Chương 12 Giếng, rượu và phù thủy
Cái giếng trông chẳng nhiệm màu tẹo nào. Nó bị lấp kín bởi cỏ dại và cây kế, những viên đá xây đã nứt nẻ và vỡ vụn.
“Cậu nghĩ đây có đúng là cái giếng đó không?” Goldie hỏi.
Tôi phân vân, nhưng rõ ràng chúng tôi đã đi theo chính xác lời chỉ dẫn của tay thần lùn, và tất cả mọi thứ đều khớp với mô tả của y.
“Chỉ có một cách duy nhất để biết chắc,” tôi nói.
Tôi bước tới cái giếng và nghiêng người qua thành. Đáy giếng tối om như mực, và tôi không thể ngửi thấy bất cứ mùi gì. Tôi quay cái guồng đã han rỉ để hạ cái gàu múc nước xuống. Một tiếng tõm vang lên. Tôi kéo cái gàu lên và nhìn vào trong. Goldie thở hổn hển.
“Là rượu đấy, Red ơi! Rượu đỏ!”
Lũ tiên cây bay lượn trên nóc giếng, thì thầm một cách phấn khích. Đây chính xác là cái Giếng Rượu. Tôi cảm nhận được cái cảm giác lâm râm thường xuất hiện mỗi khi phép thuật ở xung quanh - chắc chắn thứ này sẽ giúp hồi phục lại phép thuật của bà, cũng như cuộc đời, tuổi thanh xuân...
“Cậu có nghĩ chúng mình nên uống một chút không?” Goldie hỏi.
“Tay thần lùn đã nói nó sẽ phục hồi lại tuổi trẻ,” tôi nói. “Chúng mình đều vẫn còn trẻ, nên tớ chỉ cần mang một ít về cho Ngoại thôi.”
“Làm thế nào cậu đựng được nó?” Goldie hỏi.
Tôi chưa hề tính đến việc này. Tôi không đem theo thứ gì để trữ rượu, nhưng rồi có một bầy tiên cây khác lại cuộn xoáy bay lên, và cái mà tôi vẫn tưởng là một bụi cây gần đó hóa ra lại là một căn nhà, hoặc ít nhất là những tàn tích còn sót lại của nó.
Đó là một tòa dinh thự lớn, gần như chắc chắn bị bỏ hoang. Những ô cửa chớp đã hư nát và long ra khỏi bản lề, những dây thường xuân chết bám kín khung nhà và các bức tường, và cái ống khói bằng đá chỉ còn đứng vững một nửa.
“Hình như không còn ai sống ở đó nữa,” Goldie nói.
“Phải,” tôi đáp.
“Nhưng có lẽ sẽ có một cái bình hoặc chai lọ cũ.”
“Ừ,” tôi đáp, nhưng không đứa nào trong chúng tôi di chuyển. Vài con tiên cây đậu trên mái của ngôi nhà đổ nát, khiến nó trông càng thê lương và đáng sợ hơn bao giờ hết.
“Cậu đi trước đi,” Goldie đùn đẩy.
Tôi bước chầm chậm về phía cánh cửa. Nó đã nứt nẻ và vỡ vụn. Tay nắm và bản lề chỉ còn một màu nâu han rỉ.
“Tớ nghĩ bọn mình nên gõ cửa,” Goldie nói. “Đó là phép lịch sự tối thiểu.”
“Ừ, dĩ nhiên,” tôi đáp. “Chúng mình không thể cứ thế mà bước vào nhà người khác.”
Tôi gõ nhanh mấy tiếng lên cánh cửa. Không có ai trả lời. Tôi gõ lần nữa, và cánh cửa sập vào bên trong. Những đám mây bụi mù mịt bốc lên khi nó đổ sầm xuống sàn nhà.
Tôi che miệng bằng chiếc áo choàng khi đám bụi lắng xuống. “Tớ không nghĩ đây còn là nhà của ai nữa đâu,” tôi nói.
“Có lẽ là trừ những hồn ma bóng quế,” Goldie nói.
Chúng tôi chầm chậm bước vào bên trong, những tấm ván sàn kêu cọt kẹt dưới chân. Nơi đây đã từng là một biệt thự huy hoàng. Nó trông như thể đã bị bỏ hoang từ nhiều thế kỷ trước. Mọi thứ đều bị che phủ dưới một lớp bụi bặm dày đặc từ sàn lên đến trần nhà. Tường nhà, góc nhà và những đài cắm nến đều giăng kín mạng nhện, những tấm rèm che và thảm đã bị mối gặm nham nhở.
Một chiếc bàn ăn cho hai người bày những bộ đồ sứ hảo hạng, và những chiếc ly bằng bạc và pha lê, như thể các chủ nhân vừa mới ngồi xuống dùng một bữa tối đặc biệt thì bùm! – biến mất, để mặc món thịt cứ thế ôi thiu và bám bụi.
Có cả một chai rượu, với một cái nút bần. Tôi nhấc cái chai lên khỏi mặt bàn. Nó trống rỗng. Khi tôi xoay người lại, thứ gì đó kêu sột soạt và rúc lên. Tôi nhảy lùi lại còn Goldie thì la lối ầm ĩ. Một con cú đang đậu trên mép lò sưởi. Nó quay đầu lại và nhìn chúng tôi bằng một con mắt màu hổ phách.
“Xin chào, cú,” tôi nói.
Cú! Cú! Con cú nói.
“Nó nói gì thế?” Goldie hỏi.
“Nó bảo là xâm nhập vào tư gia của người khác thật chẳng lịch sự chút nào.”
“Ờ, thế đây là nhà nó à?” Goldie hỏi.
Cú - cú - CÚ!
“Không, nó bảo cú không phải là người.”
“Ồ, phải, dĩ nhiên. Thế thì, đây là nhà ai?”
“Albert?” một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên. “Có phải ông đó không?”
Goldie và tôi đồng loạt há hốc miệng khi một bóng người xuất hiện từ góc nhà phủ mạng nhện. Đó là một người phụ nữ, gầy gò và xanh xao như sương khói. Bà ta cũng quấn kín trong bụi bặm và mạng nhện như bức tượng trang trí nhỏ bày trên giá sách. Bộ phận duy nhất có màu trên người bà là đôi môi, một màu đỏ óng ánh.
Goldie tóm chặt tay tôi. “Một con ma!”
“Ma ư?” Người đàn bà nói. “Không. Họ gọi ta là Phù Thủy Giếng, bất kể họ là ai, dù ta không thích bị gọi là phù thủy. Nghe thật là xấu xí và già nua, và ta thì không già mà cũng chẳng xấu.” Thật là khó khăn để đoán được tuổi thật của bà. Bà có hơi hướng của thứ gì đó thật cổ kính, giống như sách cũ, bụi bặm và nhàu nát ở rìa các trang. Làn da của bà giống như những trang giấy ố vàng, nhưng giọng nói lại cao và thanh, gần như trẻ thơ. Bà có thể mới đôi mươi, nhưng cũng có thể đã hàng trăm tuổi.
“Các con có nhìn thấy Albert đâu không?” Bà hỏi.
“Albert là ai ạ?” Tôi hỏi.
“Tình yêu của ta. Giờ này lẽ ra ông ấy nên về nhà rồi mới phải. Gần đây ông ấy không được khỏe, các con thấy đó, và ta có thứ rượu ngon lành nhất để phục hồi sức khỏe cho ông ấy.” Trong bàn tay bà là một chiếc ly pha lê, đã cạn nhưng vẫn còn một vũng rượu nhỏ dưới đáy, cùng màu với đôi môi bà.
“Đó có phải là rượu từ cái giếng không ạ?” Tôi hỏi.
“Phải,” người đàn bà đáp. “Đó là thứ rượu tuyệt hảo nhất.”
“Người ta bảo cháu rằng rượu này có thể khiến người ta trẻ lại,” tôi nói.
“Phải, đúng thế,” người đàn bà nói. “Khi Albert già đi và trở nên ốm yếu, ta đã dồn tất cả sức lực của mình vào việc phục hồi tuổi xuân và sức sống.”
“Và nó đã công hiệu ạ?” Tôi hỏi, cảm thấy niềm hy vọng đang quẫy đập điên cuồng trong bụng mình.
“Ồ, có chứ, như các con thấy đó, ta hãy còn trẻ măng. Ta đã trẻ trung suốt bao lâu nay.” Khi bà nói, gương mặt bà dường như có sự thay đổi. Nó rất khó nhận thấy, nhưng tôi nghĩ mũi bà hình như hơi nở lớn ra và đôi môi thì mỏng đi. Có lẽ đó chỉ là cái bóng.
“Chúng cháu có thể xin chút rượu về được không ạ?”
Người đàn bà lướt về phía cái bàn và nhặt thêm một cái ly khác. “Đi theo ta.” Bà lướt về phía cửa ra vào và đi xuyên qua cánh cửa vừa rơi xuống, không bình luận gì về nó.
Trong ánh nắng mặt trời, người đàn bà trông già nua hơn trước. Bà có vài nếp nhăn quanh miệng, và đôi mắt đã hằn vết chân chim.
“Ta đã từng già đi một lần,” bà nói, giọng có hơi khàn đi. “Ta gần như không thể nhớ được điều gì về tuổi già đó, cuộc sống cũ đó, ngoại trừ việc Albert đương ốm. Ông ấy sẽ khỏe trở lại một khi được uống chút rượu. Ông ấy đâu rồi? Ta lúc nào cũng lạc mất ông ấy.”
Tôi nhìn quanh quất, tự hỏi liệu ông Albert nom có kỳ lạ và mơ hồ như người đàn bà này không. Bà ta nhúng cái ly vào trong gàu múc và chìa ly rượu ra. “Ai uống rượu này cũng đều bất tử, lại hồi phục được cả tuổi xuân và sắc đẹp. Ta rất sẵn lòng chia sẻ nó với các con. Ta nghĩ tất cả mọi người đều nên uống nó.”
“Chúng cháu không cần nó,” tôi nói. “Chúng cháu đang còn trẻ mà.”
“Phải, dĩ nhiên là thế. Có lẽ để một ngày nào đó chăng. Sẽ sớm hơn là các con có thể tưởng tượng đấy. Tuổi già dường như đến nhanh không ngờ. Ngày nào đó, các con sẽ cảm thấy nó bò trên da mình như loài nhện.” Khi bà ta nói điều này, những nếp nhăn xuất hiện quanh đôi mắt, và những đường hằn bao lấy khuôn miệng hằn sâu thêm, như thể có một người thợ điêu khắc vô hình đang tạc chúng lên gương mặt bà. “Già đi là một cảm giác thật khủng khiếp.” Cơ thể bà còng xuống. Đôi vai bà gù gập. “Tuổi già, bệnh tật, cái chết. Chúng là những lời nguyền. Tuổi xuân vĩnh cửu, đó là thứ quyền năng lớn nhất mà tất cả mọi người có thể có được, các con đồng ý không?” Hơi thở của bà trở nên khò khè và nặng nhọc. Những đốm đồi mồi xuất hiện trên làn da bà, những mạch máu sẫm màu hơn và nổi rõ mồn một trên đôi tay.
Goldie gật gù. “Tất nhiên. Tất nhiên là bọn cháu đồng ý ạ.”
“Giờ thì ta phải uống đây. Ta cảm thấy cơ thể mình đang héo úa.” Người đàn bà - giờ đã là một bà lão - hớp một hơi dài và sâu, và khi bà làm thế, dấu ấn của thời gian dường như đã tiêu tan. Những đốm đồi mồi biến mất, làn da bà trở lại căng mịn, và đôi vai thẳng lại. Bầy tiên cây bay xao xác xung quanh, kêu lách chách và thì thầm phấn khích khi người đàn bà uống cạn ly rượu, như thể chính bản thân chúng cũng được hồi sinh. Khi cái ly đã hết nhẵn, người đàn bà hoàn toàn trẻ lại.
“Trời đất quỷ thần ơi!” Goldie reo lên. “Thật không thể tin được!”
Người đàn bà giật mình. “Ủa! Hai đứa ở đâu ra vậy?” Bà ta nhìn qua nhìn lại giữa hai đứa tôi, như thể chúng tôi vừa xuất hiện từ trong không khí.
Goldie và tôi nhìn nhau, bối rối. “Chúng cháu vẫn ở đây suốt mà. Chúng cháu đến xin bà ít rượu. Cháu muốn mang về cho bà Ngoại cháu. Bà bị ốm ạ.”
“Ốm ư? Albert nhà ta cũng đương ốm. Giờ nãy nhẽ ra ông ấy phải về nhà rồi. Các cháu có nhìn thấy ông ấy đâu không?”
“Không hề từ khi chúng cháu tới đây ạ.” Có điều gì đó hết sức kỳ quặc vừa xảy ra. Tóc gáy tôi dựng ngược. “Tên bà là gì ạ?” Tôi hỏi. “Bà chưa từng nói cho chúng cháu.”
“Tên ta ư?” Người đàn bà ngơ ngẩn nói. “Sao chứ, họ gọi ta là Phù Thủy Giếng, bất kể họ là ai, dù ta không thích bị gọi là phù thủy. Nghe thật là xấu xí và già nua, và ta thì không già mà cũng chẳng xấu.”
“Nhưng còn tên khác ấy ạ? Tên khai sinh ấy?”
“Khai sinh ư? Ta chưa từng được sinh ra. Ta là kẻ bất tử, các con thấy đó, vì thế ta chẳng có tên. Tên chỉ dành cho những người trần mắt thịt. Những thứ già đi và chết. Ta không hề già đi và chẳng bao giờ chết, nhờ rượu của mình. Nó mới ngon làm sao.” Bà hớp thêm rượu, và một lần nữa thời gian quay ngược. Đôi má bà trở nên tròn trĩnh và ửng hồng, eo lưng mảnh mai trở lại, và thậm chí bà còn lùn thêm vài inch, nên giờ nom bà như mới mười lăm mười sáu.
Goldie sững sờ. “Red à, tớ nghĩ tớ biết cách khiến cho mẹ yêu mình trở lại rồi,” con bé thì thào, nhưng trước khi tôi mở miệng ra hỏi cách, người đàn bà đã nhận ra chúng tôi và giật mình.
“Ủa! Hai đứa ở đâu ra vậy?”
Cảm giác lành lạnh đã biến thành buốt giá khi tôi nhận ra chính xác điều đang xảy ra. Rượu khiến cho người đàn bà trẻ lại, nhưng nó cũng lấy đi trí nhớ của bà ta. Nó quay ngược lại thời gian, nhưng chỉ đối với bà ta, và lũ tiên cây hút sạch toàn bộ ký ức mà bà đánh mất theo từng hớp rượu.
“Chúng cháu đến vì rượu của bà!” Goldie háo hức nói. “Chúng cháu muốn hỏi xin một chút ạ.”
“Dĩ nhiên,” người đàn bà nói. “Ai cũng nên uống nó.” Bà ta chìa ly rượu ra và Goldie vươn tay ra đón lấy, nhưng tôi kéo nó lại.
“Đừng, Goldie!” tôi nói thầm. “Thứ rượu đó xóa sạch trí nhớ của bà ta đó. Bà ấy thậm chí chẳng nhớ gì về chúng mình.”
“Tớ biết,” Goldie thì thầm đáp lại. “Nhưng cậu không thấy sao? Nếu tớ uống vào chút rượu, tớ sẽ nhỏ lại. Mẹ sẽ lại yêu thương tớ như hồi còn bé. Mẹ nói tớ là thứ quý báu nhất trên thế giới này.” Nó quay trở lại với Phù Thủy Giếng. “Rượu có thể khiến cháu trẻ hơn cả bây giờ không ạ?”
“Dĩ nhiên,” người đàn bà đáp, mỉm cười. “Trẻ trung và xinh đẹp. Đó là lý do ta tạo ra nó. Tuổi già và cái chết là những lời nguyền tồi tệ nhất thế gian. Giờ con có thể phá vỡ lời nguyền.” Bà trao cái ly cho Goldie.
Goldie siết chặt những ngón tay quanh đế ly. Liệu thứ rượu này có thật sự tồi tệ đến thế? Có lẽ nếu tôi chỉ cho Ngoại uống một ngụm nhỏ, nó sẽ không khiến bà quên quá nhiều - chỉ vài năm. Bà sẽ vẫn nhớ tôi, đồng thời vẫn mạnh khỏe trở lại. Ngoại sẽ không chết. Nhưng tôi có thể cho Ngoại uống bao nhiêu rượu trước khi Ngoại quên mất tôi? Điều này gần như còn khủng khiếp hơn cái chết, nếu như Ngoại vẫn sống mà không biết tôi là ai.
Goldie nâng cái ly lên môi.
“Goldie, không!” Tôi nhào tới quất văng cái ly. Nó rơi xuống mặt đất và vỡ tan thành hai mảnh. “Ồ, tiếc lắm thay,” phù thủy nói. “Đó là cái ly quý nhất của ta.”
Tôi quan sát chỗ rượu chảy lênh láng trên mặt đất, trái tim nện thình thịch khi những nạm cỏ héo khô chuyển thành một màu xanh ngắt thiếu tự nhiên. “Đủ rồi, đi thôi.” Tôi nắm lấy bàn tay Goldie, nhưng nó rút lại và nhìn tôi trừng trừng như thể tôi là một con quỷ khổng lồ. “Cậu là ai?”
Tôi nhìn kỹ đôi môi của Goldie. Chúng màu đỏ và sáng lên óng ánh. Một tiên cây đang đậu trên vai nó.
Thật đáng nguyền rủa. Goldie đã nuốt phải rượu mất rồi.