúng châm chọc và cào trầy xước bàn tay tôi. Nếu có một cây kéo ở đây, tôi đã cắt béng cả mớ tóc đi cho rảnh. Hoàn toàn không phải vì tôi đang cố trông thật đặc biệt với người khác.
Với một cú giật mạnh, tôi đã thoát ra.
Và tôi cũng ngã bổ chửng.
Tôi rơi cắm đầu xuống đất. Tôi va đập vào hết cành này đến cành khác, cho đến khi chiếc mũ trùm trên áo choàng vướng phải một cành cây, kịp thời cứu mạng tôi. Chiếc áo choàng kỳ diệu!
Tôi lật người và nhảy xuống mặt đất, bình an vô sự một cách thần kỳ nhưng chẳng bắt được con tiên cây nào cả. Có lẽ leo trèo không phải cách tốt nhất để tóm được tiên cây.
Một cơn gió đưa tới, và tôi thoáng rùng mình. Những hàng cây đang thì thầm, hoặc cũng chính là lời bầy tiên cây, và rồi dạ dày tôi sôi ùng ục, gào thét đòi thức ăn. Tôi đã đi tìm tiên tí hon và tiên cây suốt cả buổi sáng rồi. Tôi biết chính xác nơi tôi phải đến để ăn trưa.
Tổ ong của tôi.
Lối mòn của tôi đột ngột trải ra theo một hướng khác hẳn. Con đường này lượn vòng và uốn quanh co men theo những hàng cây và lùm bụi, mỗi ngày một trở nên dày đặc hơn, cho đến khi nó dẫn tới một trảng trống. Một tiếng rền khe khẽ lớn dần lên theo mỗi bước chân, cho đến khi nó trở thành một điệp khúc vo ve đều đặn của hàng ngàn con ong. Một thứ âm nhạc du dương đối với đôi tai tôi.
Đây là cái tổ ong của tôi. Đây là nơi chốn tôi lui tới để suy nghĩ và được ở một mình.
Nhưng hiện thì không.
Rắc!
Có thứ gì đó ở gần tổ ong. Một cái bóng nâu nâu đang di chuyển ngay sát rìa của bầy ong. Gấu, tôi nghĩ. Gấu nghiện mật ong, nhưng chắc chắn nó không khoái mấy đứa con gái nhỏ. Tôi đứng đợi cạnh cái cây, đợi con gấu rời đi.
“Ối! Ái! Á! Mau cút điiiiiiiiiiiiiiiiii!”
Gấu cũng không ré lên bằng cái giọng lóe xóe của một đứa con gái nhỏ như thế. Tôi ló ra khỏi cái cây, ngỏng cổ để có tầm nhìn tốt hơn. Trên thực tế, đó không phải là một con gấu, mà là một con bé. Toàn thân nó trùm kín bằng một chiếc khăn san màu nâu đóng vai trò như lá chắn khỏi đàn ong.
Thật đáng nguyền rủa. Tôi thà gặp gấu còn hơn.