← Quay lại trang sách

Chương 17 Hang động thần lùn

Đường hầm dậy mùi hôi thối và ẩm mốc. Trong vòng năm bước chân, chúng tôi bị bủa vây giữa màn tối đen như mực. Thứ duy nhất dẫn đường cho chúng tôi chính là những lời nguyền rủa của tay thần lùn vang vọng khắp các bức tường đá. Như thể không chỉ có một mà là vô số gã thần lùn đang cùng chửi bới một lúc. Tôi nghe thấy các từ “xấu xí”, “ngu xuẩn”, “đốn mạt”, “hạ tiện”, “ngớ ngẩn”, và “phù thủy” cứ lặp đi lặp lại mãi.

Goldie nắm chặt lấy tay tôi, và Sói đi sát cánh ở bên kia. Thái độ điềm tĩnh của nó giúp tôi cảm thấy an tâm, mặc dù bóng tối thật đáng sợ. Mỗi bước chân tôi đi đều chất chứa đe dọa.

“Nơi này thật là sởn gai ốc,” Goldie nói. “Cậu có nghĩ anh ta đang cố dẫn chúng mình đi lạc đường không? Hoặc hại chết chúng ta?”

“Không, y không thể.” Tôi giả bộ tự tin. “Y đã bị ràng buộc với lời hứa đưa chúng ta đến nơi yêu cầu... Ái da!” Tôi vấp phải một hòn đá. Tôi bám vào Sói, nhưng kéo cả Goldie theo cùng, vì vậy chúng tôi té nhào lên một ụ đất.

Goldie phát ra một tiếng thét đinh tai nhức óc, được cái hang động khuếch đại gấp mười. “Cứu với! Cái hang sập rồi! Chúng tôi chết mất!”

“Yên nào, Goldie! Tớ chỉ bị vấp té thôi.”

Goldie ngừng gào thét, nhưng con bé tiếp tục rên rỉ và hắt ra những hơi thở ngắn, không đều đặn. “Tớ muốn ra khỏi đây. Tớ không thích cái bóng tối này.”

“Bình tĩnh nào. Chừng nào còn đi theo thần lùn, chúng ta sẽ ổn thôi.”

Vừa dứt lời, tôi đã nhận ra mình không còn nghe thấy tiếng tay thần lùn nữa. Y đã ngừng lảm nhảm. Tôi lắng tai nghe tiếng bước chân nhưng cũng chẳng thấy gì.

“Thần lùn?” Tôi gọi to. “Anh có ở đó không?”

Goldie tóm chặt cánh tay tôi. “Anh ta để mặc chúng ta chết mục ở đây mất!”

“Y không để mặc chúng ta chết mục ở đây đâu,” tôi đáp, nhưng trái tim bắt đầu đập dồn. “Có thể y vừa rẽ mà chúng ta không để ý chăng?”

Đi theo tôi, Sói nói, và nó lao về phía trước mà không chờ tôi.

“Sói, đợi đã!”

Đi thôi, Sói đáp. Đừng sợ! Thế rồi sự hiện diện của nó nhòa đi khỏi tôi, ngay lập tức tôi thấy cô đơn và không được bảo vệ. Bóng tối mịt mùng đến mức tôi gần như cảm thấy mình không hề tồn tại, nếu không có bàn tay Goldie đang bóp chặt lấy tay tôi.

“Đau! Goldie, đừng nắm chặt thế chứ!”

“Tớ không muốn chết!”

“Chúng ta sẽ không chết. Chúng ta chỉ việc tìm ra các bức vách, như vậy chúng ta sẽ cảm nhận được đường đi dọc theo chiều dài hang động. Cậu tìm bên phải, tớ sẽ tìm bên trái nhé.”

Goldie miễn cưỡng buông tay tôi, và chúng tôi bước dọc theo các bức tường đối diện trong hang, rờ rẫm tìm những đường lượn vòng hoặc góc quanh có thể dẫn đến một đường hầm khác nơi tay thần lùn hoặc Sói có thể đã đi qua, nhưng chẳng thấy gì.

“Tớ nghĩ chúng ta nên quay trở lại thôi. Tớ không nghĩ rằng đây là một ý kiến hayyyyyyyyy...” Tiếng la của Goldie nhanh chóng tắt ngóm theo một cách dường như chẳng tự nhiên chút nào, như thể nó vừa bị nuốt chửng.

“Goldie?” Nhịp tim tôi giờ đang khua ầm ĩ đến mức nó đang vang vọng khắp các bức tường. Tôi dò dẫm tiến thêm một bước. Thình lình dưới chân tôi là khoảng không. Không khí lạnh buốt, ẩm ướt rít ù ù bên tai tôi. Tôi đang rơi thẳng xuống một cái hố tối om và sâu thăm thẳm.

Tôi cứ rơi và rơi mãi, những tâm tư và ký ức ùa về dồn dập trong tôi trên đường lao xuống. Thế rồi, trong bóng tối, tôi nhìn thấy một luồng sáng le lói và...

Phịch!

Tôi hạ cánh xuống một đống gì giống như mùn cưa. Ánh sáng đèn lồng tràn ngập khắp chung quanh, và tôi nhận thấy mình đang phải che mắt lại. Cách đó không xa là Goldie, đang ho khạc và bị bao phủ bởi một lớp đen sì của thứ bột gì đó chúng tôi vừa đáp phải. Nó nom như muội tro và bồ hóng.

Sói đứng chờ ở chân đống tro, đuôi ve vẩy. Nó dường như đang xoay xở tốt một cách đáng ngạc nhiên với cái chân đau, chỉ còn hơi khập khiễng chút đỉnh. Vết thương có vẻ không còn nghiêm trọng như lúc ở bờ sông nữa.

Tay thần lùn đang đứng đợi ở lối ra, tay cầm một chiếc đèn lồng. “Các người lâu quá,” y cằn nhằn.

“Tại sao anh không cảnh báo chúng tôi về cú rơi?” Tôi hỏi, vẫn đang cố trấn tĩnh nhịp tim nện thình thịch của mình.

“Cô có hỏi đâu,” thần lùn nói với một nụ cười độc ác.

“Anh thật là tàn nhẫn khi không báo trước cho chúng tôi,” Goldie trách.

“Đừng có nói với ta về sự tàn nhẫn,” gã nguýt. “Chính các người đã ếm một lời nguyền ghê tởm nhất lên thần lùn.”

Tôi thấy nhói lên đôi chút cảm giác tội lỗi khi sử dụng câu thần chú mà tay thần lùn cho là một lời nguyền. Dĩ nhiên đối với y nó là một lời nguyền. Chúng tôi buộc y phải giúp đỡ khi y không sẵn lòng. Lẽ ra tôi phải hiểu biết hơn. Tôi đã từng nhìn thấy nhiều người bị mắc kẹt trong phép thuật trước đây, và đó không phải là một điều tốt đẹp gì cho cam.

“Luôn là bọn con gái nhỏ nắm lấy râu của chúng ta và bắt chúng ta thực hiện mệnh lệnh của bọn chúng,” tay thần lùn nói tiếp. “Những con bé phù thủy hư đốn.”

“Nhưng còn nàng Bạch Tuyết thì sao?” Goldie nói. “Bảy Chú Lùn rất vui vẻ giúp nàng ấy cơ mà!”

Tay thần lùn lẩm bẩm câu gì đó nghe như “ranh con láo toét”, và bỗng dưng tôi thấy tò mò về cái cách câu chuyện cổ tích nổi tiếng về Bạch Tuyết được kể lại từ quan điểm của một chú lùn. Ngoại nói rằng luôn luôn có ít nhất hai mặt của một câu chuyện (nếu không muốn nói rằng cả tá), và rõ ràng nhân vật nữ chính của câu chuyện không được yêu thích bởi các chú lùn như chúng ta vẫn nghĩ. Và nhất là không phải tay thần lùn này. “Tiếp tục di chuyển thôi. Chúng ta không có cả ngày đâu,” gã thần lùn nói.

“Hượm đã,” tôi nói.

Tay thần lùn quay lại và trừng trừng nhìn tôi. “Vâng, thưa chủ nhân?”

Tôi nhăn mặt trước cách dùng từ của y. Tôi không thể rút lại những gì tôi đã làm, nhưng có lẽ tôi có thể cố khiến cho mọi việc tốt đẹp hơn.

“Tên anh là gì?” Tôi buột miệng hỏi mà không suy nghĩ, nhưng tôi ngay lập tức cảm thấy nó là một điều đúng đắn. Tôi không biết chắc cái tên có bao nhiêu ý nghĩa đối với thần lùn, nhưng có cảm giác gọi y là “Thần Lùn” không phải một hành động tôn trọng.

Tay thần lùn nhướng mày. “Tên tôi là Borlen.”

“Tôi đã không đoán ra đấy,” Goldie nói. “Tôi cứ tin chắc tên anh là Grumpy cơ.”

“Đó không phải là một cái tên, hỡi con bé đần độn! Đó là một sự xúc phạm tới thần lùn của lũ con người hạ tiện!”

“Ồ, nếu như tên gọi gắn liền với vận mệnh...” Goldie nói.

“Thì mi sẽ được gọi là Con Ngốc!” Borlen nói.

“Đó không phải...”

“Cảm ơn, anh Borlen,” tôi nói, ngắt lời Goldie. “Chúng tôi rất cảm kích sự giúp đỡ của anh. Nó có ý nghĩa cực kỳ to lớn với chúng tôi.”

Borlen quay lưng lại với chúng tôi và bước dọc đường hầm, vẫn lầm bầm chửi rủa, nhưng đã nhẹ nhàng hơn trước đó.

Đường hầm này rất hẹp và tối tăm, và nguồn ánh sáng duy nhất đến từ chiếc đèn lồng của Borlen. Sau một loạt những cú ngoặt và rẽ, chúng tôi tiến vào một hang động lớn. Tính từ “lớn” vẫn chưa đủ để mô tả, trên thực tế phải là “mênh mông”, “khổng lồ” hoặc “vĩ đại”. Nó giống như một ngọn núi, chỉ là nhìn từ bên trong.

Bầu không khí đặc biệt ấm áp, mặc dù tôi không nhìn thấy ngọn lửa nào ngoại trừ những ngọn đuốc được cắm trên giá dọc bức tường. Những gờ đá và đường đi chạy chữ chi men theo các thành của hang động, dẫn đến những đường hầm khác. Và khắp mọi nơi là thần lùn. Có đến hàng ngàn gã. Họ làm việc với xe cút kít và cuốc chim, và khắp hang động ngập tràn những tiếng khoan gõ inh tai của việc khai mỏ, Nó gợi nhắc tôi đến khu mỏ ở vùng Ngọn Núi, có điều rộng gấp mười lần, và những thần lùn không đào vàng, mà là đá quý. Những chiếc xe cút kít chở nặng kim cương, xa-phia, ngọc lục bảo và pha-lê đủ mọi hình thù. Có hàng tấn đá quý, chất đống như những vụ mùa vừa thu hoạch trên cánh đồng. Một vài thần lùn đang phân loại đá vào trong các thùng chứa căn cứ vào màu sắc và chủng loại của nó. Một nhóm thần lùn khác đang đổ đá quý vào những cái máng, nơi chúng sẽ được cắt, đánh bóng và chất vào những bao tải đề chữ NGỌC LỤC BẢO SÂU DƯỚI LÒNG ĐẤT, PHA-LÊ NGHIỀN, và XA-PHIA VỤN.

Chúng tôi bước qua một đống đá quý, và Borlen nhặt lên một viên pha-lê màu hồng nhạt rồi ngoạm nó như một củ cà-rốt. Y nhai rau ráu, nuốt rồi phát ra một tiếng ợ đầy thỏa mãn. “Tôi thích ăn chúng còn tươi sống, ngay khi vừa được đào lên khỏi lòng đất,” gã nói, và cắn thêm một miếng nữa.

Goldie và tôi trợn mắt nhìn Borlen. “Anh ăn đá quý sao?” Goldie hỏi.

“Tất nhiên,” Borlen đáp. “Chúng tôi bỏ thời gian đào chúng ra khỏi những tảng đá còn để làm gì khác? Để đeo chúng, như loài người ngớ ngẩn chắc?”

“Nhưng... nhưng... chúng là đá quý mà,” Goldie lắp bắp. “Chúng rất có giá trị. Anh có thể trao đổi chúng lấy bất cứ thứ gì anh muốn!”

“Tại sao chúng tôi lại phải trao đổi đá quý khi đá quý là điều chúng tôi muốn? Thứ duy nhất tôi cần đổi lấy là hồng ngọc. Hồng ngọc là thức ăn ưa thích của tôi.” Đôi mắt gã ánh lên vẻ thèm thuồng.

Tôi lần tìm chiếc nhẫn hồng ngọc của Ngoại đang đeo quanh cổ, nhớ lại những gì bà nói về việc thần lùn thích hồng ngọc, nhưng tôi không hề biết rằng bọn họ thích ăn chúng. Thật khủng khiếp làm sao nếu Borlen chụp lấy chiếc nhẫn hồng ngọc trên cổ tôi và ăn nó ngay trước mắt tôi?”

“Ở đây không tìm thấy hồng ngọc sao?” Tôi hỏi, tò mò.

“Chúng rất hiếm và có giá trị đối với thần lùn,” Borlen nói. “Chúng tôi từng thu hoạch được những vụ hồng ngọc nhỏ ít nhất một tháng một lần trước đây, nhưng số lượng chúng ngày càng giảm đi theo thời gian. Đã nhiều năm rồi tôi không nhìn thấy viên hồng ngọc nào. Tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để có được một viên. Chúng có hương vị đậm đà nhất.” Borlen nhắm nghiền mắt, hẳn là đang tưởng tượng đến một viên hồng ngọc giống như cái cách tôi ứa nước miếng trước một trái dâu tây chín mọng. Chiếc nhẫn của Ngoại nặng thêm một chút quanh cổ tôi.

“Đi thôi,” Borlen nói, quay trở lại với vẻ cáu bẳn thường thấy, như thể gã vừa xao lãng một nhiệm vụ. “Lẽ ra ta đã có thể đào hồng ngọc ngay bây giờ, thay vì phải dính lấy ba đứa tụi bây.”

Chúng tôi đi bộ dọc theo một cái gờ hẹp. Vài thần lùn dừng tay và nhìn ngó, số khác nhìn chúng tôi chằm chằm, hiển nhiên biết rõ những việc tàn nhẫn chúng tôi đã làm để buộc Borlen dẫn chúng tôi đi xuyên qua hang động. Borlen gục đầu xuống vì xấu hổ khi chúng tôi đi qua. Tôi lại cảm thấy thêm một cơn dằn vặt khác.

Chúng tôi leo lên rìa đá mỗi lúc một cao hơn. Hóa ra thật sự có những dòng sông lửa chảy bên dưới chúng tôi! Từ trên cao nhìn xuống, chúng tôi có thể nhìn thấy chúng uốn lượn giữa những cây cầu đá, cột đá, tỏa ánh sáng màu cam và sủi bọt. Hèn gì ở đây hầm hập như một cái lò. Tôi đồ rằng thần lùn không ngán sức nóng, nhưng làm sao họ có thể sống ở một nơi chốn như thế này?

“Các anh ngủ ở đâu?” Goldie hỏi.

“Chúng tôi có nhà trong các hang động,” Borlen nói.

“Với giường ngủ, buồng tắm, bàn ghế và đồ đạc chứ?”

“Dĩ nhiên. Các người coi chúng tôi là cái giống gì? Quỷ lùn chắc?” Borlen gầm gừ.

Chúng tôi đi vòng vèo vào trong, rồi ra ngoài những đường hầm trong suốt nhiều giờ đồng hồ. Vài đường hầm gập ghềnh và tối tăm, số khác lại phẳng phiu và sáng sủa, được mài nhẵn bởi những con lạch nước chảy ngoằn ngoèo xuống các bức tường. Vài đường hầm lấp lánh như hàng ngàn những viên đá tí hon dính vào với nhau, mặc dù Borlen bảo chúng tôi rằng đó đơn giản chỉ là hiệu ứng của những khoáng chất chứa trong đá. Trong nhiều hang động, trần và sàn hang có những nhũ đá và măng đá khổng lồ. Đôi khi chúng nối với nhau tạo thành các cột đá, khiến cho hang động trông giống như một cung điện nguy nga.

“Tớ chưa bao giờ hình dung ra thế giới trong lòng đất trông như thế này,” Goldie trầm trồ. “Tớ cứ ngỡ nó chỉ toàn đất bùn và giun dế.”

“Nó rất đẹp,” tôi nói.

Borlen cố nén một nụ cười, rõ ràng rất hài lòng vì những lời ngợi ca chúng tôi dành cho nhà y. “Thần lùn chúng tôi đã sống trong những hang động này suốt nhiều ngàn năm nay, trước cả khi loài người xuất hiện.”

“Trời ạ, tôi chưa bao giờ nghĩ đến một thời đại trước cả con người,” Goldie nói.

Borlen chế nhạo. “Phải rồi, loài người các cô luôn tự đánh giá quá cao bản thân mình. Nghĩ rằng các người thống trị cả thế giới, đúng không? Nhưng có rất nhiều sinh vật cao quý đã tồn tại rất lâu trước các người. Anh bạn sói của các cô đây cũng là một giống nòi cổ xưa như thần lùn, và tôi dám khẳng định rằng chúng tôi sẽ vẫn tiếp tục tồn tại sau khi các người tự dắt tay nhau đi tới bờ tuyệt chủng. Chúng tôi đã tích lũy được nhiều kiến thức về những bí ẩn của trái đất còn hơn cả những con người uyên bác nhất, thậm chí hơn cả phù thủy.”

Đúng, Sói tán đồng.

“Này, đừng lấy thế làm tự mãn nhé,” tôi nói với Sói.

Cuối cùng chúng tôi bắt đầu lên dốc, rốt cuộc cũng đi lên thay vì cứ đi vào, xuyên qua và lượn vòng.

Goldie vấp ngã và chúi vào người tôi. Tôi giúp nó đứng dậy, nhưng nó cưỡng lại và ngồi thụp xuống dựa vào vách hầm.

“Tớ không thể...,” nó rên rỉ.

“Chúng mình sắp đến nơi rồi. Nhìn kìa! Tớ có thể thấy ánh sáng!”

Tôi dìu Goldie đứng dậy, và nó dựa vào tôi khi chúng tôi đi về phía nguồn sáng bé như cái đầu kim ở trên đầu.

RẮCCCCCCC!

Borlen chửi thề bên dưới hơi thở hào hển. “Nhanh lên,” y rít. “Những đường hầm này có thể trở nên rất thiếu ổn định khi càng lên gần bề mặt.”

Chúng tôi rảo bước nhanh nhất có thể, và cái vòng tròn ánh sáng mỗi lúc một to ra và sáng thêm. Những vụn đá dăm và bụi bặm rơi rào rào xuống chúng tôi từ trên trần. Và rồi những bức tường bắt đầu kêu răng rắc thêm, và những hòn đá lớn bắt đầu rơi xuống, kích thước ngang ngửa với cái đầu tôi.

“Lùi lại! Quay trở lại!” Borlen hét lớn, và chúng tôi quay người chạy về hướng ngược lại. Những hòn đá tiếp tục rơi như mưa lên đầu chúng tôi. Borlen thả rơi cái đèn lồng, và xung quanh vụt trở nên tối om.

“Tôi không nhìn thấy... Ái!” Goldie kêu lên.

Sói kêu ủng oẳng, và Borlen hổn hển và rền rĩ, nhưng dù cảm nhận được đất đá đang dội lên đầu mình, tôi vẫn không hề cảm thấy đau đớn.

Chiếc áo choàng của tôi. Nó vẫn đang bảo vệ tôi, như nó đã từng bảo vệ tôi khỏi con gấu và lũ yêu tinh.

“Mọi người đến chỗ tôi mau!” Tôi hô lớn. Goldie và Sói ngay lập tức chạy tới và chui xuống dưới chiếc áo, nhưng Borlen thì không.

“Borlen!” Tôi gọi. Tôi dò dẫm, đập tay khắp xung quanh đến khi vỗ trúng đầu y.

“Đừng có chạm vào tôi... Á!” Gã thở hổn hển khi đất đá tiếp tục trút xuống.

“Tôi xin lỗi, nhưng điều này là vì anh thôi.” Tôi tóm lấy râu y và giật y về phía mình, rồi phủ chiếc áo choàng lên cả đám trong khi những tảng đá vẫn ầm ầm dội xuống. Chúng nảy lên và lăn khỏi mũ trùm của tôi như một cơn mưa đá khổng lồ, rồi nhỏ dần đi và thưa thớt hơn cho đến khi chẳng còn gì hơn ngoài những làn bụi.

“Mọi người ổn cả chứ?” tôi hỏi.

“Tớ ng-nghĩ thế,” Goldie ré lên.

“Sói?” Tôi gọi. Tôi có thể cảm thấy mũi nó ươn ướt chạm vào bàn tay.

“Borlen?” Một tiếng rên rỉ nghèn nghẹt cất lên.

“Ôi! Xin lỗi!” Goldie nói. Con bé di chuyển, và Borlen hớp hớp lấy hơi. “Anh vẫn ổn chứ?” Goldie hỏi.

“Đứa con gái ngu ngốc, suýt khiến ta chết ngạt. Đi thôi,” Borlen nói. “Lối này.”

“Lối nào cơ?” Goldie hỏi. “Tôi chẳng nhìn thấy gì cả.”

“Đi theo giọng nói của tôi. Đặt cả hai bàn tay lên tường.” Borlen nói.

“Tôi nghĩ chúng ta nên đi sát vào Red,” Goldie nói. “Để đề phòng một trận lở đá nữa.”

“Nếu cô giữ yên lặng và di chuyển, sẽ không lở nữa đâu,” Borlen nạt.

“Nhưng, ở cạnh Red vẫn an toàn hơn chứ.” Goldie cầm lấy bàn tay tôi, còn Sói kề sát bên kia, và tôi mừng vì xung quanh tối om, nếu không mọi người sẽ nhận ra mắt tôi đang ướt. Chưa ai từng nói với tôi rằng họ cảm thấy an toàn hơn khi ở bên tôi trước đây.

Chúng tôi rẽ qua một khúc quanh, và nhìn thấy ánh sáng! Ban đầu chỉ là một luồng sáng yếu ớt, nhưng trở nên mạnh hơn theo mỗi bước chân. Tôi nhìn bộ dạng của cả đám. Chúng tôi đều bị bao phủ trong bụi đất. Sói không phải đen tuyền nữa, mà xám ngoét như tro. Những búp tóc vàng óng của Goldie biến thành nâu xám xỉn, còn chiếc áo choàng của tôi thì dù không còn màu đỏ, nhưng cũng không hề xuất hiện một vết rách. Nó vẫn hoàn toàn nguyên vẹn.

Chúng tôi đi tới một cánh cửa nhỏ xíu có kích thước dành cho thần lùn. Borlen gõ, và vài giây sau một thần lùn khác ra mở cửa. Thần lùn này có đôi mắt xanh lơ lấp lánh, vui tươi hơn Borlen nhiều, và một bộ râu trắng xóa dài đến rốn.

“Borlen!” ông thần lùn nói. “Nhân danh hồng ngọc, con đã ở đâu vậy?”